Nếu nói trên phương diện tư duy triết học truyền thống đã có được
nhiều điều bổ ích từ Phật giáo, từ đó khiến cho trình độ tư biện của tự
thân nó có một bước tiến bộ rất lớn, thế thì, để "hồi đáp" lại, trên mặt
nội dung tư tưởng của triết học truyền thống Trung Quốc cũng đã cho
Phật giáo một sự ảnh hưởng rất lớn.
Ở một mức độ nhất
định tư tưởng lý luận của Phật giáo truyền thống lấy Phật làm căn bản,
giáo lý Phật giáo ân cần hướng dẫn con người không ngoài mục đích là
muốn con người rõ được hết thảy các pháp (trong đó bao gồm con người)
thế gian cho đến xuất đều là sự thể hiện của Phật, Phật tánh, điều mà
con người cần làm đó là nương theo lời Phật dạy tinh tấn tu hành tiến
đến thấy rõ Phật tánh, thành Bồ-tát và làm Phật. Điểm này thể hiện rõ
nhất ở Phật giáo Đại thừa.
Phật giáo Đại thừa lấy việc thành
Bồ-tát làm Phật là mục đích sau cùng, nhân đó mà lý luận Phật tánh trước
sau đều là nội dung cốt lõi của Phật giáo đại thừa. Lý luận Phật tánh
được đề cập, nói đơn giản hơn, chính là tư tưởng, học thuyết hay lý luận
có liên quan đến vấn đề Phật tánh, các đối tượng nghiên cứu như thế nào
là Phật? Bản thể của Phật là gì? Chúng sanh có Phật tánh hay không? Có
thể làm Phật được không? Nếu làm Phật được thì lấy gì để căn cứ? Rồi,
nên tu hành làm sao mới có thể làm Phật? v.v..... Như ở trước chúng ta
đã chỉ ra, do Phật giáo Đại thừa đem bản thể hóa Phật tánh xem đó là bản
thể của hết thảy chúng sanh cho đến các pháp, điều đó khiến cho học
thuyết Phật giáo truyền thống càng chú trọng ở bản thể trừu tượng, lấy
đó làm điểm xuất phát và mục tiêu hướng về của toàn bộ Phật học, mà làm
một chúng sanh hư ảo tạm thời đối với bản thể trừu tượng này thì thật
quá dững dưng. Trên mảnh đất vốn xưa nay luôn xem trọng vào đời sống
hiện thực của con người thì khuynh hướng tư tưởng này của truyền thống
Phật giáo đại thừa mới khởi đầu đã gặp phải phiền toái, loại phiền toái
này trước hết biểu hiện ở sự mâu thuẩn và xung đột giữa học thuyết Phật
giáo và triết học luân lý cổ đại của Trung Quốc.
Phật giáo truyền
thống xem đời người thành một giả tướng, ảo ảnh chỉ trong nháy mắt đã
mất đi, thì tự nhiên không mấy xem trọng giá trị của hiện thực nhân
sanh, chẳng màng đến quan hệ nhân luân hiện thực, ngược lại, học thuyết
Nho gia Trung Quốc thời xưa, luôn luôn lấy con người làm điểm chú ý, lấy
con người làm cốt lỏi của toàn bộ học thuyết. Sự xem trọng hiện thực
nhân sanh, chú trọng sự việc của người trong đời sống hiện thực, cần mẫn
không mỏi mệt đối với việc tìm tòi bản thể của con người, mối tương
giao giữa người và người của Nho gia, khiến cho trên một mức độ nhất
định Nho học truyền thống được xem là "nhân học", được xem như là một
giá trị hiện thực chú trọng con người, triết học luân lý nghiên cứu bản
thể người và mối tương quan giữa người với người. Loại triết học này ảnh
hưởng rộng rãi, lớn mạnh và ăn vào góc rễ đối với một xã hội cổ đại
Trung Quốc, khiến cho các hình thái ý thức trong nền lích sử Trung Quốc
đều đã ý thức hay không ý thức hướng đến gần gủi con người, gần gủi hiện
thực. Cho dù một hình thái ý thức nào chăng nữa nếu như có ý đồ không
nhìn nhận nhân luân, xa rời hiện thực thì sự tồn tại và phát triển của
nó sẽ chịu một sự ảnh hưởng nhất định. Chính vì thế mà Phật giáo trong
một thời gian dài trong lịch sử truyền vào Trung Quốc, đã phải đi qua
một đoạn đường hết sức gian nan.
