1. Dẫn luận
Hệ thống triết lý nhà Phật khá phức tạp, kinh sách lại quá nhiều, Đại
thừa và Tiểu thừa có chủ trương khác nhau, quan điểm tư tưởng của từng
bộ phái lại khác nhau, không những chỉ khác biệt đôi khi còn là mâu
thuẩn phản bác lẫn nhau, điều đó rất khó khăn cho người tìm hiểu Phật
giáo. Dẫu vậy, nhưng nếu chúng ta dựa vào quá trình phát triển của Phật
giáo Ấn độ, ngang qua các nguồn tư liệu còn giữ lại, sử dụng các phương
pháp khoa học phân tích, nó cho chúng ta hiểu khá rõ ràng về Phật giáo
Ấn độ. Nội dung của Bộ kinh A hàm hay Nikàya cho thấy, quan điểm tư
tưởng của thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, đức Phật chủ trương, những ai
muốn thành đạt mục đích giác ngộ và giải thóat, cần phải từ bỏ gia đình,
xuất gia sống độc cư trong rừng núi, tu tập thiền định, không quan tâm
đến khía cạnh triết học siêu hình, cho nên đức Phật từ khước không trả
lời những vấn đề mang tính siêu hình, như thế giới hữu biên hay vô biên,
Như lai hữu chung hay vô chung, thân và mạng là một hay khác…đã được gạn
hỏi bỡi những nhà triết học hay tôn giáo đương thời. Thế nhưng, sau khi
đức Phật nhập diệt, Phật giáo Bộ phái đã công khai trả lời những vấn đề
này phái Độc tử bộ đã chủ trương ‘Ngã pháp hằng hữu’, Hóa Địa bộ chủ
trương ‘Quá khứ vị lai vô, hiện tại vô vi hữu’, Hữu bộ lại chủ trương
‘Ngã không pháp hữu’. Thế nhưng, Phật giáo Đại thừa lại không đồng tình
cho rằng, chủ trương của các Bộ phái là cực đoan chấp hữu, cho nên Kinh
Bát Nhã đã chủ trương cho rằng ‘Tất cả pháp đều là không’ hay Long Thọ
(NŒgŒrjuna) cho rằng ‘Duyên khởi tánh không’.
Như vậy, nếu như Phật giáo Nguyên thủy giữ thái độ im lặng, không trả
lời những vấn đề triết học siêu hình, đó là nguyên nhân để hình thành tư
tưởng của Phật giáo Bộ phái. Cũng vậy, chính vì các nhà Hữu bộ cực đoan
chấp hữu, cho nên tư tưởng không của Phật giáo Đại thừa xuất hiện. Nói
một cách khác, các lý thuyêt của các phái Phật giáo là nguyên nhân dẫn
đến tư tưởng của Phật giáo Đại thừa. Điều này cũng phù họp với nguyên
lý: “Cái này có cho nên cái kia có, cái này sinh cho nên cái kia sinh”
mà đức Phật đã giác ngộ dưới cội cây Bồ đề. Chúng ta muốn tìm hiểu ý
nghĩa và nội dung của ‘cái kia’ tại sao có, trước tiên chúng ta phải tìm
hiểu nội dung và ý nghĩa của ‘Cái này’ có là gì. Khái niệm ‘Hữu’ (Bhàva)
hình thành nó có bối cảnh lịch sử cụ thể của nó, không phải là cái tư
nhiên mà có, do vậy nếu chúng ta không đồng tình phê phán học thuyết
này, cần nghiêm túc tìm hiểu ý nghĩa bản than của nó như thế nào và tại
sao tư tưởng này xuất hiện, không nên tự mình gượng ép gán cho nó một ý
nghĩa nào đó, rồi phê phán.
Nội dung thảo luận của bài viết này, tập trung vào khái niệm Hữu
(bhava) của Hữu bộ, và tất nhiên để làm cho khái niệm này rõ ràng, cần
phải khảo sát đến quan điểm tư tưởng của Độc Tử bộ (VŒts´putr´ya) và Hóa
Địa bộ (Mahi§Œsaka). Đây là nội dung của bài viết này.
2. Tư liệu
Phần lớn các nhà nghiên cứu Phật học đều đồng ý rằng, kinh tạng của
Hữu Bộ gồm có: “Kinh Tạp A-hàm” (雜阿含經) và “Kinh Trung A-hàm” (中阿含經);
Luật tạng có :“Thập Tụng Luật” và “Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết
Tỳ-nại-da”;Luận tạng có: 1. “Pháp Uẩn Túc Luận” (法蘊足論), 2. “Tập Dị Môn
Túc Luận”(集異門足論), 3. “Thi Thiết Luận” (施設足論), 4. “Phẩm Loại Túc Luận”
(品類足論), 5. “Giới Thân Túc Luận” (界身足論), 6. “Thức Thân Túc Luận” (識身足論),
7. “Phát Trí Luận” (發智論) và 8. “Đại Tỳ Bà Sa Luận”(大毗婆沙論). Đây là 3 tạng
thánh điển của phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (SarvŒstivŒdin) còn lưu lại
trong Hán Tạng. Nguồn tư liệu này không có trong Kinh tạng Nam truyền
(tiếng PŒli).
