Mở đầu
Phật giáo du nhập vào Việt Nam đã hơn
2000 năm lịch sử, nó tạo cho nhân dân ta một niềm tin mãnh liệt vào khả năng của
bản thân để sống đúng, sống đẹp và sống trong sáng thuần khiết theo tinh thần
tư duy vô ngã, tức Tính Không. Tính không trong Trung Quán Luận của bồ
tát Long Thọ (Nagarjuna, khoảng thế kỷ II- III) ra đời tại đất nước Ấn Độ, truyền
tới Trung Quốc, lan tỏa tới Việt Nam. Thuyết Tính Không cho rằng mọi sự vật, hiện
tượng (pháp) đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, nên thực tướng của chúng là vô
tướng. Tư tưởng “Không” hay “Tính Không” cũng là tư tưởng cốt tủy của Phật giáo.
Thế nên Thư Bác Hồ gửi Phật tử Việt Nam (30/08/1947) ngợi Thích Ca Mâu Ni, Long
Thọ là một người có trí tuệ và từ bi cứu khổ cứu nạn như sau: “ …Đức Phật là đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn,
muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, người phải hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma…”[1].
Đây là một minh chứng to lớn về sự tác động của giá trị thần dược từ bi và trí
tuệ trong triết học Phật giáo,cái logic và biện chứng của Tính Không trong
Trung Quán Luận và tư tưởng minh triết trong Phật giáo có thể tẩy rửa những oan
ức, khổ đau cho nhân loại, cho chính mỗi số phận con người Việt Nam nói riêng,
mà Lê Văn Thịnh thị lang là hiện thân điển hình.
Long Thọ được mệnh danh là Thích Ca Mâu Ni thứ 2 thế kỷ II - III Tây lịch
Trong thế giới vô thường nhìn nhận dưới
phương diện đa chiều không ngừng vận động phát triển thì có vô vàn nhân duyên tạo
tác mà con người là tổng hòa mọi mối nhân duyên ấy. Theo Long Thọ, khi các
duyên hòa hợp thì có nhân trước quả sau[2].
Theo thuyết Duyên khởi để giải thích về con người không tướng trạng, không tướng
trạng tức là Tính Không. Như ta đã biết một con người từ khi được sinh ra cho tới
lúc viên tịch tất lẽ phải tuân theo quy luật “ sinh, lão, bệnh, tử”.Vậy, dùng thuyết Tính Không để quán chiếu thì
Lê Văn Thịnh cũng không thể nằm ngoài quy luật đó. Do nay, qua tư liệu lịch sử
cho biết Lê Văn Thịnh là một trạng nguyên khai khoa, tài trí hơn người, có công
lao lớn với non sông Đại Việt, song lại có nhiều ý kiến trái chiều nhau về nỗi
oan của ông. Đây cũng là vấn đề bức xúc gây nhiều tranh cãi, tốn rất nhiều thời
gian, giấy bút đối với những người quan tâm, các nhà nghiên cứu, các nhà sử học.
Với tư cách là nhà nghiên cứu Phật học, tác giả muốn dùng cây bút “qua Lăng
kính Tính Không trong Trung Quán Luận” soi rọi tìm hiểu phần nào làm sáng tỏ vấn
đề trên.
Tuy nhiên, vẫn biết rằng sự vật, hiện tượng,con
người do duyên đủ mà thành, thực tướng của các vấn đề đó là vô tướng, Tính
Không. Mỗi khi thân tâm ta chiêm nghiệm, quán chiếu được các vấn đề thực tiễn, con
người theo cách sâu chuỗi logic như kiểu của Long Thọ, cùng với trí tuệ và từ
bi bao la, làm việc khách quan khoa học ắt có phước duyên an lành trong mọi
lúc, mọi nơi.
Nguyên nhân dẫn đến nhầm lỗi trong cuộc sống, cuộc đời thì muôn
hình muôn vẻ, trừ khi ta đã tu thành Phật, thành Thánh thì ta mới hết lỗi oan uổng
ở đời. Tuy nhiên ta cũng cần lưu ý rằng, theo Long Thọ mọi sự vật, hiện tượng
là bất sinh và bất diệt, thực tướng là thanh tịnh, không sắc cũng không vô sắc.
Theo Tính Không của
Long Thọ, đạo đức và hành vi của người thực tướng của nó là Không, do vậy,
chúng ta không nên chấp vào tướng đạo đức, tướng hành vi đó, mà phải nhấn mạnh
tới trách nhiệm ý thức tốt khi mọi người tham gia vào công việc cuộc sống hằng
ngày, có ý thức làm những điều phúc thiện tốt hơn cho cuộc đời.
Từ thuở bình minh tới
nay, con người nhờ ngôn ngữ, thông qua lao động đã biết kế thừa và sáng tạo phát
triển khoa học, kỹ thuật làm cho cuộc sống tiện nghi khá giả hơn, nhưng bên cạnh
đó những nguy cơ hủy diệt về tiền của, mạng sống con người cũng không nhỏ mà nó
thường biểu hiện thành tần số sóng trong mỗi thời đại.
Để tìm lời giải đáp
cho uổn khúc trên ta lấy Tính không trong Trung Quán Luận liên hệ tới thái sư
Lê Văn Thịnh nhằm bổ sung thêm lý luận trong việc phân minh chính tà, oan –
không oan góp phần xây dựng quê hương đất nước phồn thịnh hơn.
1.
Vấn đề Tính Không tại Trung Quán Luận
Toàn bộ
Trung Quán Luận của Long Thọ là sự nhất
quán thuyết Tính Không, mọi sự vật và hiện tượng đều được quán chiếu trong
tương quan, tương sinh bởi chúng không có bản chất độc lập, không có tính cố định,
cái này phụ thuộc, chi phối cái kia và ngược lại.