Phật giáo trong thời kì đầu
truyền vào Trung Quốc, đặc biệt là một vài tông phái Phật giáo và học
thuyết trung thực với Phật giáo chính thống, tuy là nhờ vào sự hoằng
dương lớn lao của các tăng nhân đến từ Ấn Độ và sự cật lực hộ trì của
một số hoàng đế, quý tộc cho đến nhờ Phật giáo vốn đủ lý luận tư biện
khá vững vàng đã một thời đi mưa về gió, thế nhưng, trước thời Tùy Đường
Phật giáo vẫn chưa thể có được một trào lưu tư tưởng độc lập trong xã
hội, sự truyền bố của Phật giáo thường chỉ xuất hiện như là phần phụ
thuộc của văn hóa Trung Thổ nào đó mà thôi, cũng giống như thời Hán Ngụy
chạy theo phương thuật Hoàng Lão đạo và thần tiên, thời Ngụy Tấn chạy
theo Huyền học, Nam Bắc triều chạy theo "thuyết linh hồn bất diêt"
v.v... Nhưng đến hai đời Tùy, Đường, Phật giáo Trung Quốc đã có sự phát
triển lớn, Phật giáo lúc này không giống như Phật giáo của trước đây cần
phải nhờ vào "cây gậy" của văn hóa bản địa, mà đã phát triển thành một
tư trào xã hội độc lập cùng với hai tôn giáo Nho, Đạo làm thành cái
kiềng ba chân. Thế nên đã xuất hiện một cục diện, không ngoài có khả
năng là hai vấn đề: Thứ nhất là người Trung Quốc thích ứng với đạo Phật,
thứ hai, Phật giáo thích ứng với nhân tình Trung Quốc. Từ quan điểm của
lịch sử để nhìn thì điểm thứ hai càng có khả năng thích hợp với quy
luật phát triển của hình thái ý thức xã hội. Tình huống thực tế vẫn như
vậy, Phật giáo lúc bấy giờ, tuy bên ngoài không dựa vào bất cứ một loại
hình văn hóa bản địa nào của Trung Quốc, nhưng trên thực tế tự thân Phật
giáo cũng đã tự thân đang từ từ Trung Quốc hóa... Phật giáo Tùy Đường
thông qua sự dung hòa, hấp thụ các tư tưởng có liên quan triết học
truyền thống Trung Quốc mà đã khiến tự bản thân Phật giáo đã có nhiều
đặc sắc của Trung Quốc, càng thích hợp nhân tình, nhân đó mà càng được
người dân Trung Quốc thời ấy tiếp nhận.
Thế thì, Trung Quốc hóa
Phật giáo thời Tùy Đường chủ yếu biểu hiện ở phương diện nào? Nếu chỉ
cần một lời có thể sáng tỏ thì đó là tập trung thể hiện ở Nho học hóa
Phật giáo, hay nói thêm một bước là tập trung thể hiện ở tâm tánh hóa,
nhân tánh hóa của học thuyết Phật giáo. Đối với điều này, những sự thực
của lịch sử Phật giáo Trung Quốc đã cho chúng ta một sự chứng minh đầy
sức thuyết phục. Nếu nói bản thể mà Phật giáo ở thời kì trước Tùy Đường
đã chú trọng cho đến thuật ngữ được dùng đến, mang đầy sắc thái Phật
giáo, như gọi là Thực tướng, Chân như, Phật tánh, Pháp giới v.v... Vậy
thì từ sau thòi Tùy Đường do chịu ảnh hưởng của triết học luân lý truyền
thống Trung Quốc bản thể này đã được từ từ chuyển sang phương diện tâm
tánh, nhân tánh, từng bước tâm tánh hóa, nhân tánh hóa.
