Đạo Phật, đạo của từ bi và trí tuệ, luôn luôn tôn trọng và đề cao
cuộc sống của tất cả chúng hữu tình. Đức Phật xuất hiện trên thế gian
này vì muốn mang hoà bình và hạnh phúc đến cho chư thiên và loài người.
Thực vậy, từ xưa đến nay, Đạo Phật đã không bao giờ đem khổ đau cho
bất cứ ai. Đạo Phật chỉ đưa ra con đường chuyển hoá đau khổ cho những ai
có tâm tìm hiểu và mong muốn để đạt đến con đường đó.
Hôm nay, nhân dịp Hội Ái hữu thành phố Milwaukee tổ chức cuộc nói
chuyện với chủ đề Quan điểm của Phật giáo về án tử hình, chúng
tôi sẽ làm sáng tỏ đề tài này với những ý tưởng như sau:
I.
Năm giới
Các giới luật quan trọng và căn bản hướng dẫn phát triển tâm linh rất
quen thuộc với giới Phật tử là thọ trì ngũ giới (Panca Sila)[1]:
1.
Con phát nguyện vâng giữ giới không sát hại sanh vật.
2. Con phát
nguyện vâng giữ giới không lấy của không cho.
3. Con phát nguyện
vâng giữ giới không tà dâm.
4. Con phát nguyện vâng giữ giới không
nói dối.
5. Con phát nguyện vâng giữ giới không uống rượu say.
Trong ý nghĩa tiêu cực, năm giới này là những điều răn cấm, nghĩa là
không được phạm vào bất kỳ tội lỗi hoặc tội ác nào. Bản chất của sự răn
cấm này được thể hiện ở hai phương diện:
(a) để ngăn chặn và phòng ngừa tội lỗi hoặc tội ác, chẳng hạn như cấm
uống rượu say vì nó có thể dẫn tới tạo tội lỗi hoặc tội ác;
(b) để chấm dứt và không tái phạm những tội ác đã làm, như giết hại,
trộm cướp, tà dâm, nói dối, v.v… chính bản chất chúng là bất thiện.
Trong ý nghĩa tích cực, giới đầu tiên giúp chúng ta tăng trưởng lòng
từ bi. Giới thứ hai có thể giúp nuôi dưỡng đức tính thành thật, tâm bao
dung, không chấp thủ và chánh mạng. Giới thứ ba giúp vun bồi khả năng tự
kềm chế, bảo hộ các căn và những cảm xúc, chế ngự lòng ham muốn trần
tục. Giới thứ tư làm cho phát triển niềm tin yêu, tâm chân thật, và đạo
đức chính trực. Và giới cuối cùng giúp chúng ta quay về chánh niệm, tỉnh
thức, và tuệ giác.
Bởi vậy, thực hành thuần thục những giới luật Phật giáo sẽ giúp chúng
ta sống một cuộc sống đạo đức, thăng tiến đời sống tâm linh trong từng
cá nhân đồng thời giúp thúc đẩy việc chung sống hòa bình trên tinh thần
hợp tác, tin cậy lẫn nhau trong cộng đồng và đẩy mạnh tiến trình xã hội
ngày càng phát triển.
II. Giới đầu tiên
Giới đầu tiên ủng hộ xu hướng phản đối việc phá hủy sự sống. Điều này
dựa vào nguyên lý của thiện tâm và tôn trọng quyền sống của tất cả mọi
loài.
Trong kinh Phạm Võng[2], Đức Phật chỉ dạy cặn kẽ Giới Bồ tát đầu tiên
là: “Đệ tử Phật không được tự mình giết, hoặc bảo người giết, phương
tiện giết, khen tặng sự giết, thấy giết mà tùy hỷ, nhẫn đến dùng bùa chú
để giết, nhân giết, duyên giết, cách thức giết, nghiệp giết.
Có năm điều kiện[3] kết thành hành động giết hại là:
(1) Có hiện
hữu một chúng sanh, con người hoặc loài vật;
(2) Nhận biết rằng
chúng sanh đó đang còn sống;
(3) Dự định hoặc quyết định để giết;
(4) Dùng phương tiện thích đáng để thực hiện hành động giết hại;
(5) Và có hậu quả đưa đến sự chết.