Phật giáo Đại Thừa chính thức thành danh phải nhờ công
Long Thọ kế thừa Tính không trong Kinh
Bát Nhã kết hợp với ý tưởng “Đại thừa”
của Mã Minh,Vô Trước theo tinh thần “Trung quán”. Trung Quán Luận là tác phẩm nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa, do
chính Long Thọ Bồ Tát trước tác. Trong đó ông tập trung triển khai triết lý Vô
ngã, Vô thường, Vô pháp, Duyên khởi của Phật giáo bằng phép biện chứng “Bát Bất”.
Tính Không biểu hiện hình tròn của chư pháp
Trung Quán Luận tiếp tục khẳng
định bản thể luận Vô Thường ( Anitya, 無常), Vô
ngã (Anattā, 無 我) đã có từ Phật giáo Nguyên thủy. Vô thường chỉ bản chất
thay đổi liên tục của vạn vật theo thời gian. Vì bản thể của chúng đều do các
nhân duyên hòa hợp mà thành.
Long Thọ đã phân tích nội hàm khái niệm “Không” trên tinh thần bản thể luận
và nhận thức luận siêu vượt tư duy thông thường:
“Các pháp do duyên sinh
Nên ta nói là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng là nghĩa trung đạo”.
|
(Chúng nhân duyên sinh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc vi thị giả danh
Diệc thị trung
đạo nghĩa).[3]
|
Khái niệm Không của Bát Nhã nhất
quán hơn với nghĩa rằng, “Tính Không” là các pháp duyên sinh, là “Không”, cũng
gọi là “giả danh”, đó chính là nghĩa “Trung đạo.” Long Thọ thấy rằng, bất kỳ hiện
hữu nào cũng thường được nhìn qua hai mặt là “Không” và “ có”. Song “ có” cũng
chỉ là giả danh. Ví như Long Thọ đã khẳng
định được rằng Vô pháp là nhờ duyên sinh, có duyên sinh là vô tướng tức Tính
không như một bản chất đích thực của thực tại bằng một lời bất hủ sau: “với Tính không, tất cả đều có thể, không có Tính Không
tất cả đều không thể”[4] Câu nói
này thật thú vị, rằng, một khi nhìn nhận quan sát các việc tham gia vào cuộc sống
đối nhân xử thế ở đời, con người thấy thực thể nó là vô tướng mà vô tướng ấy là
diệu hữu, cái diệu hữu này nó chi phối các vấn đề của thế gian, con người không thể
thoát khỏi diệu hữu ấy.
Tính Không là một vấn đề khó, khi vận dụng Tính Không vào việc tìm hiểu, giải
quyết vấn đề con người trong mối quan hệ
với các duyên qua cuộc sống thường nhật, hơn nữa để có bước đột phá ứng dụng giải
quyết vấn đề này lại càng khó hơn. Nhưng khó hơn không có nghĩa là không thể giải quyết được, ở đây Long Thọ dùng
đoạn kệ mở đầu Trung Quán Luận bằng
pháp phủ định Bát Bất sau:
“Chẳng sinh cũng chẳng diệt
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng lại cũng chẳng ra”.
|
(不生亦不滅
不常亦不斷
不一亦不異
不來亦不出)[5]
|
“Chẳng” là dịch nghĩa của chữ Bất
(不) trong Hán Văn. Người học Phật theo tư tưởng Không
trong Trung Quán ứng dụng vào con người
ta thấy mối liên hệ, quán chiếu về con người ở thể phân tích, tức Không, hay
quán tưởng con người thấy Tính Không, lại có thể quán tưởng đương thể thấy Tính
Không. Do vậy, Bát bất trong kệ kia
là minh chứng cho tính Không cho việc liên hệ tới thái sư Lê Văn Thịnh, vì thái
sư cũng là một con người như bao con người khác. Chỉ khác là ông là người có
nhân duyên gặp thời, hội đủ duyên thông minh, học hành chu đáo, một lòng vì đất
nước, với quê hương. Để tìm hiểu rõ Tính Không liên hệ tới thái sư Lê Văn Thịnh
cần phải tu tập cho tâm trí trong sạch, quán chiếu các pháp do nhân duyên hòa hợp
mà tán mà thành lại tán, chúng là Không, từ đó ta có an vui, giúp người khác an
vui lợi ích thiết thực trên tinh thần thực thể cuộc đời.
- Thái
sư Lê Văn Thịnh qua lăng kính Tính Không trong Trung Quán Luận.
Nhà Lê Văn Thịnh xưa đã cải gia thành chùa Thiên Thư ngày nay
Trong C.Mác – Ănghen toàn tập có đề cập tới vấn đề
con người. Con người là thực thể thống nhất giữa mặt
sinh vật với mặt xã hội: “…Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội…”Con người
vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử[6].
Trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong Triết học Mác – Lê
Nin ta thấy quy luật “ phủ định của phủ định”
tựa như phương pháp “ Bát bất” trong Trung Quán Luận. Qua đó ta thấy một điểm
chung toát ra đó là nhằm chỉ thực thể sự vật, hiện tượng luôn vận động biện chứng,
vô ngã, tức Tính Không. Vậy thì Thái sư Lê Văn Thịnh là một con người cũng chịu
sự chi phối bởi cái vô ngã, Tính Không ấy..
2.1.
Hoàn cảnh
ra đời của Thái sư Lê Văn Thịnh.
