Khái niệm về tiềm thức được Freud lần đầu tiên đưa
ra, ông cho phân chia tâm thức con người thành 3 thành phần, ý thức,
tiền thức và tiềm thức. Jung là người phát học thuyết liên quan đến tiềm
thức của ông, sau đó ông triển khai thành “cá thể vô ý thức” và “tập
thể vô ý thức”.
1.Lĩnh vực dưới ngưỡng ý thức:
Khái niệm về tiềm thức được Freud lần đầu tiên đưa ra, ông cho phân
chia tâm thức con người thành 3 thành phần, ý thức, tiền thức và tiềm
thức. Jung là người phát học thuyết liên quan đến tiềm thức của ông, sau
đó ông triển khai thành “cá thể vô ý thức” và “tập thể vô ý thức”.
Học thuyết của Jung có phần giống với khái niệm vô thức (tàng thức)
trong Duy Thức Học của Phật giáo. Tuy nhiên, những khái niệm của ông
đưa ra chỉ nghiên cứu về các hiện tượng tâm lý mà không đi sâu vào các
nguyên tắc vận hành cũng như những quy luật chuyển hóa những tâm lý tiêu
cực, giải phóng con người thoát khỏi những lo âu, phiền não một cách
hoàn toàn.
Lý thuyết của Jung được cho là lý thuyết thực tại luận, ông cho
rằng huyền bí và tôn giáo đều là sản phẩm của hoạt động tâm lý, chỉ có
"siêu tượng" của Vô ý thức là tồn tại. Trong khi đó, Phật giáo cho rằng,
luân hồi và giải thoát đều là thực tại tánh, giải thoát là mục đích có
thể thực hiện được. "Siêu tượng" và "tự tánh" đều thuộc phạm trù của giả
thuyết, chưa đạt đến mức độ thâm sâu và hoàn thiện, dùng mục đích thực
dụng để trị liệu cho những người có tâm lý bất bình thường tuy có giá
trị nhất định của nó, tuy nhiên, vượt qua giới hạn của "tự tánh hiện
thực" là mục đích khó có thể thực hiện được.
Định nghĩa về Vô thức, Jung cho rằng: những hiện tượng tâm lý chưa
được ý thức đến, những yếu tố đó hoặc từ tâm thức lắng xuống, hoặc tri
giác chúng ta quá yếu không đủ sinh lực, nên chúng ở dưới ngưỡng cửa của
tâm thức. Ông phân tích hiện tượng tâm lý thành 2 bộ phận, một bộ phận
tâm thức chúng ta có thể ý thức được gọi là lĩnh vực của ý thức, lĩnh
vực còn lại, những yếu tố ở dưới ngưỡng cửa của tâm thức gọi là Vô Thức.
Phạm trù Vô thức của Duy thức học Phật giáo là một phạm trù mang
tính đặc thù, giải thích các hiện tượng này không chỉ đơn thuần dựa trên
những hiện tượng tâm lý (thô) mà bao trùm cả một hệ thống của 8 dòng
tâm thức chính, các hạt giống và các tâm lý phụ tương đương.Ở đây, năm
thức trước ( thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) thuộc về hoạt động cảm
giác( hiện lượng) do tiếp xúc trược tiếp với ngoại cảnh mà phát sanh,
không có tác dụng phân biệt. Chỉ có thức thứ sáu tức ý thức mới có tác
dụng phân biệt, tư duy.
Khái niệm ý thức của Duy Thức học có nhiều loại, ngũ câu ý thức(
cùng với 5 thức trước sanh khởi), độc đầu ý thức (khởi tác dụng phân
biệt, tư duy), mộng trung ý thức và định trung ý thức( trạng thái mộng
và thiền định). Như vậy, khái niệm về ý thức ở đây khác với quan điểm về
ý thức của Jung, 2 loai ý thức sau nếu theo định nghĩa của ông thì nó
thuộc về vô thức.
