Như vậy người huynh đệ tự hỏi: chánh kiến là hành thiện, hay không thiện, không ác?
Và đi xa hơn một chút, thế nào là định nghĩa đúng của chữ hành thiện
(vì có rất nhiều cạm bẫy hiểu lầm: biết bao nhiêu kẻ quá khích lại
tưởng mình hành thiện)?
Tôi có cảm tưởng rằng câu hỏi đặt ra cũng là câu hỏi chung của nhiều
Phật tử, trong đó có tôi. Nỗi băn khoăn, khắc khoải đó hoàn toàn có căn
cứ, và không phải là dễ dàng giải đáp.
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ
chủ trương bởi đạo Phật: một thái độ tạm gọi là chính thống, có tính
chất phổ thông và mô phạm; và một thái độ phóng khoáng, dành cho hạng
“thượng căn”, và đặt nặng vào trí tuệ. Nói một cách giản lược, một bên
lấy “diệt khổ” làm cứu cánh, theo con đường vạch ra bởi các Bộ Kinh
(Nikaya) của đạo Phật Nguyên thuỷ; một bên lấy “tuệ giác” làm cứu cánh,
theo tinh thần Bát Nhã (Prajna-paramita) của Thiền tông.
Nếu không phân biệt thiện-ác, thì làm sao mà hành thiện?
Nhưng nếu phân biệt thiện-ác, thì còn vướng mắc vào cái nhìn thiển cận,
méo mó, sai lạc của nhị biên, còn chưa thấy được cái Không của sự vật…
Phải chăng một bên hướng về tục đế, là sự thật tương đối của cuộc đời,
liên quan tới cách xử thế giữa những con người và với cả các sinh vật,
với thiên nhiên; và một bên hướng về chân đế, là một sự thật không thể
nào diễn tả được, một sự thật như như, sự thật trong sự thật?
Thật ra, tôi có cảm tưởng đạo Phật trong căn bản không phải là một
triết lý mô phạm, một hệ thống luân lý, chỉ dạy cho con người phải làm
cái này, không làm cái nọ, thiện như thế này, ác như thế nọ. Giới là để
giúp định, định là để giúp tuệ. Tự nó giới không có ý nghĩa gì, chấp
chặt vào nó còn là một chướng ngại cản trở việc tu hành (giới cấm thủ).
Ngay cả hai từ “thiện” và “ác” cũng không có trong đạo Phật nguồn
gốc, mà là những chữ mượn tiếng Trung Hoa để dịch hai từ Pali “kusala” và “akusala”. “Kusala” gồm các ý muốn gây nên nghiệp tốt (kamma-cetana), đi cùng với 3 căn tốt là không tham (alobha), không sân (adosa) và không si (amoha). Ngược lại, “akusala” gồm các ý muốn gây nên nghiệp xấu, đi cùng với 3 căn xấu là tham (lobha), sân (dosa) và si (moha).
Như vậy thì những điều “thiện” là những nhân tốt đưa tới những quả
tốt, lìa phiền não, diệt khổ đau, và những điều “bất thiện” là những
nhân xấu đưa tới những quả xấu, phiền não, khổ đau. “Thiện” hay “ác” là
tính chất của những gì đưa tới hạnh phúc hay khổ đau. Con người muốn
chọn hạnh phúc hay khổ đau, chỉ cần hành thiện hay hành ác. Do đó, một
trong những lời kinh quen thuộc nhất đối với người Phật tử là “Không làm các điều ác, Thành tựu mọi việc lành, Giữ tâm ý thanh tịnh, Ấy lời chư Phật dậy” (Kinh Pháp Cú, 183).
Mọi việc như vậy đã có vẻ sáng sủa và giản dị.
Hỡi ôi, cuộc đời không đơn giản, bởi vì chính con người không đơn giản. Triết gia Pháp Montaigne đã có câu “Giữa thiện và ác, chỉ có một nửa vòng xoáy ốc”, tức là một đường tơ, kẽ tóc.