Về ngày, tháng, năm sinh của Thái sư Lê Văn Thịnh, có
một số ý kiến khác nhau, có quan điểm cho rằng ông sinh năm 1038, nhưng có ý kiến
khác lại khẳng định ông sinh năm 1050 . Tuy nhiên theo tư tưởng Tính Không
trong Trung Quán Luận như đã nói ở trên, thực tướng là thanh tịnh, không sắc
cũng không vô sắc, tất cả do duyên đủ mà thành.
Lê Văn Thịnh được thờ tại vị trí phòng học riêng xưa
Theo
Ngọc Phả Đức Thái Sư Đại Vương ( Trạng Nguyên Lê Văn Thịnh) được lưu giữ tại Đền
Thờ Lê Văn Thịnh ngày nay cho thấy, cha của Lê Văn Thịnh họ Lê, húy Thành, ở Bảo
Tháp khu, Đông Cứu trang, Gia Định huyện, Thuận Thành phủ, nay là
thôn Bảo Tháp, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Mẹ Trần Thị Tín ở Từ
Sơn phủ, Quế Dương huyện, Ngô Xá trang. Bà
kể lại rằng; Vào Canh ba Bà nằm mơ có ngôi sao to như cái đấu giáng vào bụng,
nghe vậy ông Lê Văn Thành đoán đó là điềm lành, quả thực:
“ Ngày
đi tháng lại trôi qua.
Canh dần
“xuân trọng” sinh ra nam hiền”[7]
Theo Ngọc Phả Lê Văn Thịnh sinh ngày (11/02 năm 1050 (Canh
Dần)- 07/01/?) . Lê văn Thịnh ra đời với khuôn mặt khôi ngô, tuấn tú, mọi người
yêu quý và được nhận định là “nhân kiệt của
trời Nam”[8]. Lên ba
tuổi hay cười hay nói, hiểu mọi điều lễ nghĩa, thường hay kính nhường, lên bảy
tuổi học một biết mười. Tuổi thơ của cậu bé Thịnh được ẩn hiện trong làng quê
bình dị cũng như bao đứa trẻ khác: “ Ngày
ngày cậu dành buổi sáng và tối để học chữ Thánh hiền, chiều đến cậu lại cùng
các bạn nhỏ dong trâu lên núi chăn dắt và kiếm củi”[9].
Tới năm mười ba tuổi, kinh sử mọi sách am hiểu, thông suốt thiên văn địa lý, được
ví như thần đồng, nhiều người thán phục. Dưới sự chăm sóc, đùm bọc yêu thương
và dạy dỗ ân tình của người cha nhà nho và người mẹ tảo tần hôm sớm, khiến tài
năng của cậu ngày càng lộ rõ. Nhưng đến năm mười tám tuổi, bố mẹ đều mất, ông
khóc kêu trời, lo liệu ba năm tang xong, Lê Văn Thịnh liền tới tới phủ Từ Sơn,
huyện Quế Dương dạy dân văn tự, khuyên dân làm thiện.
Rồi vào tháng hai năm 1075 ( Ất Mão), vua Lý Nhân Tông tổ
chức kỳ thi Minh Kinh Bác Học và Nho học Tam trường, nhằm tuyển chọn hiền tài
trong toàn cõi Đại Việt để giúp vua xây dựng non sông. Lê Văn Thịnh đã dự thi
và đỗ đầu, cũng là vị khai khoa của đất trời Nam khi ông tròn hai mươi năm tuổi[10].
Hình ảnh vị khai khoa Lê Văn Thịnh luôn ẩn hiện trong tâm trí mỗi người dân trong làng quê Bảo
Tháp nói riêng và là tấm gương sáng cho nhân tài đất Việt kế nghiệp cha ông. Quả thực sau Lê Văn Thịnh thì:
“ Nhân tài đua phát biết bao.
Như cây trên núi như sao trên trời”[11]
Ban
đầu ông được vào hầu vua dạy học, sau đó ông được vua Lý Nhân Tông phong chức
Thị lang bộ binh vào năm 1076 (Bính Thìn).
2.2. Lê Văn Thịnh nhà quân sự - ngoại giao
Lê Văn Thịnh không
chỉ đơn thuần là vị khai khoa của đất Trời Nam mà Ông còn xem như một nhà quân
sự, nhà ngoại giao có một không hai trong lịch sử nước nhà, điều này được thể
hiện xuyên suốt trong cuộc đấu tranh chống quân Tống lần 2 (1075-1077). Hoàng
Thái Hậu Ỷ Lan và nhà vua Lý Nhân Tông đã có sự suy xét, tính toán trước kẻ
thù, cuối cùng đã đưa ra quyết định, chuẩn y kế sách của tướng quân Lý Thường
Kiệt: “ Ngồi im đợi giặc, không bằng đem
quân ra trước để chặn thế mạnh”[12].
Ngày 10 tháng 12 năm 1075 quân ta do Tông
Đản chỉ huy đã tấn công vào Ung Châu tiếp đến vào ngày 18 tháng 1 năm 1076 đạo
quân Lý Thường Kiệt cũng tới Thành Ung[13].
Lời tấu chín chắn của Lê Văn Thịnh với Hoàng Thái Hậu rằng: “ Thành Ung rồi sẽ bị san phẳng.Nhưng nhà Tống
vẫn còn mạnh”[14].
Quả thực vào
ngày 1 tháng 3 năm 1076, sau bốn mươi hai ngày kiên cường kháng cự Thành Ung bị
thất thủ[15]. Sau những nhận định sắc sảo về phòng thủ đất
nước của Lê Văn Thịnh, ông được Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan đánh giá rất cao: “ Người có tài quân sự”[16].