Ngoài ra, khi quan niệm về Vô thức, Jung cho rằng: Vô thức là tất
cả những hiện tượng tâm lý bị thất lạc trong ký ức, những hiện tượng tâm
lý vi tế mà ý thức không đủ mạnh để biết đến, những hoạt động tâm lý
này là sản phẩm của những hoạt động tâm lý liên tưởng, không tự kiểm
soát được, mộng cũng là sản phẩm của hoạt động liên tưởng này. Bên cạnh
đó, những tâm lý chịu áp lực mạnh, không được bộc phát ra nên bị đè nén,
tiềm ẩn bên dưới ngưỡng của ý thức đều thuộc phàm trù của Vô Thức.
Ở điểm này, những năng lượng tiềm ẩn theo Duy thức học chính là
những hạt giống (seed) chúng được cất chứa trong tàng thức ( A lại da),
khi tiếp xúc với ngoại cảnh, ở điều kiện thuận duyên, dưới sự tác động
của truyền tống thức ( Mạc na) những hạt giống ấy sẽ được hiện hành trên
ý thức. Cũng giống như Jung quan niệm: có những cái ta đã từng biết,
nhưng trong lúc ấy ta quên lãng đi, hoặc là những cái ta thường hay nghĩ
đến và trong lúc đó quên đi tất cả, chúng ta cảm nhận được chúng nhưng
không có sự chú ý, hoặc những cái vô tình cảm nhận...những cái này hiện
tại vô tình hình thành trong tâm chúng ta, và một ngày nào đó nó sẽ xuất
hiện trên Ý thức.
Thực ra, những cái ông trình bày trên đều ám chỉ cho ký ức, những
cái ta đã từng biết, nhưng trong lúc ấy ta quên lãng đi là tình huống
tùy theo thời gian khởi tác dụng của ký ức, tình huống này có thể khắc
phục, còn tình huống thứ hai:những cái ta thường hay nghĩ đến và trong
khoảng khắc ấy bổng dưng quên đi, tình huống này rất khó hồi phục của ký
ức ( thông qua thôi miên hoặc những phương pháp đặc thù mới có thể hồi
phục). Quan điểm về ký ức, Duy thức học gọi đó là tâm sở "niệm". Tâm sở
niệm hình thành nên ý thức đồng thời lưu giữ toàn bộ tin tức và hình
thành ký ức. Jung đề cập đến những động tâm lý hình thành trên cơ sở
không có sự chủ ý , ở đây Duy thức học gọi đó là những hạt giống vô ký
tánh ( không thiện, không ác) và dĩ nhiên những năng lượng tâm lý này
khi hiện hành nó sẽ hình thành hành động vô ký.
So với tâm lý mềm yếu, vi tế, không đủ mạnh để cảm quan chú ý đến
của Jung, Duy thức học đưa ra 5 loại: tâm thô (tâm thức và đối tượng
tiếp xúc trong một sát na sinh ra), tâm tìm cầu (muốn hiểu rõ đối tượng
tiến hành quan sát và suy gẫm), tâm quyết định (đối với đối tượng nảy
sinh sự hiểu biết rõ ràng), tâm nhiễm tịnh (cảm nhận thiện ác), tâm đẳng
lưu (tâm nhiễm tịnh liên tục sanh khởi). Tâm lý mềm yếu mà Jung đưa ra
chỉ tương ứng với hai loại tâm đầu, 3 loại tâm sau chỉ thấy xuất hiện
trong Duy Thức Học mà thôi.
2. Vô thức cá thể và vô thức tập thể
Những hiện tượng tâm lý mềm yếu mà Ý thức không thể biết đến được
trình bày ở trên thuộc về vô thức cá thể. Nói về vô thức cá thể , Ông
cho rằng ký ức thực chất không phải là nội dung chủ yếu của vô thức cá
thể mà nội dung chủ yếu của nó là những dòng cảm xúc phức tạp (emotional
coloring) hay còn gọi là "tình kết". Tình kết là sự tổ hợp liên kết
giữa tri, tình và ý. Có rất nhiều loại tình kết, mỗi loại đều có kết cấu
riêng của nó chính vì vậy tạo nên sự khác biệt với nhau giữa các cá
thể. Tình kết thông thường chỉ về tâm lý chấp trước, như tự ti tình kết,
sùng bái tình kết...và chúng ta được biết đến nhiều nhất là tình kết ái
mẫu (Oedipus complex) của Freud. Tuy nhiên tình kết cũng tạo nên những
tâm lý hưng phấn, là nguồn cảm hứng của những sáng tác nghệ thuật, tạo
nên tính đa dạng trong đời sống tinh thần.