Thiếu bất kỳ một trong các điều kiện này, hành động giết sẽ không cấu
thành, mặc dù sự chết có xảy ra. Điều đó chỉ được xem như sự cố tai nạn
và không gây ra hiệu ứng tội lỗi nào cho người làm hành động này.
Có sáu cách giết[4]: (1) giết bằng chính bàn tay của mình, (2) ra
lệnh cho kẻ khác giết, (3) giết bằng cách bắn, ném đá, đánh gậy, v.v…,
(4) giết bởi việc đào những hầm hố, v.v... để đánh bẫy chúng sanh, (5)
giết bởi dùng thần lực, hoặc các phương cách bí ẩn, và ( 6) giết bằng
mật chú, hoặc khoa học huyền bí nào đó.
Dù sử dụng công cụ nào để giết hoặc phá hủy đời sống tâm linh của
chúng sanh đi nữa thì kẻ đó đã phạm vào sát sanh nghiệp đạo rồi.
Bởi vậy, một Phật tử chân chánh không thể làm hoặc ủng hộ án tử hình
bởi vì án tử hình đồng nghĩa với việc tước đoạt hay chấm dứt đời sống
con người với năm điều kiện và bất kỳ một trong sáu cách giết nói trên.
III. Tâm từ bi
Ở giới đầu tiên trong Kinh Phạm Võng[5], Đức Phật dạy rằng “là Phật
tử lẽ ra phải luôn có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, lập thế cứu giúp tất
cả chúng sanh. Mà trái lại, tự phóng tâm nỡ lòng sát sanh, Phật tử này
phạm Bồ Tát Ba La Di tội”.
Do tuân thủ giới này chúng ta biết cách vun bồi tâm từ và tâm bi. Nên
thương yêu những người khác như chính mình vậy. Cảm nhận được đau khổ
của người khác như của chính mình thì chúng ta sẽ sẳn sàng làm cách nào
đó để có thể giúp họ vơi bớt khổ đau.
Như vậy, chúng ta trau giồi tâm từ bi và tăng trưởng tinh thần vị tha
chính vì phúc lợi của người khác, ý thức tôn trọng và bảo vệ cho tất cả
chúng sanh.
Trong Kinh Từ bi, Đức Phật cũng dạy:
Mong rằng không có ai,
Lường gạt, lừa dối ai,
Không có ai
khinh mạn,
Tại bất cứ chỗ nào.
Không vì giận hờn nhau,
Không
vì tưởng chống đối.
Lại có người mong muốn,
Làm đau khổ cho
nhau.
Như tấm lòng người mẹ,
Ðối với con của mình,
Trọn
đời lo che chở,
Con độc nhất, mình sanh.
Cũng vậy, đối tất cả
Các hữu tình chúng sanh,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng
lớn[6].
IV. Phật tánh
Một nguyên do khác mà giới Phật giáo không ủng hộ án tử hình là vì
Đức Phật có dạy rằng bản chất của mỗi chúng sanh (người hoặc vật) là
thanh tịnh; tinh tế hơn nữa là tâm thanh tịnh, mà cứu cánh bản tâm đó
chính là sự giác ngộ hay tính giác ngộ cũng gọi là Phật tính (Buddhata),
hoặc Tri kiến Phật.
Như Đức Phật xác nhận trong Kinh Pháp hoa[7] “…Và Ta thấy hàng
Phật tử, có đầy đủ giới đức, uy nghi không thiếu sót, bản chất trong
sạch như bửu châu để trở về tuệ giác”. Vì vậy, nếu nay con người
trở nên bạo lực có thể vì nhiều lý do, nhưng nhất định một trong những
lý do chủ yếu là do ác tư duy khởi lên, như hậu quả từ môi trường và
hoàn cảnh của họ. Tuy nhiên, tất cả đều có tiềm năng để cải thiện cũng
như có khả năng quay về với bản tính chân thật hằng có của chính mình.
V. Không sát sanh
Như đề cập, tất cả chúng sanh đều có Phật tính. Vì vậy, chúng ta
không những không nên giết người mà còn không nên làm hại cả loài vật
nữa. Vả lại, trong vài trường hợp tùy theo nghiệp lực, con người có thể
tái sinh làm người và loài vật cũng có thể được sinh lại làm người.
Có một nguyên tắc chỉ đạo rất căn bản trong Đạo Phật để tu tập đạo
hạnh đó là bất hại (ahimsa) - tức ngăn cấm việc gây tổn thương hoặc chết
chóc đối với mọi chúng sanh.