Đúng như dự báo của Lê Văn Thịnh sau thất bại đau đớn ở Ung Châu, Tống Thần
Tông lại cầm quân xâm lược Đại Việt, 8 ngày sau khi Thành Ung bị triệt phá tức
ngày 9 tháng 2 năm 1076 Tống Thần Tông ra Chiếu đánh Đại Việt[17].
Rõ ràng sau nhiều cuộc
giao tranh quyết liệt và đã làm tổn thương rất nhiều cho hai bên, nhưng cuối
cùng tướng quân Quách Quỳ cùng hàng vạn quân đã vào thòng lọng của ta.
Trong những đại
thắng này, phải nói đến những quyết sách đúng đắn của Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan và
vua Lý Nhân Tông cùng đại tướng quân thái úy Lý Thường Kiệt, phò mã Thân Cảnh
Nguyên, tướng hoàng tử Hoàng Chân vv… Nhưng bên cạnh đó không thể không nhắc
tới Lê Văn Thịnh với những nhận định sắc bén, chính xác trước kẻ thù. Qua những phân tích, dự báo, suy xét,
tính toán trong những lời tấu của Lê Thị Lang ( Lê Văn Thịnh) hiện rõ vẻ cương
nghị, quyết đoán như một nhà quân sự, một vị tướng giỏi thao lược biết địch biết
ta, có lẽ đây chính là một trong những vị thuốc tinh anh của nghệ thuật đánh giặc
giữ nước của ông cha ta để lại cho hậu thế vận dụng vào cuộc chiến trường kì chống
quân xâm lược. Thao lược quân sự tài ba của ông, một lần nữa được minh chứng
qua nội dung bức thư giửi Quách Quỳ[18].
Nhân tài họ Lê lần này đã dùng ngòi bút làm cung tên, giáo mác, nhưng cũng
chính ngòi bút ấy lại là nghệ thuật, là vị thuốc chữa lành vết thương mang lại
niềm an vui cho hai dân tộc. Bởi Lê Văn Thịnh vốn là trạng khai khoa, học rộng
uyên bác nên ông dễ biết theo tinh thần Tính Không Long Thọ nói tới bốn chân lý
chắc thật, đó là “ khổ - tập – diệt – đạo
đế”, Khổ là kết quả của các khổ đau tương đối, tập là nguyên nhân dẫn tới
quả khổ đau tương đối, ví dụ như ngoại giao không lành mạnh, sử dụng ngôn từ
không khéo léo, tham, sân, si…, diệt là kết quả vui tuyệt đối, đạo là con đường, phương pháp tối
ưu để có được an vui tuyệt đối. Nhưng bốn chân lý này vẫn đều là Không, cái Không
này luôn liên hệ tới các tính cách, tình cảm, niềm vui của con người quê hương
các dân tộc,... Để mỗi dân tộc luôn thanh bình thì mọi người đều cần phải lắng
nghe hiểu thấu được rằng: “ vì không có bốn
thánh đế, nên: biết khổ, đoạn tập, chứng diệt và hành đạo, bốn việc đó đều
không”. Bằng tri thức uyên thâm, Lê Văn Thịnh đã vận dụng sự uyển chuyển của
ngoại giao để chuyển hóa tâm thức con người nhận diện đánh thắng giặc ngoại sâm.
Mặt khác, theo Tính Không của Long Thọ thì mọi pháp đều vô thường, sự vật là vô
ngã, không cố định nên dễ thấy con người Lê Văn Thịnh là một con người tài ba
quân sự, ngoại giao tài tình cũng vẫn trực thuộc các pháp “ bốn thánh đế” không ngoài Tính Không, vô
ngã[19].
Tiếp đến, vào
tháng sáu năm Giáp Tý (1084), ông được cử đi đến trại Vĩnh Bình
(thuộc Cao Bằng ngày nay) để
bàn về việc cương giới với Chánh sứ nhà Tống là Thành Trạc mà trước
đấy vào tháng sáu năm 1083 Đào Tông Nguyễn chưa hoàn thành nhiệm vụ. Sau khi đã
"phân giải mọi lẽ"[20].
Lê Văn Thịnh không hề tranh luận biện bác mà chỉ dùng thông tuệ, lựa lời uốn
nắn giảng giải: “ Trong khoảng trời đất,
Tống là một nước, Đại Việt là một nước. Các nước đối với nhau là quan hệ ngang
hàng”[21].
Rồi Lê Văn
Thịnh có những trả lời lập luận chắc chắn: “ Sáu năm nay người Tống là thủ mưu nhiều vụ gây rối trị an trên lãnh thổ
Đại Việt. Hơn nữa lại cho quân lấn chiếm đất đai. Chứng cớ rõ ràng, quan lại
Tống đã nhận lỗi. Nhưng rồi, đâu lại đóng đấy ba mặt một lời xin nhà vua cho
biết, việc ấy nên xử thế nào? Đó là mục đích mà sứ bộ Đại Việt tới Kinh đô nhà
Tống lần này”[22].
Cuối cùng nhà Tống chấp thuận trả lại cho Đại Việt 6 huyện (Bảo Lạc,
Luyện, Miêu, Đinh, Phóng và Can) 3 động thuộc châu Quảng Nguyên (nay là
phần đất ở phía Tây Bắc tỉnh Cao Bằng). Sau cuộc “phân giải mọi lẽ” đến thấu tình đạt lý, Lê Văn Thịnh được vua Tống
ban chức Long Đồ Các Đãi chế[23].
Có lẽ đây là
lần duy nhất trong lịch sử nước Việt bằng con đường ngoại giao đối thoại đã đòi
được đất bị phương Bắc chiếm giữ mà không dùng đến giáo gươm, để lại một bài
học bang giao có giá trị to lớn cho dân tộc Việt. Qua những đóng góp to lớn của
Lê Văn Thịnh đã được nhà vua Lý Nhân
Tông cất lên làm Thái sư năm 1085 ( Ất Sửu)[24]Con đường quan lộ đang hanh thông - Thái sư đầu triều (
sau 10 năm). Nhưng đúng vào thời khắc đỉnh cao của sự nghiệp thì:
“ Thật là cay - đắng – ngậm – ngùi!!!