Từ sau
cuộc thống nhất tông phái Phật giáo lần thứ nhất vào thời Tùy Đường,
không ngại bắt đầu nói từ tông phái Thiên Thai. Tuy trên bề mặt tổng thể
mà nói, học thuyết của Thiên Thai tông vẫn còn mang đậm sắc thái cường
điệu bản thể trừu tượng của Phật giáo truyền thống, nhưng đi sâu vào học
thuyết cụ thể thì, người ta có thể thấy được rằng rất nhiều lý luận của
Thiên Thai tông đã có khuynh hướng chú trọng vào "tâm tánh". Ví dụ như,
trong các trước tác của người Thiên Thai tông tuy họ cũng thường dùng
thực tướng trung đạo để nói Phật tánh, nhưng đã dần dần xuất hiện khuynh
hướng đem thực tướng các pháp qui về nhất tâm (một tâm). Như Huệ Tư đã
dùng "giác tâm" để giải thích Phật tánh cho rằng: "Phật gọi là giác,
tánh gọi là tâm" ("Đại thừa chỉ quán pháp môn" quyển hai), Trí Nghĩ càng
lộ liễu hơn đã đem "tâm" làm chỗ quy về của chư pháp, cho rằng: "Tâm là
góc của các pháp, tâm là tổng thể vậy" ("Pháp hoa huyền nghĩa" phần
thượng, quyển thứ nhất) đồng thời lấy "quán tâm nhất nguyên", "phản quán
tâm tánh" làm phương pháp căn bản nhất để tu hành thành Phật; Đệ tử của
Trí Nghĩ là Quán Đãnh cũng nói: "Quán tâm nhất niệm, tức là Như Lai bảo
tàng của trung đạo, tri kiến của Phật thường lạc ngã tịnh" ("Quán tâm
luận sớ" quyển ba). Có thể thấy, học thuyết Phật tánh của Thiên Thai
tông đã xuất hiện khuynh hướng chú trọng duy tâm.
Sánh với Thiên
Thai tông, lý luận Phật tánh của Hoa Nghiêm tông càng đậm sắc thái duy
tâm hơn. Vốn dĩ, Hoa Nghiêm tông là lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bổn tông.
Một trong những tư tưởng cơ bản nhất của Kinh Hoa Nghiêm là trên quan
điểm truyền thống "Pháp tánh vốn thanh tịnh" tiến đến nói rõ các pháp
cho đến chúng sanh, chư Phật là bình đẳng tương tức, viên dung vô ngại.
Thế nhưng, khi người của Hoa Nghiêm tông lấy các lý luận "Thập huyền vô
ngại", "Lục tướng viên dung", "Lý sự vô ngại" để giải thích Pháp giới
duyên khởi liền chú trọng ở việc đem "các duy tâm hiện cố" (các pháp do
tâm biến hiện) để giải thích sự tương nhập tương tức của vạn sự vạn vật
cho đến chúng sanh, chư Phật, chỉ ra"Tất cả các pháp đều do tâm hiện, tự
thể không khác, nên tùy tâm hồi chuyển, liền được vô ngại" ("Hoa Nghiêm
kinh chỉ quy")Họ cho rằng, hết thảy vạn pháp cho đến chư Phật "Đều ở
trong tâm của chúng sanh, lìa chúng sanh không có công đức nào khác của
Phật" ("Hoa Nghiêm kinh tham huyền kí"quyển một) "Tâm tâm làm Phật,
chẳng một tâm nào khác Phật tâm (như trên), lìa ngoài tâm Phật không có
chúng sanh,... Cho nên hết thảy chúng sanh đều ở trong Phật trí" ("Đáp
thuận tông tông tâm yếu pháp môn"). Tóm lại, tâm phật và chúng sanh là
bình đẳng nhất thể, tương tức dung thông. Từ tư tưởng này xuất phát, Hoa
Nghiêm tông xem trọng sự việc từ sự mê ngộ của tâm để nói sự dị đồng
của Phật và chúng sanh, chỉ ra rằng "Do mê ngộ không giống nhau mà có
chúng sanh và Phật" ("Đại Hoa Nghiêm kinh lược sách")
Ở đây cần
nêu ra một vấn đề, tức là trong kinh luận Phật giáo Ấn Độ cũng có các
cách nói "Tâm Phật và chúng sanh là ba thứ không có sự sai biệt", "tam
giới không có pháp sai biệt, chỉ do một cái tâm tạo nên", tại sao chúng
tôi đem các khuynh hướng duy tâm của Thiên Thai tông và Hoa Nghiêm tông
quy kết vào những khuynh hướng chịu sự ảnh hưởng của triết học luân lý
truyền thống Trung Quốc? Mấu chốt ở đây, chính là làm sao để nhìn nhận
nội hàm của chử "Tâm" mà hai bên đề xướng. Nói thẳng ra là, do Phật giáo
Trung Quốc có nguồn góc từ Ấn Độ, nội dung tư tưởng cho đến ngôn ngữ
được sử dụng trong các trước tác, phần lớn đều theo Phật giáo Ấn Độ.