Có một số điều thiện hay ác thật là phân minh, rõ ràng, những cũng có
một số điều thiện hay ác không rõ rệt chút nào, tuỳ theo hoàn cảnh, xã
hội mà thay đổi trắng den.
Chẳng hạn như khi nhìn thấy cảnh tượng một con báo đuổi rượt một con
nai, thì chúng ta lấy làm thương hại con nai và cầu mong cho con nai
chạy thoát khỏi. Ta có thể lấy súng ra bắn con báo và cứu con nai, và
như vậy làm việc thiện đối với con nai và cả gia đình nó. Nhưng làm như
vậy cũng là làm việc ác đối với con báo, bởi vì nó chết hoặc bị thương
và sẽ để đàn con nó chết đói.
Trong một cuộc chiến tranh cũng vậy, đứng bên này chiến tuyến là
người anh em, thiện hữu, bên kia chiến tuyến là kẻ địch, ác đảng. Chỉ
cần thay đổi bên chiến tuyến, là thiện- ác thay đổi bên, và làm quay
mũi súng.
Lại nữa, một việc thiện mình làm chắc gì đâu đã là một việc thiện? Đó
có thể là một việc thiện đối với mình, nhưng không phải việc thiện đối
với người nhận. Có thể một việc thiện ngày hôm nay sẽ trở thành một
điều ác ngày mai, chỉ có thời gian mới cho biết rõ.
Mình cũng
phải tự hỏi rằng làm việc thiện đó là cho mình hay cho người? Nếu là để
được tiếng khen, được biết ơn, được mát mẻ trong lòng hay để “lương tâm
bớt cù”, thì đó còn phải là việc thiện hay không? Hành thiện đúng ra
thì phải theo tinh thần “vô ngã”, mà đã “vô ngã” rồi, thì hkông còn
người cho, không còn người nhận, không còn người hành thiện nữa.
Cuối cùng, thiện – ác cũng là ở trong tâm của mình, chứ không ở nơi đâu xa lạ. Trong mình có Phật tính, nhưng cũng có Ma vương. Chừng nào chưa hiểu được điều đó, thì mình vẫn chưa hiểu mình (hãy nhớ câu gnothi seauton của Socrate), vẫn còn vật lộn với chính mình, vẫn còn phân chia ra cái đầu và cái bụng…
Alan W. Watts, trong cuốn The Wisdom of Insecurity, có nhấn
mạnh vào điều đó. Con người giống như con rắn mù Ouroboros luôn luôn
tìm cách cắn chiếc đuôi của mình. Đó là một vòng luẩn quẩn nó chỉ thoát
ra khỏi được khi sáng mắt ra, và ý thức được một cách rõ rệt rằng đầu
và đuôi là một, thuộc vào một cơ thể đồng nhất. Ảo tưởng đầu và đuôi
tách rời nhau, là do chính cái đầu tạo nên.
Khi chúng ta dự kiến làm việc thiện, mà không làm được, đó là tại vì
chúng ta tạo dựng nên ảo tưởng “ thiện”, ảo tưởng “tương lai”, rốt cuộc
chỉ là những vọng niệm không hơn không kém. Mộng mị về điều thiện cũng
là mộng mị, chứ chẳng cứ là phải mơ tưởng tới điều bất thiện. Mong cầu
giác ngộ, giải thoát cũng là vọng niệm, nghĩ đên việc phải làm, nghĩ
đến tương lai cũng là vọng niệm (bạn hẳn còn nhớ câu “vô trí, diệc vô đắc…vô sở đắc cố…viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn” trong Bát Nhã Tâm Kinh).
Một trong những ám ảnh dai dẳng của người hành giả là sự an ninh.