Vì chúng ta ước muốn sống, chúng ta không nên giết người hoặc ngay cả
chúng sanh khác. Hơn nữa, nghiệp sát sanh phải được hiểu như cội rễ của
tất cả khổ đau và nguyên nhân căn bản của bệnh tật và chiến tranh, và
những thế lực giết hại này rõ ràng đồng nhất với ma quân.
Lý tưởng tối thượng và phổ quát nhất của Đạo Phật là phụng sự không
ngừng nghỉ cho đến khi nào chấm dứt hoàn toàn vĩnh viễn khổ đau của tất
cả chúng sanh, chứ không chỉ riêng cho loài người.
Như trong kinh Phạm Võng[8], Đức Phật nói: ‘Mỗi khi một Bồ tát[9]
thấy có người chuẩn bị giết một con vật, vị ấy thường dùng phương tiện
thiện xảo để cứu chuộc và bảo vệ nó, giải phóng nó vượt thoát khỏi tình
trạng khó khăn và đau khổ đó...’
VI. Ăn chay
Tâm từ bi bao la đối với tất cả cũng có nghĩa rằng chúng ta không
những không giết hại con người và loài vật mà còn cần phải tuân thủ quy
tắc tự gìn giữ chính mình chẳng hạn như thực hành ăn chay. Đây là những
lời dạy tích cực và xác thực từ Đức Phật liên quan đến sự phát triển
hoàn hảo nhân cách của con người.
Tất cả các chúng sanh –
Loài người hoặc thú vật,
Rất tham sống sợ chết.
Đều sợ hãi con
dao đồ tể,
Chặt thái chúng thành từng miếng.
Thay vì tàn bạo và
hèn hạ,
Tại sao không dừng giết hại và thương yêu cuộc sống?[10]
Đức Phật khuyến khích việc ăn chay hoàn toàn là một yêu cầu tự nhiên
và hợp lý tương xứng với giới không sát sanh. Giới Bồ tát cũng rõ ràng
cấm hẳn việc ăn mặn.
Tôn giả Đại Ca Diếp hỏi Đức Phật, “Tại sao Như lai không cho phép ăn
thịt?” Đức Phật đáp “chính vì việc ăn thịt sẽ cắt đứt hạt giống đại
từ bi”[11].
Chúng ta không nên giới hạn lòng từ bi của mình đối với loài vật hoặc
những vật yêu thích, mà hãy mở rộng đến toàn thể chúng sanh, ngay cả
trong số đó có kẻ sai phạm. Lòng từ bi làm nền tảng cho tất cả mọi quan
hệ tương tác của chúng ta với người khác, mà không cần lưu tâm đến quan
điểm và hoạt động của họ là gì.
VII. Báo thù
Vì những lý do và mục đích nào đó mà hệ thống pháp luật của xã hội
đặt ra án tử hình. Án này chính là dùng để trừng phạt các phạm nhân,
ngăn chặn họ không lặp lại hành động xấu ác đã làm và để răn đe những
người khác.
Tuy nhiên, rõ ràng nó cũng là một hình thức báo thù trong một ý nghĩa
tinh tế hơn.
Chúng ta cần phải giảm bớt sự sợ hãi, lòng thù ghét, và ý muốn báo
thù bằng cách tra tấn và sát hại.
Khái niệm báo thù hoàn toàn xa lạ với giới Phật giáo. Án tử hình là
một hình thức trừng phạt khắc khe nhất với mục đích nhằm kết thúc vĩnh
viễn một đời sống đang sống. Khi phạm nhân bị xử tử hình thì người đó
không còn có cơ hội nào nữa để thay đổi, phục hồi hoặc bồi thường thiệt
hại đã gây ra.
Liệu việc thực hiện án tử hình đối với một kẻ giết người đã bị tuyên
án sẽ khiến nạn nhân sống lại được không?
Tất nhiên là không. Như
vậy, án tử hình đâu có lợi ích gì.
Đức Phật dạy rằng:
“Với hận diệt hận thù,
Ðời này không có được.
Không hận
diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu”[12].
VIII.