Từ đó cho thấy, nếu chúng ta muốn nghiên cứu tư tưởng của phái Hữu
Bộ, không thể bỏ qua nguồn tư liệu bằng chữ Hán. Không những chỉ có thế,
ngay cả việc nghiên cứu về Phật học Ấn độ, nguồn tư liệu này cũng đóng
một vai trò khá quan trọng trong việc tìm hiểu lịch sử phát triển tư
tưởng Phật học ở Ấn độ. Về mặt văn bản học, dẫu rằng Hán Tạng là dịch
bản, nhưng nguyên bản không còn, do vậy dịch bản được xem như là nguồn
tư liệu gốc. Hơn nữa, lịch sử Phật giáo Ấn độ, ở thời kỳ Phật giáo Bộ
phái, Thuyết Nhất Thuyết Hữu là phái phát triển mạnh nhất, không những
chỉ ở mặt hình thức, ngay cả mặt tư tưởng triết học cũng chiếm vị trí
quan trọng, các luận sư của phái này có ảnh hưởng rất lớn đối với giới
tri thức trong Phật giáo và ngay cả xã hội. Chúng ta có thể nói Hữu Bộ
là phái tiêu biểu đại diện cho thời kỳ Phật giáo Bộ phái. Nếu như chúng
ta đồng ý cho rằng, tư tưởng chấp hữu của Hữu Bộ là tiền đề để cho tư
tưởng Phật giáo Đại thừa, thì nguồn tư liệu này càng trở nên quan trọng
cho việc nghiên cứu tìm hiểu tư tưởng của Phật giáo Đại thừa.
3. Tư tưởng
3.1 Tam thế hữu
Thuyết Nhất Thiết Hữu (SarvŒstivŒdin) là một trong 18 hay 20 phái của
Phật giáo Ấn độ, thuộc hệ tư tưởng của Thượng tọa bộ. Đứng từ góc độ
lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn độ mà nhìn, Hữu Bộ là phái xuất hiện sau
phái Độc Tử và Hoá Địa Bộ, không thể xuất hiện trước hai phái này, như
Thế Hữu (Vasumitra) đã ghi trong “Dị Bộ Tông Luân Luận”1. Một chứng minh
cụ thể là, nội dung tác phẩm “Thức Thân Túc Luận” chủ yếu phản bác tư
tưởng của hai phái này, điều đó đồng nghĩa tư tưởng của hai phái này
phải xuất hiện trước, Hữu bộ mới không đồng tình, lấy đó làm đối tượng
thảo luận.
Sự xuất hiện tư tưởng của Hữu bộ, do quá trình các nhà Hữu bộ tranh
luận phản bác tư tưởng cho rằng: ‘quá khứ vị lai vô, hiện tại vô vi hữu’
(過去位來無,現在無為有) của phái Hoá Địa bộ, và phủ định tư tưởng ‘ngã (pudgala)
hằng hữu’(我恆有)2 của phái Độc Tử Bộ, do vậy phái này đã hình thành tư
tưởng: ‘Tam thế thật hữu, pháp thể hằng tồn’ (三世實有,法體恆存). Có nghĩa là
các nhà Hữu bộ cho rằng, 3 thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) là có thật,
bản thể của các pháp tồn tại vĩnh viễn, không phải là giả có. Thế nào
gọi là tam thế hữu ? Trong “Thức Thân Túc Luận” các nhà Hữu Bộ lý giải
về vấn đề này như sau:
Nguyên văn:
沙門目連作如是說:過去、未來無,現在無為有。應問彼言:汝然此不謂契經中世尊善語善詞善說:若有內眼結,如
實了知我有內眼結;若無內眼結,如實了知我無內眼結…..彼答言:爾…若言知過去,應說:有過去,不應無過去,言:過去無不應道理。若言:知未來,應說:有未來,不
應:無未來,言:未來無不應道理…3
Việt dịch:
Tôn giả Muc Kiền Liên (MahŒmaudgalyŒyana) đưa ra lập luận: Nếu như
(Hoá Địa Bộ) cho rằng,không có quá khứ cùng vị lai, chỉ có pháp vô vi
trong hiện tại, thì chất vấn đối phương rằng, trong kinh đức Thề Tôn
thường dạy: Nếu con mắt có phiền não, nên như thật biết: con mắt có
phiền não; Nếu con mắt không có phiền não, cũng như thật tuệ tri, mắt
không có phiền não…Hoá Địa Bộ trả lời rằng: Đúng như vậy…Nếu nói: biết
quá khứ’, điều đó đồng nghĩa xác nhận: ‘có quá khứ’ không nên nói không
có quá khư; có quan điểm cho rằng, không có quá khứ là không hợp lý; Nếu
nói ‘biết vị lai’ nên hiểu là có vị lai, không nên có quan điểm ‘không
có vị lai’, cho rằng ‘không có vị lai là không họp lý.
Ý nghĩa và nội dung đoạn văn vừa dẫn trên, là lời phản bác của phái
Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ đối với quan điểm cho rằng, không có quá khứ và
vị lai chỉ có hiện tại của phái Hoá Địa Bộ. Các nhà Hữu Bộ căn cứ vào
lời dạy của Thế Tôn được ghi lại trong kinh điển A hàm4, lấy đó làm cơ
sở để phản bác tư tưởng của đối phương. Lập luận cho rằng, nếu như thừa
nhận, trong quá khứ ta đã tu tập như thế này hay như thế kia’, có nghĩa
là chúng ta đã thừa nhận có ‘quá khứ’; Nếu chúng ta nói: ‘hy vọng tương
lai như thế này hoặc như thế kia’. Câu nói này cũng mang ý nghĩa thừa
nhận có ‘vị lai’. Nếu không có quá khứ và tưong lai thì không thể có câu
nói ‘tôi biết những việc trong quá khứ như thế này thế kia’, cũng không
thể có ý nghĩ tôi ước mong trong tương lai sẽ như thế này hay như thế
kia’. Do vậy xác định có quá khứ hiện tại và tương lai.