Jung cho rằng Vô thức tập thể thuộc về yếu tố di truyền. Ví dụ,
trong tình huống ta không có động cơ tự chủ, đột nhiên bản năng khiến
thực hiện một hành động nào đó. Ở bề mặt sâu của tâm thức có một hình
thức trực giác cố hữu tức tri giác và sự lĩnh ngộ của siêu tượng. Những
yếu tố này là nhân tố quyết định các quá trình tâm lý. Giống như bản
năng hướng con người thích nghi với phương thức sinh tồn, Siêu Tượng
hướng dẫn tri giác và phương thức lĩnh ngộ của con người hòa nhập với
đặc tính của nhân loại. Do đó, bản năng và siêu tượng hình thành nên Vô
thức tập thể.
Ông cho rằng, bản năng mang tính phổ biến và lặp lại, vì thế nó
thuộc về hiện tượng tập thể, không liên quan tới một đặc thù của một cá
nhân nào và siêu hình cũng tương đồng với bản năng về tính chất ấy. Hoạt
động của bản năng thì nằm trong vô thức nhưng tính chất của vô thức
không hoàn toàn thiên về bản năng. Jung cho rằng bản năng thuộc về cơ
chế sinh lý trời phú cho, mang tính di truyền. Và dĩ nhiên bản năng là
phương diện của sinh vật học, do đó lý luận về vô thức tâp thể của Ông
chủ yếu là vấn đề siêu tượng. Có thể nói rằng, nội dung chủ yếu của vô
thức cá nhân là tình kết và nội dung chủ yếu của vô thức tập thể là siêu
tượng, hai nhân tố này có quan hệ rất mật thiết với nhau.
Jung cho rằng vô thức tập thể không phải do kinh nghiệm cá nhân đạt
được mà đó là yếu tố cố định có sẵn, cả loài người đều có, nói cách
khác vô thức tập thể mang tính phổ quát. Duy thức học thì cho rằng mọi
chúng sanh có chung tánh phổ quát đó là phàm phu tánh. Phật giáo quan
niệm, chúng sanh nghiệp lực khác nhau nên tồn tại khác nhau trong tam
giới, lục đạo, tứ sanh. Chúng sanh cộng nghiệp tức tương đồng địa, đạo,
sanh thì có cùng tánh phổ biến, hay gọi là tập thể tánh.
+ tánh tập thể: thể hiện qua tương đồng về sở biến kế thế gian tức
thế giới vật chất, tương đồng về sở thân căn thế gian (tức cơ chế cảm
giác) và tương đồng về nhận thức tình cảm và các tâm lý khác.
-Tương đồng về sở biến kế thế gian tức là những chủng tử (phiền não
chướng và sở tri chướng) của A lại da thức, dưới sự tác động của Mạc na
thứ trở nên hiện hành, biến ra vật chất thế giới. Tâm thức của mỗi
chúng sanh đều tồn tại chủng tử ấy nên khi biến ra sẽ tương đồng, gọp
lại thành cái thế giới sơn hà đại địa. Ở điểm này Duy thức học có đưa ra
một ví dụ, giống như trong một căn phòng có rất nhiều ngọn đèn được
mang vào, ánh sáng của nhiều ngọn đèn tạo thành một khối, không thể phân
biệt ranh giới ánh sáng của ngọn đèn nào.
-Tương đồng về sở biến thân căn, chúng sanh đồng loại (cùng chung
gới, địa, đạo) thì có thân căn tương đối giống nhau như cơ chế, cơ năng
của cảm giác. Chẳng hạn như thính giác và thị giác của con người trong
một điều kiện thích hợp nào đó mới phát huy tác dụng (cường độ cần thiết
cho thị giác có bước sóng là 390mm, cho thính giác là 16hertz, tối đa
cho thị giác là 780mm và thính giác là 20.000hertz...), ở động vật thì
mỗi loài có đặc điểm có loài thì mắt tinh, có loài chạy nhanh, có loài
khứu giác nhạy.... những đặc trưng của những bản năng này cùng chung
đồng loại thì giống nhau và tạo nên những đặc trưng tâm lý giống nhau
như người nam luyến ái người nữ và người nữ luyến ái người nam...