Nhưng khi đã là Phật giáo Trung Quốc nó đã được thông qua phương pháp tư
duy tập quán tâm lý của tăng nhân Trung Quốc để lý giải và đón nhận nó,
điều này khiến cho cùng một dụng ngữ lại thường có nội hàm ý nghĩa khác
nhau. Luận lý duy tâm của hai tông phái Thiên Thai, Hoa Nghiêm cũng có
những đặc điểm này. Tuy chữ "tâm" mà Hoa Nghiêm và Thiên Thai đề cập có ý
tương đồng với "chân tâm", "thanh tịnh tâm", của bản thể trừu tượng
trong Phật giáo truyền thống, nhưng cũng không thể phủ nhận trên một mức
độ nhất định đã mang sắc thái của văn hóa truyền thống Trung Quốc, đặc
biệt là đặc điểm "tâm tánh" của triết học luân lý Nho gia mang tính chủ
lưu của văn hóa truyền thống Trung Quốc. Như "tự giác", "chúng sanh
tâm", "nhất niệm tâm" mà Thiên Thai tông nói, tuy là bao hàm các yếu tố
"thực tướng", "chân tâm" - làm bản thể của các pháp, nhưng trên mức độ
nhất định thì tương đồng với "tâm tánh" của Nho gia; cho đến Hoa Nghiêm
tông thường lập riêng "tâm" ngoài "sự", "bổn", "mạt", đồng thời thường
dùng "các duy tâm hiện", "tùy tâm hồi chuyển" để nói sự dung thông vô
ngại, tương tức tương ấn của các pháp, chữ "tâm", và "pháp tánh", "chân
tâm" đều có sự sai khác. Cũng là nói chữ "tâm" mà Hoa Nghiêm nói vừa có ý
chỉ "chân tâm" vừa có hàm ý "cụ thể tâm". Tuy về sau Pháp Tạng đã biết
đổi " tùy tâm hồi chuyển thiện thành môn" trong "Thập huyền môn" thành
"chủ bạn viên minh cụ đức môn", dụng ý ở đây có thể là để tránh sự mâu
thuẩn trên mặt lý luận do khuynh hướng duy tâm tạo thành, nhưng cũng
ngay đó ngược lại đã nói rõ trong tư tưởng Pháp Tạng, khuynh hướng duy
tâm đã đạt đến một mức độ cao.
Khuynh hướng duy tâm theo cách của
Trừng Quán lại tiến xa hơn một bước, thậm chí Pháp Tạng còn dùng "linh
tri chi tâm" để giải thích "bản giác", điều này khiến cho chữ tâm càng
có tính chất "tâm tánh" mà Nho gia đề xướng.
Nếu như nói hai tông
phái Thiên Thai và Hoa Nghiêm cụ thể hóa "tâm" chủ yếu biểu hiện như là
một khuynh hướng, thế thì đến bài kệ của Thiền tông "tức tâm tức Phật",
đem hết thảy quy hết về tự tâm, tự tánh, Nho gia hóa, cụ thể hóa chữ
tâm thế là đã phát triển tới một giai đoạn mới, cũng là nói hai tính
chất của chữ "tâm" trong Hoa Nghiêm và Thiên Thai tông chủ yếu biểu hiện
ở nội hàm cơ bản của "chân tâm", và sự hòa trộn ở khuynh hướng tánh của
tâm cụ thể, mà trong học thuyết Phật tánh của Thiền tông, chữ "tâm" tuy
có lúc được sử dụng như là "chân tâm" bản thể, nhưng từ nội hàm cơ bản
của tâm để nói thì càng rất gần gủi với "tâm tánh" mà Nho gia đề xướng,
điểm này chúng ta có thể từ một vài trước tác của Thiền tông có thể có
được lời giải thích.