Cũng cùng trình bày quan điểm này, trong “Đại Tỳ Bà Sa Luận” còn giải
thích rõ ràng hơn.
Nguyên văn:
復有愚於三世自性,謂撥無過去、未來,執現在是無為法。為止彼意,顯過去、未來體相實有,及顯現在是有為法。
所以者何?若過去、未來非實有者,應無成就及不成就。如第二頭、第三手、第六蘊、第十三處、第十九界。無有成
就及不成就,過去未來法亦應爾;既有成就及不成就,故知實有過去、未來。5
Việt dịch:
Lại có kẻ ngu muội đối với tự tánh của 3 đời, có nghĩa là họ không
thừa nhận có quá khứ và vị lai, chỉ thừ nhận có pháp vô vi trong hiện
tại. Vì mục đích làm cho chúng khai ngộ, cho nên chỉ rõ cho họ thấy thể
tướng của vị lai là thật có, va hiện tại chỉ là pháp hữu vi. Ý nghĩa như
thế nào ? Có nghĩa là nếu thật sự không có khái niệm quá khứ và vị lai
thì khái niệm ‘thành tựu’ hay ‘không thành tựu’ không có ý nghĩa. Điều
đó chẳng khác nào như có cái đầu thứ hai, có tay thứ ba, (trong Phật
pháp) có từ 6 uẩn, 13 xứ, 19 giới v.v….Nếu như thừa nhận không có khái
niệm ‘thành tựu không thành tựu’, thì cũng không có khái niệm ‘quá khứ
và vị lai’; Ngược lại, xác định có khái niệm ‘thành tựu hay không thành
tựu’ thì điều đó cũng có ý nghĩa thừa nhận có ‘quá khứ và vị lai’.
Qua đó cho thấy, các nhà Hữu Bộ và Độc Tử Bộ không cùng quan điểm tư
tưởng. Độc Tử Bộ cho rằng, Quá khứ vị lai là khái niệm không có thật,
chỉ có hiện vô vi mới có thật; Ngược lại, quan điểm của Hữu Bộ thì không
cho như thế, cho rằng khái niệm thời gian về quá khứ vị lai và hiện tại
phải có thật. Nếu như không có quá khứ và vị lai thì khái niệm ‘thành
tựu’ hay ‘không thành tựu’6 sẽ trở thành vô nghĩa, không có giá trị, vì
nếu không có quá khứ và vị lai thì làm gì có hiện tại. Từ những ý nghĩa
này, các nhà Hữu Bộ đưa đến kết luận: Về mặt thời gian, không những chỉ
có khái niệm ‘hiện tại’ mà ngay cả khái niệm ‘quá khứ và vị lai’ cũng có
thật. Đây chính là ý nghĩa câu ‘tam thế thật hữu’ của Hữu Bộ. Nó cũng
chính là nhân tố hình thành tư tưởng ‘không có quá khứ vị lai và hiện
tại’ trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
3.2 Bản thể của các pháp là thật có
Các nhà Hữu Bộ không những cho rằng, 3 thời đều thật có mà còn có
quan điểm cho rằng, thể tánh của các pháp luôn luôn tồn tại và có thật.
Ý nghĩa của quan điểm này như thế nào ? Để cho vấn đề được khách quan và
rõ ràng, chúng ta ngang qua nguồn tư liệu của Hữu Bộ tìm hiểu ý nghĩa
này. Theo “Thức Thân Túc Luận” giải thích:
Nguyên văn:
有六識身,謂:眼識、耳、鼻、舌、身、意識。眼色為緣生眼識。如是眼識唯能識諸色,非補特伽羅,此補特伽羅非
眼識所識,唯有諸色為眼識所識。是故此眼識非補特伽羅。7
Việt dịch:
6 thức thân bao gồm nhãn thức, nhĩ thức, thiệt thức, thân thức và ý
thức. Nhãn sắc (sắc pháp) là yếu tố làm sanh khởi của nhãn thức. Như
vậy, chức năng của nhãn thức là sự nhận thức các sắc, nó vốn không phải
là Bổ-đặc-già-la (pudgala),nó cũng không phải là đối tượng nhận thức của
nhãn thức, chỉ có các sắc mới chính là đối tượng nhận thức của nhãn
thức. Do vậy, nhãn thức không phải là Bổ-đặc-già-la (ngã).
Như chúng ta được biết, phái Độc Tử Bộ chủ trương ‘ngã pháp hằng
hữu’, có nghĩa là ‘ngã’ và ‘pháp’ đều tồn tại vĩnh viễn. Ở đây, khái
niệm ‘Ngã’ chỉ cho tinh thần, linh hồn, hay chủ thể nhận thức. Thật ra,
Độc Tử Bộ không sử dụng khái niệm ‘ngã’ mà gọi là pudgala, tiếng Hoa
dịch âm là Bổ-đặc-già-la (補特伽羅), ý nghĩa của hai từ này gần giống nhau;
‘Pháp’ hay nói đúng hơn là ‘sắc pháp’ tiếng Phạn gọi là rèpa. Khái niệm
này, thật khó tìm một từ tiếng Việt có ý nghĩa tương đồng, vì khái niệm
‘sắc’ mà các nhà Hữu Bộ định nghĩa bao gồm cả ‘biểu sắc’ (vij–apti-rèpa,
表色) và ‘vô biểu sắc’((avij–apti-rèpa,無表色). Biểu sắc là những loại có
hình tướng hay đối ngại; Vô biểu sắc là những loại sắc không có hình
tướng. không có đối ngại như ‘pháp xứ’, là những đối tượng nhận thức của
ý thức.