-Tương đồng về nhận thức tình cảm và các tâm lý khác: Chúng sanh
đồng loại thì hình thành nhận thức, tình cảm và các nội dung tâm lý
giống nhau, ở các chúng sanh không cùng loại thì hình thành nên nhận
thức khác nhau. Ví dụ cùng một dòng sông, con người thấy đó là nước, Ngạ
quỷ thấy đó là máu huyết, tôm cá cho đó là nhà...
Tam giới chúng sanh tuy ở các cảnh giới khác nhau, tuy nhiên có
cùng chung một đặc tính đó là dục nhiễm, ở những cảnh giới cao hơn dục
giới như sắc giới và vô sắc giới thì dục nhiễm nhẹ và vi tế hơn. Tuy
nhiên ở cảnh giới chúng ta đang hiện hữu thì ái dục là căn bản "ái bất
trọng bất sanh ta bà". Do đó, Đức Phật dạy, chúng sanh ở dục giới, khi
lúc nhập bào thai, nếu là người nữ thì sanh tâm ái nhiễm ngưới cha, nếu
là nam thì ái luyến ái người mẹ. So với quan điểm "ái mẫu tình kết" của
Freud thì lý thuyết này Đức Phật đã đưa ra từ hơn hai nghìn năm trước.
+Siêu Tượng:
Nội dung Vô thức tập thể của Jung chủ yếu đề cập đến Siêu Tượng.
Nội dung của siêu tượng bao gồm: hàm nghĩa siêu tượng, sự khác biệt giữa
siêu tượng và quan niệm siêu tượng, siêu tượng biểu hiện trong Ý thức.
Như đã đề cập ở trên, siêu tượng là một số trực giác mang tính cố hữu có
trước, tức hình thức tri giác và lãnh ngộ. Trong đời sống sinh hoạt, có
bao nhiêu hoàn cảnh khác nhau thì có bấy nhiêu siêu tượng khác nhau.
Bất kể khi nào, chúng ta nhìn thấy tính phổ biến và lập lại của hình
thức "lĩnh ngộ" thì đó là siêu tượng, không kể nó có mang tính chất và
đặc trưng của huyền bí hay không. Nghiên cứu về siêu tượng của ông như
siêu tượng về huyền bí, tôn giáo thậm chí thượng đế, đa số là tiến hành ở
góc độ "lĩnh ngộ". Ở đây, "lĩnh ngộ" thuộc phạm trù của hoạt động tri
thức, là tập hợp những hoạt động tri giác chứ không giống với lĩnh ngộ
theo quan điểm Phật giáo.
Siêu tượng chứa đựng những kinh nghiệm xa xưa có từ thời tiền sử,
những kinh nghiệm tích tụ từ khi con người có mặt trên trái đất. Siêu
tượng này chỉ đạo nhục thể, vượt qua cả siêu ngã, và Ngã lý tưởng.
Trong Duy thức học, phạm trù của tri giác thể hiện (Embodied
consciousness) và tính có thể hành động (Action possibility) chủ yếu là
tâm sở. Thành Duy Thức Luận cho rằng: "trợ thành tâm sự, đắc tâm sở
danh", tức tâm sở giúp đỡ tâm thức hoàn thành các hoạt động tâm lý (nhận
thức, tình cảm, ý chí...). Tâm sở gồm có 51 gồm biến hành, biệt cảnh,
thiện, phiền não, và bất định tâm sở. Trong đó, biến hành, biệt cảnh và
bất định tâm sở thể hiện công năng qua tri, tình và ý, tác dụng của
thiện tâm sở và phiền não tâm sở không những bao hàm lãnh vực của nhận
thức mà còn bao hàm cả hành vi. Jung cho rằng siêu tượng là thuần hình
thức, thực tế Duy thức học cũng bao gồm thuần hình thức, chẳng hạn tâm
sở tham là tập thể tánh, cả nhân loại đều có như tham tiền tài, danh
vọng, sắc dục, thậm chí tham công đức, tham giải thoát...