Chúng ta sợ sự bấp bênh, nên muốn tìm một cái gì vững chắc, một chiếc
kim chỉ nam, một bàn thạch để mà dựa lên, bám víu vào đó. Nhưng càng
bám víu vào, lại càng cảm thấy nó trơn tuột, càng chới với giữa dòng
nước chảy xiết, càng vùng vẫy lại càng cảm thấy chìm xuống nhanh. Chỉ
có cách là bình tĩnh buông thả mình, nương theo dòng nước, rồi mới dần
dần xáp lại bờ. Cuộc đời vốn là vô thường, không có gì là vững chắc,
phải chịu là như vậy. Nếu đợi cho biển cả lặng im rồi mới nhổ neo, thì e
rằng sẽ không bao giờ rời bến.
Cứ luẩn quẩn tự hỏi phải làm thế nào, phương pháp ra sao, đi theo
chiều hướng nào, con đường nào…Theo pháp môn nào, chùa nào, thầy
nào…Tất cả đều là trật lất!
Chỉ có một chuyện phải làm, đó là ý thức và sống một cách tỉnh thức phút giây hiện tại. Không có bí quyết gì ngoài : “Hãy sống ! Hãy nhìn ! “ (Sois ! Regarde !)
A.Watts lấy một thí dụ: bạn đang nghe một bản nhạc. Tôi bỗng nhiên
hỏi bạn: “Hiện giờ, bạn là ai?". Định thần một lát, bạn sẽ trả lời: “Tôi tên là…, sanh ngày…, ngụ tại…, làm nghề…, một vợ… con”.
Nhưng câu trả lời này trả lời về quá khứ, chứ không phải về hiện tại
của bạn. Lúc nghe câu hỏi, bạn đang nghe nhạc, thì câu trả lời phải là
bản nhạc. Bạn đang sống trong bản nhạc, thì đáng lẽ ra bạn phải trả lời
bằng cách hát lại cho tôi nghe bản nhạc đó.
Giả dụ như tôi TNP, tôi hỏi bạn : “Hiện giờ bạn là ai?” thì bạn chỉ cần trả lời bằng cách tiếp tục đọc dòng chữ này, bởi vì bạn đang sống giữa những dòng chữ này…
Những câu chuyện đối đáp giữa các thiền sư và thiền sinh , hay những
hành động đập gậy la hét, véo mũi véo tai, cũng chỉ nhằm kéo hành giả
trở về kinh nghiệm sống hiện tại, tức là sự thật duy nhất mỗi người có
thể chứng thực được.
“Không làm các điều ác, Thành tựu mọi việc lành…”
Lời Kinh Pháp Cú vẫn còn đọng lại trong tai mỗi người Phật tử. Và
không phải chỉ riêng trong đạo Phật, mà trong mọi tôn giáo khác, trải
qua mọi thời đại, người ta luôn luôn kêu gọi làm việc lành, tránh việc
ác, yêu thương lẫn nhau, xoá bỏ hận thù, hướng về tương lai…
Nhưng mặc dù có cái văn hoá “hướng thiện” phổ biến đó, chúng ta có
thể tự hỏi vì sao lịch sử loài người đầy rẫy những điều ác độc, những
cuộc chiến tranh, những vụ thảm sát, máu chảy thành sông, xương chất
thành núi, gây những đau thương không thể nào tả xiết? Vì sao trong xã
hội luôn luôn phải có luật pháp trừng trị và đe răn? Vì sao, sau bao
nhiêu thiên niên kỷ phát triển của loài người, với bao nhiêu thành quả
đáng kể về khoa học, kinh tế, xã hội, thế giới chúng ta vẫn sống trong
những giờ phút tối tăm của lịch sử, giữa nghèo đói và bạo động, mà tác
nhân chính vẫn là con người?
Phải chăng là con người không biết đâu là “thiện”, không biết đâu
là “ác”? Hay là biết đâu là “thiện” nhưng không làm được, biết đâu là
“ác” nhưng không tránh được?
Có lẽ cả hai câu trên đều đúng: “thiện /ác” chưa chắc gì đã phân biệt
được dễ dàng, và là một điều hết sức tương đối, như chúng ta đã đề cập
đến. Và dù phân biệt được, lý trí con người chưa chắc gì đã thắng được
những cái đam mê (passions), mà trong đạo Phật thường gọi là tam độc
(tham, sân, si)...