Nhưng qua nội dung đoạn văn vừa dẫn trên, nó cho chúng ta thấy, các
nhà Hữu Bộ không chấp nhận quan điểm ‘Ngã hằng hữu’ hay ‘Bổ-đặc-già-la
(pudgala) hữu’ của Độc Tử Bộ, nhưng qua đọan văn trên các nhà Hữu Bộ lại
không đề cập đến quan điểm ‘pháp hằng hữu’. Tuy nhiên ở một nơi khác các
nhà Hữu Bộ chấp nhận quan điểm ‘Pháp hằng hữu’ . Như trong “Đại Tỳ Bà Sa
Luận” giải thích.
Nguyên văn:
我有二種:一者,法我;二者,補特伽羅我。善說法者,唯說實有法我,法性實有,如實見故不名惡見。外道亦說:
實有補特伽羅我。補特伽羅非實有性、虛妄見,故名為惡見。8
Việt dịch:
Ngã có hai loại:một là‘pháp ngã’, hai là ‘Bổ đặc già la ngã’. Nếu
người nào có quan điểm đúng thì cho rằng: Chỉ có ‘pháp ngã’ là thật có,
quan điểm này không thể gọi là tà kiến. Kẻ ngoại đạo cho rằng, thật có
‘Bổ đặc già la ngã’. Thật ra Bổ đặc già la không có thật tánh, nó vốn là
quan điểm hư vọng, cho nên gọi là ác kiến.
Ở đây, khái niệm ‘ngã’ được các nhà Hữu Bộ phân tích gồm hai phần.
Một là ‘pháp ngã’, hai là ‘Bổ đặc già la ngã’. Theo Hữu Bộ ‘pháp ngã’ là
cái có thật, không phải là giả có. ‘Bổ đặc già la ngã’ là cái giả họp,
không thật có, vì chúng là cái được hình thành do nhân duyên, 5 uẩn tạo
thành, nên nó là giả có, nhưng pháp là thật có. Thế thì theo quan điểm
của các nhà Hữu Bộ cái gì gọi là ‘pháp ngã’(法我) ? Thật ra khái niệm
‘pháp ngã’ này, các nhà Hữu Bộ ám chỉ cho những gì thuộc ‘sắc pháp’ của
con người. ‘Sắc pháp’ được Hữu Bộ định nghĩa như sau:
Nguyên văn:
云何色法?答曰:十入、一入少分。十入者,眼、耳、鼻、舌、身、色、聲、香、味、觸;一入少分者,謂:法入。
云何無色法?答曰:一入,謂:意入,一入少分,謂:法入。問曰:云何名色法?云何名無色法?答曰:若法名是色
,體是色是色;若法名非色,體非色是無色。復次若法,體是四大,及四大造是色;若法體非四大,非四大造是無色 。9
Việt dịch:
Cái gì gọi là sắc pháp?Đáp:10 xứ (cũng gọi là nhập) và một bộ phận
nhỏ của xứ (=pháp xứ) xứ. 10 xứ là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp; Một bộ phận nhỏ của xứ là pháp xứ. Cái gì
được gọi là vô sắc pháp?Đáp: Một trong 12 xứ là ‘ý xứ’ và một bộ phận
nhỏ của pháp xứ. Hỏi: Cái gì được gọi là ‘sắc pháp’?Cái gì được gọi là
‘vô sắc pháp’?Đáp:Cái gì được gọi là sắc pháp là thể của pháp ấy thuộc
về sắc, gọi đó là sắc pháp; Pháp được gọi là phi sắc, tức thể của nó
không phải là sắc, cho nên gọi là vô sắc. Lại nữa, pháp nào thể của nó
là tứ đại và do tứ đại tạo thành, cái đó gọi là sắc; Pháp nào thể của nó
không do tứ đại tạo thành thì pháp đó gọi là vô sắc.
Ở đây, các nhà Hữu Bộ định nghĩa khái niệm sắc pháp rất đặc thù,
không giống như chúng ta hiếu, phân chia sắc pháp làm hai loại: hữu sắc
và vô sắc. ‘hữu sắc’ hay nói đúng hơn là ‘biểu sắc’ là sắc uẩn
(rèpa-skandha) trong 5 uẩn (pa–ca-skandha); là 10 xứ (: nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân và sắc, thinh, hương, vị, xúc) trong 12 xứ và một bộ phận
của ‘pháp xứ’. Hay nói một các khác, tứ đại và tất cả những gì do tứ đại
là đất (p¨thiv´-dhŒtu) nước (jala-dhŒtu,ap-dhŒtu) gió (vŒyu-dhŒtu) lửa
(agni-dhŒtu) tạo ra, cái ấy được gọi là ‘sắc’ (rèpa). Có nghĩa là ngoài
tứ đại (catur-mŒhŒbhètŒni) mà ta đã biết còn có những loại như là âm
thanh, mùi thơm thúi, vị ngon ngọt đắng cay…, và các cảm xúc của thân
đều được gọi là sắc pháp. Ngoài ra còn có một bộ bộ phận của ‘pháp xứ’
là những ảnh tượng của 5 ngoại xứ trước, nó cũng được gọi là ‘sắc pháp’,
hay nói cho đúng hơn gọi nó là ‘vô biểu sắc’. Cái gì gọi là ‘phi sắc’ ?
là những cái gì không do tứ đại tạo thành, cái đó là ‘thức uẩn’ trong 5
uẩn, ‘ý xứ’ trong 12 xứ, hay nói cách khác là tâm, ý và thức.