Chữ
tai đã vận vào người tài hoa”[25]
2.2.
Thực tướng
Tính Không về nỗi oan Lê Văn Thịnh theo
TQL.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư ra đời vào thời Hậu Lê, kể lại vụ án như sau:
“Mùa xuân, tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết, an trí ở Thao
Giang . Bấy giờ vua( Lý Nhân Tông) ra hồ
Dâm Đàm, ngự thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mây mù
có nghe tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái
chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con
hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: Việc nguy rồi!”. Người đánh cá là Mục Thận quăng
lưới trùm lên con hổ, thì ra lại là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại
thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Trước đấy, Lê
Văn Thịnh có gia nô người nước Đại Lý có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật
ấy toan làm chuyện thí nghịch”[26].
Qua đoạn trích trên ta thấy thực hư, hư thực lẫn lộn, lại nhớ tới cuộc đời Long
Thọ, xưa ở Ấn Độ thông minh, học giỏi tinh thông pháp thuật, nhân một hôm cùng
bạn vào cung vua gẹo các mỹ nữ bị vua cho quân lính truy đuổi chém chết người
bạn, còn Long Thọ có phép thuật tàng hình ẩn trên mũ của vua thoát chết. Long
Thọ thấy cuộc đời thật mong manh, từ đó đã chuyên tu theo Phật, học ngộ giáo lý
Đại thừa, thông ngộ quán Tính Không. Theo lập trường Tính Không của Long Thọ
thì chỉ ra rằng nếu không chấp, nhìn nhận các sự vật và hiện tượng trạng thái
của chúng như thực chúng vốn có, thực chúng vốn là Tính Không. Vấn đề khổ đau được
chia ra nhiều kiểu khác nhau, nhưng thực các khổ đau đó không phải do ta tạo,
cũng không phải do người khác tạo ra nên Long Thọ viết: “ Không thể bảo rằng khổ đau là tự tạo, vì lẽ pháp chính nó cũng không
thể tự tạo, như thế khổ đau vốn không có tự tính, thì không thể tạo mọi sự khổ
đau”[27].
Nhờ vào phép quán lý Tính Không về sự vật và hiện tượng theo lý duyên sinh vô
ngã, nên các sự vật hiện tượng, buồn vui, khổ đau, an vui tạm thời, oan, không
oan thực chất cũng chỉ quy về một chữ “Không”. Không đây là không oan vô tự
tính. Ta quán chiếu rõ sự ràng buộc của các sự vật hiện tượng là không, ta
không cố chấp “ ta – người hay bỉ - thử”,
sống theo luật nhân quả, ta luôn làm việc lành lánh việc dữ sẽ thoát ra phiền não, khổ
đau, nỗi oan, có bình an hạnh phúc.
Hồ Dâm Đàm xưa nay là Hồ Tây - Hà Nội
Thực ra vụ án trên lâu nay đã được nhiều nhà khoa học, sử
học bàn tới, có ý kiến cho rằng, ông là nạn nhân của sự xung đột giữa một bên
là ý thức hệ Phật giáo, mà đại diện Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan và vua Lý Nhân Tông,
và một bên là ý thức hệ Nho giáo mà đại diện là Thái Sư Lê Văn Thịnh. Bên cạnh
đó cũng có một số lập luận của các nhà khoa học cho rằng, khi ông được phong
chức Tả thị lang, khi đã có công, cải cách triều đình. Theo sử sách ghi lại,
dưới thời vua Lý Nhân Tông đã có nhiều cải cách mới, cụ thể:
-
Năm 1086, tổ chức thi tuyển người vào Hàn Lâm Viện.
-
Năm 1088, định các chùa trong nước làm ba hạng
-
Năm 1089, định các chức văn võ, quan hầu vua, các chức tạp lưu.
-
Năm 1092, định sổ thuộc thu tô ( thuế).
Hay là, theo
Tích Tổ Khai khoa của Nguyễn Đức Khách luận thơ về Thái sư Lê Văn Thịnh như:
“ Chín năm tuy cũng chưa nhiều.
Soạn ra “chín luật” kịp điều chăn dân.
Chùa chiền định dạng “Danh lam”
Mở trường thi võ thi văn kén tài
Thu thuế ruộng đất xung vào quân lương…
Còn thừa phải bỏ ruộng ra
“
Công điền” “ công thổ” điều hòa cho cho dân…”[28]
Tất nhiên, những quyết sách lớn trên là do nhà vua quyết
định, nhưng có lẽ vị quân sư ở đây không ai khác là Lê Văn Thịnh. Chính sự cải
cách này đã ảnh hưởng rất lớn tới quyền lợi của các vị quan lại, vương thần,
quốc thích.v.v.