Tâm lý học
Theo Đạo Phật, những điều kiện cho đời sống kế tiếp (tái sanh) phụ
thuộc vào những tư tưởng sau cùng, tức trạng thái tâm thức cuối cùng của
con người trước khi chết. Tâm thức hay tâm lý của tội phạm chắc chắn
không thể có được trạng thái an bình. Buộc người đó nhận lãnh thi hành
án tử sẽ càng làm cho trạng thái tâm trí của người đó thậm chí còn trầm
trọng hơn, chứa đầy lòng giận dữ và sợ hãi. Kết quả là, người đó nếu
được tái sinh làm người, họ có thể còn bạo lực hơn lúc bây giờ. Khi lớn
lên, kẻ đó tiếp tục phạm tội có thể còn tồi tệ hơn những tội ác đã làm ở
đời trước.
Trong Tiểu kinh Nghiệp phân biệt (Kinh Trung Bộ, số
135)[13], Đức Phật nói điều này: “Ở đây, này các tỳ kheo, có người
đàn bà hay đàn ông, phẫn nộ, nhiều phật ý, bị nói động đến một chút thời
liền bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và tỏ lộ phẫn nộ, sân hận,
bất mãn. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi
thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào cõi dữ... Nếu sanh trở lại
làm người thì phải chịu hình hài xấu xí. Con đường ấy đưa đến xấu sắc,
tức là phẫn nộ, sân hận, bất mãn."
Bởi vậy, chúng ta cần
nên tránh dẫn đến trạng thái tâm lý bất an cho phạm nhân vì người đó sẽ
phải buộc giáp mặt cái chết một cách không sẵn lòng và miễn cưỡng.
IX. Luật Nghiệp Báo
Nghiệp hay hành động là năng lực được phát sinh bởi tư duy, lời nói
và những hành vi của con người. Nó có thể là thiện, bất thiện hoặc quán
tưởng, và có thể có hiệu ứng sâu đậm lên sự tái sanh của mọi loài hữu
tình chúng sanh.
Nghiệp bất thiện dẫn đến sự tái sinh vào một trong ba ác đạo (là địa
ngục, ngạ quỷ, và súc sanh); nghiệp thiện dẫn đến tái sinh trong loài
người, loài thần hoặc chư thiên cõi dục; còn nghiệp quán tưởng thiền
định sẽ tái sinh vào cảnh giới sắc và vô sắc[14].
Trong kệ Telakatahagatha nói rõ: “Ai phá hủy đời sống
của bất kỳ chúng sanh nào, trong lần tái sinh kế tiếp người đó có thể bị
đột tử trong lúc đang sung mãn nhất, dù vị đó đang có cuộc sống tiện
nghi, giàu sang và đẹp đẽ, ...”[15].
Đức Phật đã dạy[16]: Ở đây, này các tỳ kheo, có người đàn bà hay đàn
ông, sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm
không từ bi đối với các loại chúng sanh. Do nghiệp ấy, thành đạt như
vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy
không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu được đi đến loài
Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải đoản mạng. Con đường ấy
đưa đến đoản mạng, này các tỳ kheo, tức là sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm
máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu
tình.
Nhưng ở đây, này các tỳ kheo, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát
sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ,
sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Do
nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng
chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời. Nếu sau khi
thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở
đời, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy
được trường thọ. Con đường ấy đưa đến trường thọ, này các tỳ kheo, tức
là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý,
có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu
tình.
Như vậy với lý lẽ đã trình bày ở đây, rõ ràng là việc giết hại kể cả
tội bạo hành sẽ tạo ra ác nghiệp cho kẻ đó, và giảm bớt khả năng có được
một cái chết an bình cho họ.
X. Kinh tạng Phật Giáo
Bác bỏ án tử hình là một chủ đề thường được nhắc đến trong Đạo Phật
mà chúng ta sẽ nhìn thấy các ngụ ý này ngang qua phạm âm của Đức Phật
trình bày trong kinh tạng và luận tạng của cả hai hệ thống Phật giáo
Nguyên thuỷ và Đại thừa (ở đây tôi đề cập chỉ vài trường hợp tiêu biểu)
như sau:
A. Kinh Nguyên thuỷ
1. Pháp cú:
“Mọi người sợ hình phạt,
Mọi người sợ tử vong.