Như vậy, các nhà Hữu bộ cho rằng, cái thực có là ‘sắc pháp’. Nhưng ở
đây chúng ta cũng cần chú ý, sắc (rèpa) mà các nhà Hữu Bộ cho là thật
có, không phải là giả có, chính là bản chất của tứ đại, không phải cái
do tứ đại tạo thành. Như nhà cửa, thân thể, xe cộ.v.v…đều là cái giả có.
Thế thì cái gì là thật có ? Các nhà Hữu Bộ cho rằng, là những yếu tố dể
hình thành những cái này, nó vốn là thật có, không thể là giả có. Thế
thì những yếu tố thật có đó là gì? Các nhà Hữu Bộ giải thích, nó là ‘cực
vi’, là đơn vị cực nhỏ, không có đơn vị nào nhỏ hơn nó. Như “Đại Tỳ bà
Sa Luận” giải thích.
Nguyên văn:
問:彼極微量復云何知?答:應知極微是最細色,不可斷截、破壞、貫穿,不可取捨…不可分析,不可睹見,不可
聽聞,不可嗅嘗,不可摩觸,故說極微,是最細色。此七極微成一微塵…七微塵成一銅塵…七銅塵成一水塵…七水 塵成一兔毫塵…10
Việt dịch:
Hỏi: Thể lượng của cực vi như thế nào?Đáp: Cực vi là đơn vị cực nhỏ,
không thể cắt xén, phá hoại, xỏ xuyên, lấy bỏ…phân chia..cũng không thể
dùng mắt thấy, dùng tai nghe, mũi ngưởi và thân xúc chạm, vì tính chất
của nó như vậy cho nên gọi là cực vi, là loại sắc cực nhỏ. 7 cực vi kết
lại thành một vi trần…bảy vi trần kết lại thành 1 đồng trần,…, 7 đồng
trần kết lại thành 1 thủy trần…, 7 thủy trần kết lại thành 1 sợi lông
thỏ…
Như vậy, cái mà các nhà Hữu Bộ cho là thật có chính là ‘sắc pháp’.
Nhưng sắc mà chúng ta thấy lại không phải là cái có thật mà là giả có,
vì nó do nhân duyên kết họp mà thành. Như vậy sắc nào là sắc thật có ?
Chính là ‘cực vi sắc’, là đơn vị nhỏ nhất, là cái không thể nhỏ hơn nữa,
nhỏ cho đến không thể phân chia, phá bỏ, cũng không thể dùng mắt thấy,
tai nghe, mũi ngưởi, lưỡi nếm và cảm xúc. Những gì mà chúng ta có thể
thấy nghe, ngưởi, nếm và cảm xúc là cái đã được kết họp nhiều cực vi
lại. Như luận này mô tả là, 7 cực vi kết lại thành 1 vi trần, 7 vi trần
kết lại thành 1 thủy trần, 7 thủy trần kết lại thành 1 đầu sợi lông thỏ.
Như vậy, sắc mà chúng ta thấy được, sờ mó được là sắc giả có, vì do vô
số cực vi kết lại mà thành. Do vậy, chúng ta có thể nói, sợi lông thỏ là
giả, nhưng những cực vi để kết thành sợi lông là thật. Theo Hữu bộ nếu
cực vi là giả thì sợi lông không có. Cực vi là bản thể của các pháp, bản
thể là cái có thật, hiện tượng là cái giả có. Nói một cách khác, tứ đại
là có thật, cái gì do tứ đại tạo thành, cái ấy là giả có. Đây là quan
điểm ‘pháp thể hằng hữu’ của Hữu Bộ.
Thế nhưng, làm thế nào từ một cực vi đơn lẽ rời rạt mà kết họp hình
thành một sự vật mà chúng ta có thể thấy và nhận thức được ? Có thể nói
đây chính là lý do tại sao các nhà Hữu Bộ hình thành học thuyết 6 nhân
(sad-hetu) 4 duyên (catvara-pratyaya). Hay nói một các khác ‘6 nhân 4
duyên’ là lý thuyết của Hữu Bộ, với mục đích nhằm giải thích qui luật
cấu kết hình thành mọi sự vật trong thế gian.