Nhưng giả định, giết vua cướp ngôi là có thật thì tại sao Lê Văn Thịnh chỉ
bị đi đày mà không bị xử tử:
“Miễn cho án xử
luật hình
Lưu đày biệt xứ núi rừng Thao Giang”[29]
Trong khi đó các
vụ việc tương tự diễn ra trước và trong cùng triều đại Lý đều chịu kết cục xử
tội chết?. Vậy sự thật của vụ án này như thế nào? Và ai là nhân vật đứng đằng
sau vụ án? Vẫn là một câu hỏi nan giải đối với hậu thế. Nhưng có lẽ, vấn đề ông bị oan hay không bị
oan cũng chỉ là vấn đề thứ yếu, theo Long Thọ thì oan, khổ đau cũng chỉ là vô
ngã Tính Không, còn việc đáng tôn vinh ghi nhận công lao phò vua giúp nước thì
không ai có thể chối cãi được. Công lao này còn được lưu giữ bằng đôi câu đối viết về ông tại đền thờ Lê Văn
Thịnh:
Bắc triều phục sứ vô song sĩ
|
Nam quốc khai khoa đệ nhất nhân |
Ông Nguyễn Xuân Đoàn, Ủy viên BTV, trưởng BTG huyện ủy, Gia Bình cũng có
bài viết nhận định về Thái sư Lê Văn Thịnh như: “ Trạng nguyên khai khoa, Thái sư Lê Văn Thịnh công lao to lớn với vương
triều Lý và Quốc gia Đại Việt”[30].
Người xưa từng nói, có sinh thì phải có tử, Phật Long Thọ đồng tính với luật
duyên sinh vô ngã, tức cuộc đời vô thường, con người là mộng ảo: “ Tất cả đều ảo hóa, và mộng mị như trong giấc
chiêm bao, như sự giả hiện của Thành Càn Thát Bà, nói có cái này cái kia, rồi
chấp có sinh, trụ diệt. Tất cả đều mộng ảo như thế”, con người thực chất là
nhân duyên hòa hợp từ: tình cha huyết mẹ, cơm áo, gạo, tiền…tình yêu thương dạy
giỗ, chăm tu phúc lánh lành…mới ra con người, nhưng thực chất con người thực
thể lại là mộng ảo, mây bay, là giả danh, cái thân huyễn hóa của ông Lê cũng
như bao con người khác không chết ở nhà thì lại chết ở tha phương ( Đình Tổ -
Thuận Thành – Bắc Ninh), ấy chỉ sự vô thường về cái chết không cố định một nơi.
Biết đời có sinh - tử ( diễn giải rộng hơn theo kiểu Long Thọ đời người có:
Sinh – trụ - diệt), biết thế thấy đời mong manh, nên cần lạc quan không cố chấp
vào sinh tử cố định sống an vui tự tại.
Trong lúc hơi tàn sức kiệt, ông đã trút hơi thở cuối cùng
tại Đình Tổ (Thuận Thành, Bắc Ninh). Người dân Đình Tổ cảm cái công lao to lớn
của ông với nước với dân nên đã chôn cất thi hài ông và tôn ông làm Thành hoàng
làng.
Lăng ngộ Lê Văn Thịnh tại Đình Tổ - Thuận Thành, Bắc Ninh
2.3.
Thực tướng
Không của Lê Văn Thịnh với tượng rồng đá
Theo cụ Nguyễn Văn Tuynh – một
trong những người thường xuyên hương khói, coi sóc ngôi đền và chùa Bảo Tháp nói
về nguồn gốc xuất thân của bức tượng rồng được tìm thấy vào năm 1993, trong quá
trình tu sửa đường vào chùa Bảo Tháp:
“Khi cụ
rồng được đưa lên mặt đất, nhiều người trợn tròn mắt kinh ngạc. Bức tượng nặng
hơn 1 tấn, cao khoảng 0,9m, dài rộng mỗi chiều 1m, có tư thế rất kỳ bí. Từ bức
tượng toát lên nỗi oan khuất ngút trời, sự đau đớn, vò xé, căm hận. Uy lực toát
ra từ bức tượng mạnh đến nỗi, tất cả những người dân có mặt đều quỳ xuống lạy”,
cụ Tuynh nói. Sau đó cụ rồng được đưa vào đền, nơi xưa kia là nền nhà cũ của
Thái sư để thờ cúng.[31]
Tượng rồng khai quật được liên quan tới nỗi oan Lê Văn Thịnh
Bàn về tượng rồng đá được tìm thấy
có nhiều ý kiến trái chiều nhau: Có ý kiến cho rằng, bức tượng đã lột tả được
tâm trạng oan khuất của Lê Văn Thịnh nhưng lại có ý kiến khác cho rằng, rồng là
một vị thần trong tám vị thần vô tướng, nhưng nhìn tận mắt thấy “miệng cắn thân chân xé mình,một bên tai lành
một bên tai điếc” đã có nhiều câu hỏi được đặt ra. Nhưng rõ ràng cái uy lực
của bức tượng rồng tạo ra một triết lý rằng; Con rồng là một thực thể chúng sinh, cái nét miệng cắn
thân, chân xé mình, đã chỉ ra một triết lý trong Phật giáo, nếu ta gieo nhân gì
thì ắt sẽ gặp quả ấy. Phải chăng pho tượng rồng ấy lại nhắc nhở mỗi chúng ta sống
trong cộng đồng, dù là tập thể hay cá nhân, sự đoàn kết được hay không cũng là
phần chính do nội bộ làm nên. Trong giáo lý nhà Phật có câu, kẻ thù lớn nhất của
cuộc đời là chính mình, cuộc đời của mỗi con người an vui hay đau khổ cũng do
ta. Nếu ai dù chỉ một lần được nhìn thấy tượng rồng đều cảm nhận thấy vẻ đẹp
tinh tế đầy ẩn ý về nghệ thuật và đồng thời là một bức thông điệp sâu sắc về nội
dung phản ánh nhắc nhở mỗi thân tâm chúng ta khi tồn tại trên cõi đời này. Theo
Phật giáo Rồng là một trong tám vị thần không tướng, các vị thần đó cũng được
coi là chúng sinh, cũng có sinh có tử, nhưng thực tướng của rồng là vô tướng. Bên
cạnh đó lại có ý kiến khác cho rằng, pho tượng rồng đó ám chỉ Thái sư Lê Văn Thịnh
có trí tuệ hơn người, có công rất lớn nhưng cũng chỉ như một con rồng, nếu một
khi có ý tưởng phản nghịch giết vua cướp ngôi. Nhưng có lẽ là một con người tài
ba, thông minh, cao thượng, một vị thái sư dạy vua chắc không thể phản nghịch
giết vua. Qua vấn đề tượng rồng này, ta thấy hình ảnh tượng rồng không những
liên quan tới nỗi oan của Thái sư Lê Văn Thịnh nói riêng mà còn làm xao động tới
tâm tư suy nghĩ của muôn người. Nhưng để thoát ra khỏi sự đối đãi, tác giả tác
phẩm khi nghiên cứu, luận bàn về vấn đề chứa nhiều uổn khúc này, chúng ta không
thể bỏ qua cách quán tưởng lý Tính Không, tức sự vật hiện tượng duyên giả mà
thành, thực tướng là không. Chỉ có thể liên tưởng quán như thế ta mới có thể thấy
tâm ý rỗng rang, không còn kẹt chấp vào “ đây – kia” mới có thể giác ngộ, giải
thoát. Nên Long Thọ viết: “Như trên, tác
giả và tác nghiệp đều bị đả phá, thọ, thọ giả cũng như vật; đối với tất cả pháp
nên quán như thế để loại trừ kiến chấp”[32].