Theo nhà triết học Mỹ Nagel, các lý thuyết đạo đức có thể được phân
chia ra làm 2 loại khác biệt: một bên là những lý thuyết “suy luận”
(déductive), hay “độc đoán” (autoritariste) dựa trên những tiền đề
(axiomes a priori) hoặc những điều tự nó hiển nhiên (évidents an soi),
về tốt và xấu, điển hình là triết lý của Kant. Trong đó cũng có triết
lý “vị lợi” (utilitaire), như của Bentham: việc “thiện” là việc làm lợi cho mình và cho người khác, mang lại thú vui hay hạnh phúc cho mình và cho người khác.
Bên kia là những lý thuyết “qui nạp” (inductive), với sự từ chối mọi
tiền đề siêu hình hoặc chủ thuyết. Chúng không có tính chất ép buộc, xơ
cứng, mà ngược lại, cởi mở và có tính chất tiến hoá (évolutive). Như
Spinoza, khi ông nói : “Chúng ta không thể nào biết được một cách chắc chắn cài gì tốt hay xấu, nếu không thực sự hiểu được sự vật…”.
Như vậy, chỉ có trí tuệ mới giúp được con người phân biệt tốt/ xấu, thiện/ác.
Thí dụ như khi được biết rằng con bọ ngựa (mantis religiosa) cái, ngay
sau khi giao cấu với con đực (bé nhỏ hơn nhiều), giết ngay ông chồng
mình và ăn thịt nó một cách ngấu nghiến, thì chúng ta lấy làm gớm
ghiếc.
Nhưng khi hiểu rằng con bọ ngựa cái làm như vậy để nuôi trứng của
mình bằng chất đạm cần thiết cho sự phát triển của chúng, thì chúng ta
thấy rõ rằng hành động tự nhiên của con bọ ngựa cái chỉ nhằm bảo tồn
loài giống, chứ không có lý do gì khác.
Bọ ngựa cái không “ác” vì tội “giết chồng”, mà bọ ngựa đực cũng không
là người cha “gương mẫu”, tự “hy sinh” cho đàn con mình. Dù sao, sau 6
tiếng đồng hồ giao cấu, nó cũng kiệt sức và sớm muộn gì cũng chết, vậy
thì làm thức ăn bổ béo cho vợ con nó thì cũng là một điều tiện lợi,
phù hợp với nguyên lý tiết kiệm của thiên nhiên!
Nhìn những gì xảy ra trong thiên nhiên, chúng ta sẽ thấy không có
“thiện” mà cũng không có “ác”. Thiên nhiên không hiền từ mà cũng không
ác độc, không thiên vị mà cũng không lãnh đạm. Bởi vì nó không biết đạo
đức là gì, đạo đức chỉ là những giá trị mà con người và xã hội tự đặt
ra cho mình. Trong thiên nhiên, tất cả những gì xảy ra đều là do sự “tất yếu” (nécessité), bởi vì nếu không xảy ra như vậy, thì sẽ không có như vậy, như vậy,… do luật tiến hoá chung của vũ trụ.
Khoa học cho chúng ta biết rằng ngay trong cơ thể các sinh vật, trong các tế bào, đã có một hiện tượng gọi là apoptose, tức là sự chết có chương trình (mort
programmée) của các tế bào, dường như mỗi tế bào sinh ra đã mang trong
mình sự qui định về sự huỷ diệt của nó. Ngoài sự qui định đó ra, còn
nhiều qui định khác nằm trong các gien di truyền, là nền tảng của các
hormones và hệ thần kinh có tác động quyết định nên tập tính các động
vật.
Chẳng hạn như con ong thợ, khi làm những công việc như hút mật hoa
mang về tổ, hay xả mình quyết chiến với những kẻ thù muốn xâm nhập tổ
ong để bảo vệ ong chúa, thì nó không hề biết “thiện/ác” là gì, không hề
biết hành động của mình là một hành động hy sinh, quên mình vì tập
thể. Nó chỉ thể hiện cái bản năng, cái “chương trình” mang trong các
gien của nó, và chương trình đó chỉ nhằm một mục đích: bảo tồn nòi
giống.