Thế thì tại sao các nhà Hữu Bộ không lấy thuyết Duyên khởi (pratìtya
samutpàda) hay 12 nhân duyên (Dvàdasàngapratìtya samutpàda) giải thích,
mà phải thành lập thuyết 6 nhân 4 duyên ? Sự khác biệt nào giữa thuyết 3
thuyết này?Theo người viết, nếu chúng ta căn cứ vào nội dung và ý nghĩa
của từng mỗi học thuyết thì nó có ý nghĩa khác nhau. Ví dụ, thuyết Duyên
khởi được mô tả là: ‘Cái này có cho nên cái kia có, cái này không cho
nên cái kia không’11. Với nội dung và ý nghĩa này, nó cho chúng ta nhận
thức, pháp duyên khởi là qui luật chung, nhằm giải giải thích sự hình
thành các pháp. Pháp đó có thể là pháp thuộc về tâm hay thuộc về vật
chất. Nhưng để lý giải tường tận một vấn đề nào trong hai vấn đề này,
thì nguyên tắc này vẫn vẫn chưa làm rõ rang vấn đề. Ví dụ, giải thích lý
do tại sao nổi đau khổ xuất hiện và biến mất, đức Phật không trực tiếp
dùng lý thuyết duyên khởi giải thích, mà căn cứ nguyên tắc chung này
hình thành thuyết 12 nhân duyên, mới có thể lý giải nổi khổ của con
người tại sao sinh ra và biến mất. Như vậy, 12 nhân duyên là lý thuyết
chuyên giải thích về sự xuất hiện và chấm dứt khổ đau thuộc trạng thái
tâm lý, nó không phải là nguyên tắc giải thích sự hình thành và biến mất
của các hiện tượng vật chất. Thế nhưng, vấn đề mà các nhà Hữu Bộ quan
tâm thưộc vấn đề vật lý, không phải là tâm lý, do vậy không phái này
không thể lấy lý thuyết 12 duyên để lý giải vấn đề hình thành và họai
diệt của các hiện tượng vật chất, cho nên các nhà Hữu Bộ căn cứ nguyên
lý chung của lý thuyết duyên khởi, hình thành thuyết 6 nhân 4 duyên, với
mục đích giải thích nguyên tắc hình thành các pháp. Thảo luận các pháp
tồn tại hay không tồn tại, có hay không nó luôn luôn gắng liền với khái
niệm về thời gian, nếu thời gian không có thì không thể thảo luận chúng
tồn tại hay không tồn tại, có hay là không. Đó là lý do tại sao các nhà
Hữu bộ đưa ra hệ thống lý luận: ‘3 đời thật có, thể tánh của các pháp là
thường hằng’12. Có lẽ đây chính là lý do tại sao trong “Trung Luận” phẩm
đầu tiên là ‘Phẩm quán nhân duyên’ Long Thọ cực lực phản bác lý thuyết
‘Nhân duyên’. Ở đây chug ta cần chú ý rằng, từ ‘nhân duyên’ ở đây là từ
giản lược của từ 6 nhân 4 duyên là lý thuyết của các nhà Hữu bộ, nó
không tương đồng lý thuyết ‘Duyên khởi’ (pratìtya samutpàda) hay thuyết
‘12 nhân duyên’ mà đức Phật đã giảng dạy. Vì ‘6 nhân 4 duyên’ là học
thuyết của các nhà Hữu Bộ, với mục đích nhằm giải thích mối quan hệ giữa
các pháp, hay nói đúng hơn, thuyết minh bản chất của thuyết này là thật
có. Liên quan đến điểm này “Đại Tỳ Bà Sa Luận” giải thích:
Nguyên văn:
若法與彼法作因,或時此法不與彼法作因耶?答:無時非因。問:何故作此論?答:為止愚於因緣法執因緣性非實有
者意,顯因緣法體性實有故作斯論。13
Việt dịch:
Hoặc là pháp này làm nhân cho pháp kia, hoặc là khi nào pháp này
không làm nhân cho pháp kia ? Đáp:Không có lúc nào (sự hình thành các
pháp) mà không có nhân. Hỏi:Lý do tại sao hình thành lý thuyết
này?Đáp:Vì mục đích ngăn ngừa kẻ ngu muội cố chấp về luật nhân duyên và
cho rằng, tánh chất của nhân duyên là chẳng có thật, do vậy làm sang tỏ
thể tánh của nhân duyên là thật có, cho nên thành lập lý thuyết này.
Qua nội dung và ý nghĩa của dẫn văn cho thấy, mục đích mà các nhà Hữu
Bộ thành lập thuyết 6 nhân 4 duyên nhằm giải thích nguyên tắc hình thành
các pháp, phản bác quan điểm tư tưởng cho rằng, không nhân không duyên,
hay nói đúng hơn các nhà Hữu Bộ xác nhận thuyết 6 nhân 4 duyên là thật
có. Nói một cách dễ hiểu hơn, theo cái nhìn của các nhà Hữu Bộ, tất cả
những hiện tượng trên thế giới này chỉ là sự kết cấu của các cực vi. Thế
thì ở đây vấn đề được đặt ra là, bằng cách nào để nối kết giữa các cực
vi ấy thành vật có thể thấy, nghe hay cảm xúc được?Câu trả lời của các
nhà Hữu bộ chính là do 6 nhân 4 duyên là học thuyết giải thích nghi vấn
này. Học thuyết này được đề cập khá phổ biến trong các luận của Hữu Bộ.
Như trong “Đại Tỳ Bà Sa Luận” đề cập thuyết này như sau: Trước tiên là
thuyết 6 nhân.
Nguyên văn:
說六因義皆不盡故,若作盡理無餘說者,應作是說;云何相應因?謂:一切心、心所法;云何俱有因?謂:一切有為
法;云何同類因?謂:一切過去、現在法;云何遍行因?謂:一切過去、現在遍行隨眠,及彼相應俱有法;云何異熟
因?謂:一切不善及善有漏法;云何能作因?謂:一切法。14
Việt dịch:
Thuyết 6 nhân có ý nghĩa vô cùng tận, khó có ai có thể lý giải được
hết ý nghĩa của nó, do vậy chỉ đơn giản giải thích như thế này. Cái gì
gọi là ‘tương ưng nhân’?Là tất cả những pháp thuộc về tâm và tâm sở;Cái
gì gọi là ‘câu hữu nhân’?Là tất cả những pháp thuộc về hữu vi;Cái gì gọi
là ‘đồng loại nhân’Là tất cả pháp thuộc về quá khứ cũng như hiện tại;Cái
gì gọi là ‘biến hành nhân’?Là tất cả pháp thuộc khá khứ và hiện tại biến
hành với tùy mien, và nó có lien hệ đến ‘tương ưng nhân’ và ‘câu hữu
nhân’;Cái gì gọi là ‘Dị Thục nhân’Là những pháp thuộc về thiện bất thiện
va hữu lậu;Cái gì gọi là ‘năng tác nhân’?Là tất cả pháp.