Cái vô thường chi phối
các pháp (sự vật và hiện tượng), nên đức Phật mượn tướng trạng vô thường trống
không của những bọt nước trôi dạt trên sông Hằng để nói lên bản chất của các
pháp cũng như thế, tất cả đều bị vô thường rồi cũng sẽ trống không như bọt nước.
Bản chất của các pháp là như vậy, nếu con người không thấy rõ không chấp nhận
chúng, ngược lại sinh ra thái độ cố chấp, ắt hẳn phát sinh đau khổ.
Tư tưởng “Không” hay “Tính Không” cũng là tư tưởng
căn bản của Phật-giáo, tư tưởng này quả khó chứng nghiệm, do cảnh giới của
thực tướng liễu ngộ. Tính Không nhờ vào sự hội đắc của chính mình
chứ không thể nương vào ai khác, lại cũng không thể nương vào văn tự ngữ nghĩa
biểu hiện để lý giải. Tư tưởng “chân không diệu hữu” của Kinh Bát Nhã chính là cốt lõi cơ bản của tư tưởng Đại thừa Phật
giáo, mà Trung Quán Luận của Long Thọ
đã kế thừa phát triển.
Theo phẩm Quán Điên đảo thứ 23 của Trung Quán Luận, Thích Quảng Liên dịch
và giải thích, Nxb Tôn Giáo, 2007 trang 226 ghi rằng: “Do ý nghĩ suy tưởng phân biệt, Nên phát sinh hiện tham, sân, si. Tịnh
và bất tịnh các điên đảo. Tất cả đều các duyên sinh ra”.
Kết Luận
Phật giáo xuất hiện ở đời đã hơn 2000 năm lịch sử,
Long Thọ Bồ Tát ra đời cách đây đã hơn XV-XVI thế kỷ nhưng tư tưởng Tính Không trong Trung
Quán Luận vẫn là phương pháp luận cho các vấn đề cuộc sống xã hội con người
ngày nay, trong đó Thái sư Lê Văn Thịnh là một điển hình. Tư tưởng Tính Không
giúp cho con người khai tâm, khai trí nhìn thấu cuộc đời, mọi vạn vật hiện tượng
đều là nhân duyên hòa hợp mà thành mà tán, thực chất con người, tham, sân, si,
giận hờn, oan, không oan, phúc họa…đều không có tự tướng cố định, thực chất của
các vấn đề đó là vô ngã. Hiểu được các vấn đều đều do nhân duyên giả hợp mà thành mà tán, bản chất là vô ngã như
thế, nên mỗi chúng ta cần phải phản quan tự kỷ xem xét thân tâm ta, quán chiếu
cảnh quanh ta thấy được bản chất là vô thường, không có cố định, thấy được như
vậy ta không chấp kẹt vào các vấn đề sự vật hiện tượng vô thường nên ta tự tại,
an vui giải thoát trong mọi lúc mọi nơi.
Viên ngọc tướng không cố định tức là oan không
Theo giáo lý tư tưởng Tính Không của Long Thọ thuyết
trong Trung Quán Luận như thế, do vậy ta hiển nhiên thấy con người nói chung
cũng như Thái Sư Lê Văn Thịnh đều nằm trong quy luật vô thường, cũng được sinh
ra và lớn lên theo “ sinh, già, bệnh, chết”, cái quy luật vô
thường chi phối, cái nhân duyên hòa hợp mà thành. Một con người Thái sư Lê Văn
Thịnh và cũng như bao con người khác đã góp thêm duyên vào cho cuộc đời này xã
hội này thêm sức sống, niềm tin yêu khác nhau, sự phấn đấu học hành, tinh thần
yêu nước chiến đấu bảo vệ tổ quốc, phò vua giúp nước và còn nhiều nhiều công việc
lợi ích nữa chỉ có thể mượn không gian làm giấy, lấy nước biển làm mực mới có
thể viết thành công ơn của những con người Việt chúng ta. Bên cạnh những dấu ấn
lịch sử lưu đọng trong bao con tim thế hệ, Thái sư Lê Văn Thịnh còn để lại những
cái khó hiểu như Vụ “oan hóa hổ giết vua” ở Hồ Dâm Đàm ( Hồ Tây ngày nay) là một
vấn đề khó giải thích theo thế gian. Nhưng theo tư tưởng Tính Không của Long Thọ,
trường hợp vụ oan hay không oan hóa hổ giết vua của Lê Văn Thịnh, việc ấy cũng
chỉ là nhân duyên hòa hợp mà thành, thực tướng việc ấy là vô tướng, không cố định.