Ai đọc qua "Đàn kinh" cũng đều có một cảm
giác,"Đàn kinh" không sâu xa khó hiểu giống như các kinh điển Phật giáo
truyền thống; mà với những người nghiên cứu triết học cổ đại Trung Quốc
thì càng thấy rằng rất nhiều tư tưởng và thuật ngữ trong Đàn Kinh "có vẻ
như rất quen thuộc", như các cách nói trong Đàn Kinh "Bất thiện chi
tâm", "hữu sai đẳng chi tâm", "đố kị tâm", "siểm khúc tâm", "cuồng vọng
tâm", "mạn tha tâm", "tà kiến tâm", "cống cao tâm"... rất khó lý giải
bằng thuyết "chân như" bản thể trừu tượng của Phật giáo truyền thống, mà
trên mức độ nào đó đối với những hiện thực của con người có thiện có ác
của triết học truyền thống Trung Quốc thì không có gì xa lạ. Đương
nhiên, do vấn đề "tâm" trong Phật giáo truyền thống được nói rất nhiều
mà chữ "tâm" của Phật giáo truyền thống với chữ "tâm" của triết học
truyền thống Trung Quốc đề xướng không hoàn toàn khác biệt rõ ràng, chỉ
cần nhìn là nhận ra ngay như vậy, do đó, không kể là trong giới Phật
giáo hay trong giới học thuật đều thường thấy đem cả hai làm thành một
để bàn luận, điều này tạo nên một sự khó khăn cho việc nhận thức mối
tương quan, đặc biệt là vấn đề ảnh hưởng qua lại của Phật giáo và triết
học truyền thống từ góc độ "tâm tánh". Nhưng trong Phật giáo đã được
Trung Quốc hóa, vấn đền "tâm tánh" là một vấn đề rất quan trọng, chẳng
hạn như, người ta thường nói "Lục tổ cách mạng" (Cuộc cách mạng của Lục
Tổ) là cuộc cải cách mang tính căn bản của Ngài Huệ Năng đối với Phật
giáo truyền thống, mang Phật giáo Ấn Độ biến thành Phật giáo Trung Quốc
hóa hoàn toàn, nhưng nếu có ai hỏi thêm: Căn bản "cách mạng" nhất của
"Lục tổ cách mạng" là gì? Người viết cho rằng căn bản "cách mạng" nhất
của "Lục tổ cách mạng" là đem "tâm" bản thể trừu tượng của Phật giáo
truyền thống biến thành "nhân tâm" càng hiện thực và cụ thể hơn, biến
thành một kiểu "tâm tánh" đã được Nho gia hóa. Trên thực tế, chính sự
biến đổi này đã đưa đến một loạt biến hóa trọng đại trong tư tưởng thiền
tông, trong đó nỗi bật nhất là đem một tôn giáo ngoại tại biến thành
một tôn giáo nội tại, đem đối tượng sùng bái là Phật trong Phật giáo
truyền thống biến thành sùng bái "tâm", nói ngắn gọn hơn, là đem Phật
giáo của Phật Thích Ca Mâu Ni biến thành "tôn giáo Tâm" của Huệ Năng. Ở
đây người ta đã thấy được cái lớn lao và sâu sắc của sự ảnh hưởng "tâm
tánh" triết học truyền thống Trung Quốc đối với tư tưởng Phật giáo.
Ngoài
"tâm tánh" ra, một phương diện ảnh hưởng quan trọng khác của triết học
truyền thống Trung Quốc đối với Phật giáo đó là học thuyết "nhân tánh".
Do vấn đề "nhân tánh" không được đề cập nhiều trong Phật giáo truyền
thống, cho nên sự ảnh hưởng ở phương diện này có thể nhìn là thấy được.