Ở đây, 6 nhân là: 1. ‘Tương ưng nhân’ (samprayukta-hetu) là sự tương
ưng giữa pháp này với pháp khác. Ví dụ, con mắt tương ứng với sắc pháp,
lỗ tai tương ứng với âm thanh….; 2. ‘Câu hữu nhân’ (sahabhu-hetu) hay
còn gọi là ‘cọng hữu nhân’, ‘cọng sanh nhân’ là mối quan hệ giữa nhân và
quả. Ví dụ trong quả có nhân, trong nhân có quả; 3. ‘Đồng loại nhân’
(sabhŒga-hetu) cò gọi là ‘tự phân nhân, ‘tự chủng nhân’ , có nghĩa là
tất cả pháp thuộc hữu lậu, từ quá khứ đến hiện tại có chung một chủng
loại, như thiện pháp tương ưng cùng thiện pháp, ác pháp tương ưng với ác
pháp, không thể tương ưng với thiện pháp; 4. ‘Biến hành nhân’
(sarvatraga-hetu) là những nhân tố phổ biến. Như mọi chúng sanh đều có
phiền nào, phiền não là yếu tố phổ biến của chúng sanh, như vậy phiền
não là nhân tố phổ biến của mọi chúng sanh; 5. ‘Dị thục nhân’
(vipŒka-hetu) chỉ cho những nhân tố chiu cảm thiện ác nghiệp quả của 3
đời; 6. ‘Năng tác nhân’ (kŒrana-hetu), còn gọi là ‘sở tác nhân’ ‘tùy tạo
nhân’, chỉ cho bản than của vật đó có khả năng sinh ra cái khác. Như đất
có khả năng sinh cỏ; con người có khả năng sanh suy tư…Đây là khái quát
nội dung và ý nghĩa của thuyết 6 nhân.
Tiếp đến chúng ta thử tìm hiểu nội dung và ý nghĩa của 4 duyên. Trong
“Phát Trí Luận” đề cập như sau:
Nguyên văn:
有四緣:一、因緣;二、等無間緣;三、所緣緣;四、增上緣。15
Việt dịch:
Có 4 duyên: 1. Nhân duyên; 2. Đẳng vô gián duyên; 3. Sở duyên duyên;
4. Tăng thượng duyên.
Ở đây, cái được gọi 4 duyên (catvara-pratyaya) là: 1. ‘Nhân duyên’
(hetu-pratyaya), tức chỉ cho bản thân sự vật có khả năng sinh ra cái
khác. Ví dụ như hạt giống có khả năng sinh ra mầm cây. Như vậy, hạt
giống là nhân duyên của mầm cây; 2. ‘Đẳng vô gián duyên’
(samanantara-pratyaya) là ám chỉ cho những loại duyên liên tục, không bị
gián đoạn. Ví dụ như hít thở, ăn uống là điều kiện trợ giúp cho sự sống
con người, các duyên này liên tục có mặt không dứt đoạn. Như vậy, hít
thở, thức ăn uống là ‘đẳng vô gián duyên’ của con người; 3. Sở duyên
duyên (ˆlambana-pratyaya), tức chỉ cho ‘pháp xứ’ trong 12 xứ, vì nó là
đối tượng nhận thức của ý thức; 4. ‘Tăng thượng duyên’
(abhipati-pratyaya) chỉ cho các yếu tố trợ giúp cho nhân phát triển. Ví
dụ như các loại phân bón, nước, ánh sáng…là trợ duyên cho sự trưởng
thành của hạt giống, các trợ duyên này gọi là ‘Tăng thượng duyên’. Đây
là nội dung và ý nghĩa của thuyết 4 duyên.
Qua nội dung và ý nghĩa của thuyết 6 nhân 4 duyên, nó gợi ý cho chúng
ta thấy, các nhà Hữu Bộ thành lập học thuyết này nhằm củng cố học thuyết
của mình và lý giải sự hình thành các pháp ở thế gian, tức là bằng những
yếu tố nào các ‘cực vi’ có thể kết hợp lại thành những hiện tượng vật
thể chúng ta có thể thấy nghe ngưởi nếm và cảm xúc được. Nếu không có
thuyết 6 nhân 4 duyên này, quan điểm cực vi của mình sẽ tồn tại trong sự
rời rạt, thế giới vật thể không do đâu mà có. Có thể nói, đây là một
trong những lý thuyết cơ bản của các nhà Hữu Bộ, nó là cơ sở lý luận để
thuyết minh lý thuyết ‘thật hữu’ của mình. Các luận sư của phái này
không những chỉ có quan điểm: ‘Thể tánh của các pháp là thật có’ mà còn
cho rằng, thuyết 6 nhân 4 duyên này cũng thật có.16
4. Kết Luận
Tóm lại, ở giai đoạn Phật giáo nguyên thủy, đạo Phật không chú trọng
đến những vấn đề triết học siêu hình, do đó ở thời kỳ này đạo Phật không
thảo luận những vấn đề mang tính siêu hình. Nhưng dù muốn hay không
những hoài nghi mà các ngoại đạo đã đưa ra gạn gỏi Phật giáo vẫn còn đó.