Thế nên có lẽ mỗi chúng ta khi nghiên cứu về Lê Văn Thịnh ta cũng cần phải quán
chiếu cuộc đời hành trạng của Thái sư Lê Văn Thịnh theo lý duyên khởi, Tính
Không của Phật giáo của Long Thọ mới có thể hóa giải được việc ta tạo nghiệp đời
trước nên đời này ta phải gánh chịu hậu quả. Để tạm kết cho vấn đề nghiên cứu
vài nét về “ Tìm hiểu nỗi oan của Lê Văn
Thịnh qua lăng kính Tính Không của Trung Quán Luận” ta có thể mượn mấy lời
nguyên văn của Long Thọ viết về con người “ Không
nhân mà có sắc, Việc ấy trọn không đúng, thế nên người có trí, không nên phân
biệt sắc” sắc đây là sự vật hiện tượng, không nên chấp vào phân biệt sắc. sự
việc như “ Thọ ấm và tưởng ấn, cùng hành ấm
thức ấm. Ngoài ra tất cả pháp. Đều đồng với sắc ấm”[33]. Đây
chính là những câu đầy ý nghĩa triết lý Tính Không diễn tả con người, sự vật hiện
tượng buồn vui, oan, của cuộc đời đều không thật có, tức vô ngã. Thấy được sự vật
hiện tượng vốn vô tướng, vô thường, Tính Không như thế ta sẽ quán chiếu như thực
quán, thoát ra khỏi tư duy chấp nhị biên, chấp nhất biên, chấp bỉ thử, nên sẽ gặt
hái được kết quả giác ngộ, ứng dụng sự
giác ngộ vào cuộc sống, sống được tự tại, giải thoát trong cuộc sống này.
Vạn pháp hóa sinh từ tâm không liên hoa
[1] Giáo Hội Phật giáo Việt Nam (2014), Kỷ yếu Phật tử búp sen vàng truyền thống,
Nxb Tôn giáo, tr.7
[2] Theo Thích Thanh Từ dịch giảng (
2008), Trung Luận, Nxb Tôn
giáo trang 578.
[3] Thích Thiện Siêu dịch (2001), Trung
Luận,. Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
[4] Thích Nữ Giới Hương (2007), Bồ Tát Và Tánh Không Trong Kinh Tạng Pali Và
Đại thừa, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr.230.
[5] Thích Tâm
Thiện (1999), Lịch sử và tư tưởng triết học
Tánh Không, Nxb. TP HCM, tr.331
[6] C. Mác –
Ănghen Toàn tập, Nxb Chính Trị Quốc Gia Hà Nội, 1995, Tập 3, tr. 11
[7] Nguyễn Đức Khách (2010), Tích Tổ Khai Khoa, Nxb. Văn hóa thông
tin Hà Nội, tr. 21.
[8] Nguyễn Đức Thuần, ( 2003), Tầm mơ ước, Nxb.. Hội nhà văn, tr. 9
[9] Nguyễn Đức Thuần, ( 2003), Sđd,
tr.10.
[10] Ngô Sỹ Liên, (1983), Đại việt sử ký toàn thư,
Nxb. KHXH, Hà Nội, bản dịch quyển 1, tr. 290.
[11] Nguyễn Đức Thuần, ( 2003), Sđd, tr.13.
[12] Nguyễn Đức Thuần, ( 2003), Sđd, tr.21.
[13] http://vi.wikipedia.org/ chiến_tranh_Tống_Vịêt_1075-1077.
[14] Nguyễn Đức Thuần, ( 2003),Sđd., tr.28.
[15] http://vi.wikipedia.org/ chiến_tranh_Tống_Vịêt_1075-1077.
[16]
Nguyễn Đức Thuần, ( 2003),Sđd, tr.29.
[17] Viện lịch sử quân sự Việt Nam,(2003), Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 3, Nxb
Chính trị Quốc Gia Hà Nội.
[18] Nguyễn Đức Thuần, ( 2003),Sđd, Tr.
60.
[19] Thích Tâm Thiện, (1999), Sđd, tr.193
[20] Trần Trọng Kim ( 1968), Việt Nam
sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, tr. 109].
[21] Nguyễn Đức Thuần, ( 2003),Sđd, tr.86.
[22] Nguyễn Đức Thuần, ( 2003),Sđd,tr.86.
[23] Khuyết danh (1993), Đại Việt sử lược, Nxb TP HCM, tr. 294.
[24] Khuyết danh (1993),Sđd, tr. 294.
[25] Nguyễn Đức Khách (2010), Sđd, tr.111.
[26] Ngô Sỹ Liên (1983), Đại Việt sử ký toàn
thư, quyển 1, Nxb. KHXH, tr. 297.
[27] Thích Tâm Thiện, (1999), Sđd, tr.161.
[28] Nguyễn Đức Khách (2010), Sđd, tr.
66 – 67.
[29] Nguyễn Đức Khách (2010), Sđd, tr.85.
[30] Nguyễn Xuân Đoàn (2014), Văn Nghệ Gia
Bình, Nxb. Thanh Hóa, tr. 18.
[31] Nguyễn Độ, Thái
sư Lê Văn Thịnh có "hóa hổ giết vua", https://giacngo.vn/
[32] Thích Tâm
Thiện (1999), Sđd, tr. 152
[33] Thích Thanh Từ dịch giảng (2008) Sđd, tr.
132 – 133.