Tâm sở thường thì cùng với Ý thức sanh khởi, do vậy những nội dung
tâm lý có thể ý thức đến không thuộc phàm trù Vô thức như Jung nói về
siêu tượng. Những tâm sở cùng với ý thức sanh khởi đều có chủng tử riêng
của nó được lưu trử trong tàng thức. Chủng tử phân thành 2 loại là bản
hữu chủng tử và tân huân chủng tử, bản hữu chủng tử so với siêu tượng có
phần giống nhau còn tân huân chủng tử, tức kết quả hình thành của mỗi
lần tâm lý hoạt động huân tập thành, tác dụng bảo trì kinh nghiệm mới
cho hoạt động tâm lý, nên nó là nội dung của ký ức. Do đó có thể thấy
rằng, siêu tượng của Jung có điểm giống và khác với Duy Thức học. Tâm lý
học của Jung, siêu tượng là thành phần của Vô thức tập thể, trừ khi
quan niêm siêu tượng chuyển thành nội dung của Ý thức , ngược lại nó và ý
thức không cùng chung phạm trù, và có nội dung tâm lý khác nhau. Duy
thức học thì hiện hành và chủng tử, tức nội dung trên và dưới ngưỡng của
ý thức không phải là hai phạm trù khác biệt mà đó chỉ là sự khác nhau
về hiển tánh và ẩn tánh mà thôi.
+Tình kết và siêu tượng:
Quan hệ giữa tình kết và siêu tượng chính là quan hệ giữa Vô thức
cá thể và Vô thức tập thể. Jung cho rằng, Vô thức cá thể chủ yếu là do
kinh nghiệm cá nhân mà hình thành nhưng Vô thức tập thể thì cả nhân loại
đều có, khi con người bắt đầu tiến hóa thì nó đã có, nói cách khác, Vô
thức tập thể mang yếu tố di truyền, còn Vô thức cá nhân mang tính kinh
nghiệm. Sự khác nhau của tình kết và siêu tượng cũng như vậy. "Tình kết
của Vô ý thức đem những thuộc tính quan sát và tình cảm hấp dẫn môi
trường xung quanh, bất luận người ta ý thức đến hay không thì nó vẫn tồn
tại. Chúng thuộc về vô thức cá thể mà cũng có thể thuộc về vô thức tập
thể. Còn có những loại tình kết, có thể mọi người đều có, nhưng nó không
phải là vô thức cá thể mà nó thuộc về vô thức tập thể, ví dụ "tình kết
cứu tinh". Cứu tinh tình kết là một hiện tượng của vô thức tập thể,
trong thời đại mê man, thảm hại của nhân loại thì nó tự nhiên bị kích
thích dậy. Do đó, có thể thấy tình kết và siêu tượng có quan hệ rất mật
thiết với nhau.
Trong duy thức học, căn nguyên phân biệt Vô thức cá thể và Vô thức
tập thể chính là biệt nghiệp và cộng nghiệp. Tình kết của Jung so với
khái niệm “tập khí” có phần giống nhau, tuy nhiên, tập khí trong Phật
giáo chỉ về tính cường liệt và đột xuất của đặc trưng tâm lý (đặc trưng
của những tâm lý tiêu cực). Chúng sanh luôn hồi trong sáu nẻo, vì thế mà
tập khí cũng mang tính di truyền. Tức hiện thế chúng ta mang tập khí
như thế nào, khi qua đời sau chúng sẽ được xuất hiện, đây cũng chính là
tính biệt nghiệp của mỗi chúng sanh mà tạo thành. Do đó, Ý thức và Vô
thức cá nhân (hiện hành và chủng tử) đều đến từ biệt nghiệp và biểu hiện
chủ yếu qua tập khí. Còn chúng sanh cộng nghiệp chính là đều mang tính
phàm phu, tính dục vọng vậy.