Sau khi Phật nhập diệt, phải chăng nó là yếu tố dẫn đế sự hình thành các
trào lưu tư tưởng của Phật giáo Bộ phái. Quan điểm cho rằng, ‘Ngã pháp
hằng hữu’ của Độc Tử bộ, và quan điểm: ‘quá khứ vị lai vô, hiện tại vô
vi hữu’ của Hoá Địa Bộ, nhất là quan điểm: ‘Tam thế thực hữu, pháp thể
hằng tồn’ của phái Hữu Bộ. ‘Tam thế hữu’ là đề cập đến mặt thời gian,
quá khứ hiện tại và vị lai, 3 điểm thời gian này là có thật, vì nếu
không có khái niệm thời gian thì các pháp không thể thảo luận đúng hay
sai, có hay không. Như vậy, sự tồn tại của các pháp luôn luôn gắng liền
với khái niệm thời gian. Có thể nói đây là cơ sở lý luận của Hữu bộ. Xét
cho cùng, quan điểm cho rằng, ‘Ngã pháp hằng hữu’ hay ‘quá khứ vị lai
vô, hiện tại hữu, hay ‘Ngã không pháp hữu’… chúng có mối quan hệ mật
thiết đến những vấn đề siêu hình đã được đưa ra ở thời ký Phật giáo
Nguyên thủy. Nói cách khác, những vấn đề siêu hình trong thời Phật giáo
nguyên thủy, đức Phật giữ thái độ im lặng, không trả lời, thì sau khi
đức Phật nhập diệt, sau đó Phật giáo dần dần đã lý giải vấn đề này.
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục
đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật
giáo. Nhưng dù gì đi nữa, những tư tưởng này đã ẩn chứa trong đó những
yếu tố mâu thuẫn với tư tưởng của Phật giáo Nguyên thủy. Ví dụ học
thuyết của Hữu Bộ, rõ ràng sẽ mâu thuẫn với tư tưởng duyên khởi, vô
thường vô ngã của đức Phật. Có thể nói, đây chính là nguyên nhân hình
thành tư tưởng ‘tất cả pháp đều không’ của Kinh Bát Nhã hay tư tưởng
‘duyên khởi tánh không’ của Long Thọ. Nếu đây là một quan điểm đúng với
quá trình phát triển tư tưởng của Phật giáo Ấn độ, thì những quan điểm
tư tưởng trong Kinh Bát Nhã hay các luận của Long Thọ có mối liên hệ
trực tiếp đến tư tưởng của Hữu Bộ. Thật như thế nào, chúng ta không thể
chỉ suy đoán mà cần phải thực tế tra cứu đối chiếu từ hai nguồn tư liệu
của hai hệ tư tưởng này.
_____________________________
KINH SÁCH THAM KHẢO
-“Kinh Tạp A hàm”, Viện NCPHVN ấn hành
-“Kinh Trung A hàm”, Viện NCPHVN ấn hành
-《發智論》(CBETA, T26,No.1544)。
-《大毗婆沙論》(CBETA ,T27,No.1545)。
-《阿毗曇婆沙論》(CBETA, T28,No.1546)。
-《識身足論》(CBETA, T26,No.1539).
-《異部宗輪論》(CBETA, T49).
1 Theo “Dị Bộ Tông Luân Luận” (Dị Bộ) ghi: sự ra đời phái Hữu Bộ
trước phái Độc Tử bộ và Hoá Địa Bộ. Điều này không họp lý, vì “Thức Thân
Túc luận” là tác phẩm với nội dung phản bác tư tưởng của Hoá Địa bộ. Do
vậy, Hoá Địa Bộ là phái phải có trước Hữu Bộ.
2 Độc Tử Bộ cho rằng: ‘Ngã Pháp hằng hữu’. Quan điểm này Hữu Bộ chỉ
chấp nhận ‘pháp hữu’, nhưng không chấp nhận ‘Ngã hữu’. Tức là có một cái
‘Ngã’ vĩnh hằng, nhưng phái này không gọi là ‘Ngã’ mà gọi là ‘Pudgala’,
Hoa dịch là 補特伽羅(Bổ đặt già la).
3 Xin tham khảo:《阿毗達磨識身足論》(T26,, No. 1539, p. 533a).
4 Ví dụ “Kinh Trung A hàm” ‘Kinh Ôn Tuyền Lâm Thiên’ ghi rằng: “…Này
chư Hiền, Tỷ kheo quả thật có sắc, được biết bỡi sắc, khả ý, khả lạc,
khả niệm….Này chư Hiền, nếu Tỷ kheo có nhãn, sắc và nhãn thức. Đối với
vị lai những gì chưa được thì muốn được, đã được rồi tâm mong ước…”
(Viên NCPHVN ấn hành, 1992, trang 691~892).
5 唐.玄奘譯:《大毗婆沙論》〈結蘊第二中十門納息〉(T27,No.1545,p.393a)。
6 Hũu Bộ căn cứ vào trong kinh điển A hàm hay Nikàya, đức Phật khuyên
các vị Tỷ kheo, nếu Tỷ kheo siêng năng tu tập các pháp này sẽ chứng đắc
những quả vị này; Nếu Tỷ kheo biếng nhác không tu tập thì không thành
tựu quả vị thánh đạo.
7 《識身足論》(T26,No.1539,p.545b).
8 唐.玄奘譯:《毗婆沙論》卷第九(T27,No.1545,p.41c)。
9 唐.玄奘譯:《阿毗曇婆沙論》(T28,No.1546,p.281c~292a)。
10 《大毘婆沙論》卷第一百 (T27, No. 1545,P.702a).
11 HT. Thích Thiện Siêu dịch, “Kinh Tạp A hàm”, Kinh số 298, Viện
NCPHVN ấn hành, trang 632.
12《大毘婆沙論》 (T27,No.1545,p.79a).
13《大毘婆沙論》 (T27,No.1545,p.982b).
14 《大毘婆沙論》 (T27,No.1545,p.80a).
15 《發智論》(T26,No.1544,p.547b~c)。
16 《大毗婆沙論》(T27,No.1545,p.47a~b)。