Điều này cũng lấy Huệ Năng và "Đàn Kinh" làm ví dụ. "Nhân tánh" mà "Đàn
Kinh" nói đến nhan nhãn đều là, "nhân tánh bản tịnh", "thế nhân tánh tự
bản tịnh", "Vạn pháp tại chư nhân tánh trung" v.v..., những điều này
trong kinh điển truyền thống không thấy nhiều mà trong triết học truyền
thống Trung Quốc thì đều là thuật ngữ và tư tưởng, nên mới xuất hiện
trong "Đàn Kinh" là bộ kinh của Thiền tông, vấn đề này với bản thân Huệ
Năng cùng với không khí lịch sử văn hóa của xã hội đương thời không phải
không có liên quan. Ngài Huệ Năng, chữ không biết bao nhiêu, trình độ
văn hóa khá thấp, muốn ngài từ trong kinh điển Ấn Độ hấp thụ ít nhiều lý
luận uyên áo đặc biệt là sâu hơn một bước là phương thức tư duy của
Phật giáo truyền thống thì thật là khó, mà quê quán của ngài lại là nơi
ùn ùn khí chất văn hóa truyền thống Trung Quốc lấy Nho gia làm chủ lưu,
do vậy, dù là phương thức tư duy hay là thuật ngữ, Huệ Năng có đủ vẫn là
truyền thống văn hóa Trung Quốc, mà không phải và cũng không thể là
truyền thống Phật giáo Ấn Độ, điều này có thể là một trong những nguyên
nhân quan trọng tạo thành vấn đề lớn "nhân tánh" trong "Đàn Kinh" đề
cập. Từ ý nghĩa đó mà nói, thì nhân tánh hóa của thiền tông là kết quả
của quá trình ảnh hưởng triết học truyền thống Trung Quốc là không còn
nghi ngờ gì nữa
Trong lịch sử phát triển Phật giáo tại Trung
Quốc, nhân tánh hóa tâm tánh hóa của Phật giáo cho đến sự hưng thịnh của
Thiền tông đều là một hiện thực khách quan của lịch sử; một hiện thực
lịch sử khách quan khác đó là sau thời Tùy Đường các tông phái khác của
Phật giáo lần lượt thu nhỏ mà Thiền tông thì lại một mình nổi bật, rộng
rãi đến đi trong thiên hạ, cơ hồ đã thành một đại danh từ của Phật giáo
Trung Quốc. Hai hiện thực lịch sử quấn với nhau, người ta không khó để
thấy rằng tâm tánh hóa, nhân tánh hóa của Phật giáo Trung Quốc đối với
sự truyền bá và phát triển của Phật giáo tại Trung Quốc đã có một ý
nghĩa to lớn như thế nào!
Cũng giống như sức tác dụng và phản tác
dụng của vật lý học cùng hai mặt của một vấn đề, sự ảnh hưởng qua lại
của Phật giáo và nền triết học truyền thống Trung Quốc xưa nay luôn quấn
quýt với nhau. Nếu nói sự ảnh hưởng trên phương diện tư duy bản thể
luận của Phật giáo đối với triết học truyền thống Trung Quốc có thể lấy
học thuyết Phật giáo thời Đường được tâm tánh hóa làm trung gian, thì,
viêc đem tam tánh hoa, nhân tánh hóa của học thuyết Phật giáo Trung Quốc
làm cơ sở thiết lập choTân Nho học Tống Minh về sau của triết học
truyền thống Trung Quốc. Trên mặt lịch sử Tân Nho học Tống Minh còn gọi
là "Tâm tánh nghĩa lý học", chữ "tâm tánh" ở đây trên thực tế là tâm
tánh hóa bản thể Phật giáo, cũng là bản thể hóa tâm tánh của triết học
truyền thống Trung Quốc, là một kiểu tôn giáo, triết học luân lý hình
thành từ sự dung hợp giữa lối tư duy bản thể Phật giáo và nội dung tư
tưởng tâm tánh luận của triết học truyền thống Trung Quốc, từ điểm này
mà nói, thì việc làm rõ sự ảnh hưởng và mối quan hệ qua lại giữa Phật
giáo và triết học truyền thống Trung Quốc chính là vấn đề chính để
nghiên cứu, hiểu rõ và nắm vững những sở tại quan trọng của lý học Tống
Minh ./.
Thích Đồng Thọ (chuyển ngữ)
(Theo
tuvienhuequang.net)