* * *
Ngược dòng thời gian để
nhìn lại quá khứ, Thái tử Tất-đạt-đa thấy cuộc đời là bể khổ, chúng sanh đang
trôi lăn trong vòng sanh sanh, tử tử với cảnh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ,
ưu não, đang diễn bày trước mắt, do vậy Ngài đã từ bỏ ngai vàng, điện ngọc, vợ
đẹp, con xinh để đi tìm một công án cho chính mình đó là- giải thoát cho tất cả
chúng sinh khỏi vòng luân hồi sanh tử. Ngài đã từ giã hoàng cung vào một đêm
trăng thanh khi sao mai vừa mới mọc cùng con kiền trắc và Sa-nặc vượt dòng sông
A-nô-ma để đi tìm chân lý.
Ðầu tiên Ngài đến học
đạo với hai đạo sĩ tên là Alara Kalama và Adduka Ramaputta và đã chứng được hai
trạng thái thiền Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhưng Ngài nghĩ
rằng hai quả vị này chưa phải là những quả vị tối thượng như Ngài mong muốn.
Rồi Ngài từ giã hai vị này để đi tìm chân lý cho công án của chính mình.
Trải qua sáu năm trường
tu khổ hạnh, nhưng Ngài vẫn không đạt được kết quả gì:
Sáu năm tầm đạo chốn
rừng già
Khổ hạnh ai bằng Ðức Thích Ca
Chim hót trên vai sương phủ áo
Hươu kêu bên núi tuyết đơm hoa.
Sau đó Ngài từ bỏ lối tu
khổ hạnh này, trở về với con đường trung đạo. Ngài đến Bodhgaya ngồi nhập định
dưới cội Bồà-đề và phát nguyện rằng: "Nếu ta không thành đạo thì dù thịt
nát xương tan ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này."
Trong 49 ngày đêm ngồi
tham thiền nhập định, Ngài đã chiến đấu với giặc phiền não ở nội tâm như tham,
sân, si, mạn nghi và chiến đấu với giặc Thiên ma do Ma vương ba tuần chỉ huy.
Sau khi thắng được giặc ở nội tâm và ngoại cảnh, tâm trí được khai thông, Ngài
hốt nhiên đại ngộ, chứng được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác và trở thành
Ðức Phật Thích-ca-mâu-ni.
Ðức Phật vì một đại
nguyện lớn lao, vì một lòng từ bi vô bờ bến mà xuất gia tìm đạo. Ðại nguyện và
lòng từ bi rộng lớn ấy là: "Cầu thành Phật quả để trên đền đáp bốn ơn sâu,
dưới cứu vớt ba đường khổ." Do vậĩy sau khi giác ngộ Ngài không nhập
Niết-bàn ngay, mà liền nghĩ đến việc giáo hoá chúng sanh.
Tất cả chúng sanh không
phân biệt đẳng cấp, chủng tộc, sang hèn, nếu thực hành theo giáo lý của Ngài ắt
sẽ được an vui, giải thoát, tịch tịnh. Sự giải thoát theo đạo Phật không ở đâu
xa, mà ngay trong cuộc sống hiện tại này. Con đường giải thoát mà Ngài đã dạy
cho chúng ta qua kinh điển Nikàya, đó là Giới, Định và Huệ. Kinh Tứ Niệm Xứ dạy
rằng:
"Này các tỳ-kheo,
đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não,
diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ niết bàn, đó là bốn niệm
xứ."
Bốn niệm xứ đó là: quán
thân trên thân; quán thọ trên các thọ; quán tâm trên tâm và quán pháp trên các
pháp
Tứ niệm xứ là pháp môn
Chỉ-Quán hay Ðịnh-Tuệ song tu. Nhưng trước khi đi vào thực tập chỉ quán song tu
Ngài dạy chúng ta phải giữ gìn giới luật, có trì giữ giới luật thì thân tâm mới
trong sạch, nhẹ nhàng để bước vào hành thiền đạt nhiều kết quả tốt đẹp. Giới
luật như hàng rào ngăn chặn không cho ngoại ma xâm nhập vào, giữ gìn nội tâm
yên tịnh, để đi vào định một cách dễ dàng, do vậy Ðức Phật luôn dạy đệ tử của
Ngài phải hành trì giới luật trước khi hành thiền. Ðiều này được đức Phật nói
rõ trong bài Ðại Kinh Xóm Ngựa sau đây:
- Phải biết tàm quí
trong khi nhận của cúng dường.
- Thân hành, khẩu hành, ý hành, sanh mạng phải được thanh tịnh, minh chánh.
- Phải hộ trì các căn.
- Phải tiết độ trong ăn uống.
- Phải chú tâm cảnh giác.
Sau khi trì giới làm cho
thân thanh tịnh, chúng ta lựa một chỗ thanh vắng như thiền đường, gốc cây, khu
rừng, hay bất cứ nơi nào thuận tiện và thoải mái cho việc hành thiền, rồi chúng
ta ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt, rồi thực hành
phương pháp niệm hơi thở vô, hơi thở ra (Anàpànasati). Trong Kinh Một
Pháp, Ðức Phật dạy phương pháp niệm hơi thở vô, hơi thở ra với 16 đề mục: bốn
đề mục về thân; bốn đề mục về thọ; bốn đề mục về tâm và bốn đệ mục về pháp.