Lấy mình làm
ví dụ
Không giết, không bảo giết.”[17]
“Mọi người sợ hình
phạt,
Mọi người thích sống còn;
Lấy mình làm ví dụ,
Không
giết, không bảo giết.”[18]
“Bỏ trượng, đối chúng sanh,
Yếu
kém hay kiên cường,
Không giết, không bảo giết,
Ta gọi
Bà-la-môn.”[19]
2. Kinh Bổn sanh:
i. Tiền thân Nai Banian
Trong Kinh Bổn sanh[20] có kể rằng vào
một tiền kiếp nọ, Đức Phật sinh ra làm Nai chúa tên là Nyagrodha. Ngài
đã sẳn lòng thế mạng của chính mình cho một con nai đang có thai sắp
sinh phải đi nạp mạng cho nhà vua. Lại trong một tiền kiếp khác, Đức
Phật hy sinh mạng sống của mình để làm thức ăn cho một con cọp đói và
hai con của nó đang bị mắc kẹt trong tuyết.
Ngài cho rằng cứu được mạng sống có ý nghĩa hơn là chỉ bảo hộ cho bản
thân cá nhân mình. Thà mất mạng của chính mình còn tốt hơn là giết hại
chúng sanh khác.
Có nhiều câu chuyện kiếp trước của Đức Phật khi còn làm bồ tát, ngài
thực hành hạnh giữ gìn giới không sát sanh, hy sinh chính mạng mình để
giữ tròn giới thể và tăng trưởng lòng từ bi.
Đức Phật đã nói rằng:
Hơn nữa, Ta quán sát như vầy: “Từ quá khứ cho đến ngày nay, Ta đã bỏ
thân mạng không biết bao nhiêu lần. Đã có lần Ta sanh ra làm kẻ cướp ác
tâm, làm chim muông, hoặc làm súc vật mà nơi đó Ta đã sống đơn thuần cho
mục đích làm giàu hoặc theo đuổi những lợi ích dục vọng thấp hèn. Nhưng
bây giờ Ta đã sắp bỏ mình để giữ tròn giới thể. Ta không lẫn tiếc thân
thể và xả thân mạng của ta để giữ giới thì sẽ có muôn vạn lần ích lợi
hơn việc bảo hộ thân mình mà phải vi phạm những điều cấm. Trong cách suy
nghĩ này, Ta quyết định là Ta cần phải hy sinh thân thể để bảo vệ vẹn
toàn các tịnh giới.
ii. Tiền thân Con trai của người hàng thịt
Câu chuyện này kể rằng: có một lần nọ, một vị đã chứng quả Dự lưu[21]
sinh vào trong một gia đình hàng thịt. Khi đến tuổi thành niên, mặc dầu
mong muốn theo nghề quản gia, nhưng Ngài không muốn giết hại súc vật.
Cha mẹ của Ngài một hôm đưa cho Ngài một con dao và một con cừu và bảo
Ngài “Nếu con không giết con cừu này, cha mẹ sẽ không cho con thấy mặt
trời mặt trăng và thức ăn nước uống để sinh sống”.
Ngài liền suy nghĩ, “Nếu mình giết con cừu này thì mình sẽ bị tạo
nghiệp ác này đến trọn đời. Làm sao mình có thể phạm tội ác lớn này đơn
giản chỉ vì lợi ích của bản thân?” Rồi ngài liền cầm dao tự sát. Khi cha
mẹ mở cửa nhìn vào thì thấy con cừu vẫn đang đứng một bên, trong khi
người con trai nằm đó đã tắt thở.
Ngay sau khi chết, Ngài được sinh
lên cõi trời do hoan hỷ buông xả, không lẫn tiếc mạng sống chính mình để
giữ gìn vẹn toàn các tịnh giới.
Hạnh phóng sanh là một phương pháp tu tập trong Phật giáo nhằm cứu
thoát các loài vật, chim cá v.v… đã được trù định để giết thịt hoặc bị
giam cầm thường xuyên. Chúng được phóng thích như được ban cho một đời
sống mới. Việc tu tập này minh họa giáo lý căn bản của Phật giáo về lòng
từ bi đối với tất cả chúng sanh.