Con báo hay con rắn cũng vậy, khi chúng vồ hay cắn mồi, một con “nai
vàng ngơ ngác” hay một “cánh chim bay về tổ ấm”, hành động đó cũng chỉ
nhằm bảo tồn sự sống, theo qui định của thiên nhiên.
Chỉ có con người mới đặt ra vấn đề “thiện/ác”, vì đã mất tự nhiên và hồn nhiên...
Trở về các triết lý đạo đức, thì quan niệm của Socrate cũng không
khác gì mất Spinoza, khi ông cho rằng “không có kẻ nào ác một cách cố
tình” (nul nest méchant volontaire- ment). Hành động ác là do một lý do
bất thường nào đó thúc đẩy. Khi hiểu được lý do đó, thì người ta dễ
thông cảm và tha thứ hơn. Và nếu hiểu rõ được mình, người và sự vật,
thì người ta đã không làm ác.
Do đó triết lý sống phải dựa lên trên sự hiểu biết. Mạnh tử cũng quan
niệm rằng “nhân chi sơ tính bản thiện”, và Rousseau cho rằng chính xã
hội làm hư hỏng con người, làm mất cái bản tính hồn nhiên hoang sơ của
nó.
Đạo Phật từ xưa đến nay vẫn đặt nền tảng vào trí tuệ. Trong những lời
dạy của đức Phật trong kinh điển Pali, đức Phật luôn luôn dùng lý luận
và ẩn dụ để dẫn mỗi đệ tử đi tới kết luận của chính mình.
Đạo đức của đạo Phật không có tính chất sơ cứng ép buộc, điển hình là
khi nói đến Bát Chánh đạo, đức Phật không định nghĩa thế nào là chánh,
thế nào là bất chánh. Và kinh Kalama cũng là một trong những lời dậy
căn bản của đức Phật: hãy giữ tinh thần phê phán, hãy giữ tự do suy tư
của mình, đừng đi theo lời đồn đãi, lời truyền thống, lời dẫn giải của
bất cứ ai, hãy theo kinh nghiệm của chính mình mà tiến bước, tự mình
thấy điều tốt thì theo, điều gì xấu thì bỏ…
Mặc dầu trong Phật giáo đôi khi có những truyền thống cứng nhắc (như
giới luật, nghi lễ, hay thái độ đối với phụ nữ trong Bát Kỉnh Pháp),
nhưng đó không phải là điều cốt yếu trong đạo Phật. Có hay không có
những truyền thống đó, cũng không thay đổi gì trong sự phát triển và
cách áp dụng đạo Phật trong đời sống hàng ngày.
Theo tôi, nếu phải xếp loại theo quy Nagel, thì tôi sẽ đặt triết lý
đạo đức Phật giáo vào loại “qui nạp” (inductive), ngược lại với các tôn
giáo khác. Tức là không có tính chất xơ cứng, giáo điều, bất di bất
dịch, mà vẫn sẵn sàng mở rộng cho mọi phê bình, mọi tiến hoá.
Đạo Phật nguồn gốc đã như vậy rồi, nhưng với tinh thần Bát Nhã của
Đại thừa, với sự phân biệt tục đế và chân đế, với tánh Không vào tinh
thần Thiền tông thì điều đó lại rõ ràng hơn nữa.
Có lẽ đó cũng là một nơi gặp gỡ giữa Phật giáo và khoa học. Dĩ nhiên
khoa học tự nó không có đạo đức, nhưng các nhà khoa học, các cộng đồng
khoa học, trong khi áp dụng sinh học vào đời sống, nhiều khi gặp phải
những vấn đề đạo đức, và bắt buộc phải giải quyết những vấn đề này
ngoài khuôn khổ của tôn giáo.