Pháp môn này thuộc về
pháp môn Tứ Niệm Xứ (cattàro-satipatthàna), tức là pháp môn đề cập
đến bốn chỗ (xứ) để an trú niệm tức là thân, thọ, tâm và pháp. Pháp môn Anàpànasati
này đề cập đến 16 đề tài về thân, bốn đề tài về thọ, bốn đề tài về tâm, và bốn
đề tài về pháp. Người hành thiền vừa thở vô, vừa thở ra, vừa suy tư quán tưởng
trên 16 đề tài liên hệ đến hơi thở.
Pháp môn này cho cả
thiền định và trí tuệ, gồm chỉ (samatha) và quán (vipasana). Cả
hai chỉ quán đều song tu trong pháp môn này. Khi dùng tầm tứ cột tâm trên hơi
thở vô hơi thở ra, như vậy là chỉ, như vậy là định. Khi lấy trí tuệ quán sát 16
đề tài được lựa chọn, như vậy là quán, như vậy là tuệ.
Tu tập thiền chỉ thì có
thể chứng được từ sơ thiền đến tứ thiền, rồi từ không vô biên xứ đến phi tưởng
phi phi tưởng xứ. Sau đó dùng thiền quán để chứng được diệt thọ tưởng định.
Hoặc có thể từ tứ thiền rồi chuyển qua thiền quán để hướng tâm đến túc mạng
trí, sanh tử trí, và lậu tận trí. Khi hướng tâm đến lậu tận trí vị ấy biết như
thật: "Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là con đường đưa đến
khổ diệt, đây là những lậu hoặc, đây là nguyên nhân của lậu hoặc, đây là các
lậu hoặc diệt, đây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt. Nhờ vậy vị ấy thoát
khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu... vị ấy biết sanh đã tận phạm hạnh đã thành
việc cần làm đã làm ; không có trở lui đời sống này nữa." Vì thế cho
nên thiền quán đóng một vai trò rất quan trọng trong tiến trình đưa đến giải
thoát.
Nhìn vào cuộc sống sau
khi thành đạo của đức Từ phụ chúng ta thấy, nếp sống hằng ngày của Ngài có hai
việc chính là thuyết pháp và hành thiền. Ngài là vị chánh đẳng chánh giác, là
bậc được thế nhân tôn sùng, kính lễ, nhưng Ngài vẫn hành thiền mỗi ngày, đó là
vì Ngài muốn làm gương để sách tấn chư đệ tử của Ngài phải luôn tinh tấn hành
thiền. Chúng ta thường gặp hai lời khuyên của Ðức Phật cho các tỳ-kheo xuất gia:
"Này các tỳ-kheo,
khi các người hội họp lại thường có hai việc phải làm: một là đàm luận về phật
pháp, hai là giữ im lặng của bậc thánh". Sự im lặng của bậc thánh ở đây là hành thiền.
Lời dạy thứ hai là lời
khuyên hành thiền của Ðức Phật: "Này các tỳ-kheo, đây là gốc cây, đây
là những căn nhà trống, này các tỳ-kheo, hãy tu thiền, chớ có phóng dật, chớ có
sanh lòng hối hận về sau. Ðây là lời giáo huấn của Ta cho các ngươi."
Và khi sắp nhập Niết-bàn, Ðức Phật nhắc đi nhắc lại nếp sống của một tỳ-kheo
tối thắng là tu thiền định, thiền quán.
"Này Anada, ở đời,
vị tỷ kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn,tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
mọi tham ái, ưu bi trên đời, đối với các cảm thọ ... đối với tâm ... đối với
các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái,
ưu bi trên đời. Này, Anada, như vậy vị tỳ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính
mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng chánh
pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một vật
gì khác."
Ðức Phật luôn luôn dạy
các đệ tử của Ngài, ngay lúc Ngài còn sống, cũng như trước khi nhập diệt, phải
tinh tấn hành thiền, vì chỉ có một con đường duy nhất đưa đến giác ngộ giải
thoát đó là hành thiền.
Như chúng ta thấy bậc
Ðạo Sư của chúng ta trước khi thành đạo, Ngài đã có nhiều kinh nghiệm về thiền
như vậy và đã tự mình khám phá ra con đường giới định tuệ đưa đến giác ngộ giải
thoát, cho đến khi thành đạo và ngay cả trước khi Niết bàn Ngài cũng hành thiền
định. Trong suốt 45 năm sau khi thành đạo Ngài thuyết pháp, hành thiền và dạy
đệ tử hành thiền, những bài thuyết pháp của Ngài đều nhấn mạnh về thiền.
Chúng ta là những người
hậu học, đang trên đường tu tập, để nối bước theo dấu chân Ngài, chúng ta phải
tinh tấn thiền định, nhưng trước khi thiền định phải giữ gìn giới luật nghiêm
minh, vì có giới mới đi vào định được, khi định được viên mãn thì trí tuệ phát
sanh. Trí tuệ là lưỡi gươm sắc bén nhất, có thể cắt đứt được tận gốc rễ của
phiền não, tham, sân, si, mạn, nghi, giống như cây Tala một khi bị cắt đứt ngọn
thì không thể mọc lên được nữa. Khi các kiết sử được đoạn tận gốc rễ, chúng ta
mới được an vui, giải thoát. Sự an vui giải thoát này không ở đâu xa, mà chính
ở ngay trong cuộc sống này.
Vì thế cho nên, tất cả
chúng ta, giờ giờ, khắc khắc phải tinh tấn tu học, thực hành Tam vô lậu học
(giới-định-tuệ). Vì đó là con đường duy nhất đưa chúng ta đến cõi an vui, giải
thoát, tịch diệt, và Niết-bàn.