Thí dụ như những vấn đề này ngoài khuôn khổ của tôn giáo. Thí dụ như
những vấn đề sinh đạo đức (bioéthique) đặt ra trong cuối thế kỷ 20, đầu
thế kỷ 21 này: ngừa thai, thụ thai trong ống nghiệm, ghép bộ phận,
kiến tạo di truyền, sinh sản vô tính,v.v.
Những bước tiến của khoa học- kỹ thuật, những thay đổi của xã hội,
bắt buộc các nhà khoa học phải áp dụng một triết lý đạo đức uyển
chuyển, cởi mở, với khả năng sửa đổi , phê bình, và đặt lại vấn đề mới
xuất hiện, với những dữ kiện mới, trong một khung cảnh văn hoá mới.
Đó là cái mà nhà thần kinh sinh học Pháp J.P.Changeux gọi là “đạo đức
từng bước nhỏ” (éthique des petits pas). Một nền đạo đức không thần
khải, không siêu hình, không lý thuyết, không cố định, vì phải luôn
luôn được xây dựng từng bước một, để phù hợp với thực tế.
Siêu việt “ thiện/ác” không có nghĩa là coi “thiện/ác” như nhau, là
chủ trương thế nào cũng được, và con người muốn làm gì cũng được trong
xã hội.
Trong một xã hội, một đoàn thể, phải có những giá trị đạo đức, những
mốc, những tiêu chuẩn để qui định nhưng lề luật cuộc sống. Nhưng đèn
đỏ, những bảng stop để tránh những va chạm, những đụng độ làm mất hoà
khí giữa nhau.
Thiện và ác là những giá trị đạo đức, cũng như tiền bạc, hàng hoá là
những giá trị kinh tế đã được qui định giữa những con người, không thể
thiếu sót được, tuy biết rằng đó chỉ là những qui ước tương đối và tạm
bợ.
Siêu việt “thiện/ác” là vượt lên khỏi “thiện/ác”, không còn bị vướng
mắc, bận tâm về vấn đề đó nữa, bởi vì việc thiện đã trở thành tự nhiên
rồi, khi đi đứng nằm ngồi, từ thân khẩu ý sinh ra đều là hành thiện,
đều gây nghiệp tốt, nghiệp lành.
Những người siêu việt được “thiện/ác” như vậy – có thể gọi là đã giác
ngộ- quả là hiếm hoi, muôn người chưa có một. Phải tu tâm dưỡng tánh
bao nhiêu năm trời (hay bao nhiêu kiếp sống?) mới được như vậy. Nhưng
tôi tin rằng con người tầm thường cũng có thể, trong nhưng giây phút
nào đó, siêu việt được “thiện/ác”. Nếu sống thật trong hiện tại, một
cách hồn nhiên, giản gị, không tiếc gì, cầu gì, lo gì, muốn gì…
Rốt cục, “ thiện/ác” cũng là ở cái tâm của mình.
Trong truyện Kiều, Nguyễn Du cũng tỏ ra là một người hiểu sâu xa đạo Phật khi ông kết luận: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
“ (Trần Kim Trọng giải thích là cái tâm của nhà Phật bao hàm thống nhất
được cả ba phương diện của đạo Nho là tam tài: thiên, địa, nhân).
Đối với tôi, người Phật tử phải vừa một đằng hướng thiện một cách tự
nhiên, trau dồi cái thiện tâm và thiện cảm (empathie) của mình đối với
mọi người, mọi sinh vật, vừa một đằng khác giữ một cái nhìn sáng suốt,
siêu việt thiện/ác. P
hải hiểu mình, hiểu người, hiểu những qui luật của thiên nhiên để
đừng bị dằn vặt bởi những mâu thuẫn nội tâm và những vướng mắc do lối
nhìn nhị nguyên, xa rời thực tế và chỉ cản trở sự tu học của mình.
Olivet, 1/4/2004
Trịnh Nguyên Phước
Đối thoại giữa Đức Phật và gã chăn cừu