iii. Tiền thân Janasandha
Câu chuyện này[22] do Đức Phật kể cho Vua xứ Kosala. Chuyện nói về
hoàng tử Janasandha, con trai của vua Brahmadatta xứ Ba la nại:
Khi
hoàng tử Janasandha đến tuổi trưởng thành, và sau khi hoàn tất việc rèn
luyện tài năng ở Takkasila trở về, vua đã đại xá cho tất cả các tù nhân,
và phong cho hoàng tử làm phó vương. Về sau khi vua băng hà, hoàng tử
lên nối ngôi, liền cho xây dựng sáu trại chẩn bần... Ở đó, ngày lại
ngày, vua thường hay phân phát sáu trăm đồng tiền và khuyến khích toàn
dân thực hành bố thí; cửa nhà tù mở vĩnh viễn và không còn những nơi
hành hình tội nhân...
iv. Tiền thân Muga Pakkha
Chuyện này[23] do Đức Phật kể cho chúng Tỳ kheo, giải thích rõ rằng
việc trừng phạt có thể tác động đến cả người thừa hành lẫn người trực
tiếp bị phạt. Câu chuyện kể về một hoàng tử duy nhất của vua xứ Kasi tên
là Temiya-kumaro (nói gọn là Temiya).
Khi hoàng tử đầy tháng, ngài được ăn mặc thật đẹp và bồng vào yết
kiến vua. Nhìn đứa con yêu, vua liền ôm vào lòng chơi đùa với con. Cùng
lúc ấy, có bốn tên cướp được đưa đến trước mặt vua; một trong bốn tên đó
bị ngài xử phạt một ngàn roi quấn gai nhọn, một tên khác phải bị gông
cùm xiềng xích, một tên nữa phải bị đâm bằng giáo, và tên cuối cùng bị
đâm cọc xuyên suốt toàn thân. Bồ-tát (hoàng tử đầy tháng) nghe vua cha
nói, kinh hãi nghĩ thầm: “Ôi cha ta vì làm vua mà mang lấy những ác
nghiệp khiến cho người phải đọa địa ngục”.
Nhận thức rõ những hậu quả của vua cha và sợ hãi điều đó sẽ xảy đến
cho Ngài nếu sau khi lên nối ngôi Ngài cũng làm tương tự như thế, cho
nên Temiya quyết tâm giả bộ câm điếc và què quặt suốt mười sáu năm (vì
Ngài không muốn thừa kế ngai vàng).
Cuối cùng, Temiya đã mãn nguyện khi Ngài trở thành một vị ẩn sĩ khổ
hạnh lìa bỏ kinh đô và sau đó ngài trở về giáo hoá tất cả hoàng tộc và
rất nhiều người khác tu tập theo Ngài.
Câu chuyện này tương tự câu chuyện đời sống của Đức Phật Thích Ca lớn
lên trong hoàng cung, nhưng rồi từ bỏ thế gian để tìm cầu chân lý.
3. Kinh Trung Bộ
Kinh Angulimala (kinh Trung bộ, số 152)[24] là một bản kinh nổi tiếng
về năng lực phục thiện.
Có một kẻ cướp, sát nhân cực ác tên là Angulimala (nghĩa là “Xâu
chuổi ngón tay.” Xâu chuổi này làm bằng ngón tay của những nạn nhân của
y). Tất cả dân làng đều rất sợ Angulimala là điều dễ hiểu. Vào lúc đó,
Đức Phật cũng đang ở lại trong làng này, nhất định đi một mình xuống con
đường nơi tên sát nhân Angulimala nghe nói đang trú ẩn ở đó. Với nhân
cách tuyệt vời, Đức Phật đã khéo léo cảm hoá Angulimala và thu nhận anh
ta làm đệ tử.
Lúc đó, do vì dân chúng thỉnh cầu, Nhà Vua đang chỉ huy binh lính để
truy bắt Angulimala. Vua tình cờ gặp Đức Phật và giải thích sự tình của
mình. Liền đó, Đức Phật chỉ cho nhà Vua thấy Angulimala đã hoàn lương và
đang sống đời an lạc của một tăng sĩ. Vua hoàn toàn sửng sốt bởi chứng
kiến điều này. Ngài rất kinh ngạc làm thế nào mà Đức Phật có thể giáo
hoá được Angulimala như thế.
Điều này cho thấy ý niệm phục thiện của Phật giáo. Dĩ nhiên, phục
thiện và án tử hình là hai khái niệm loại trừ lẫn nhau.
Dù sao, về phương diện nghiệp báo, Angulimala vẫn còn có nghiệp ác
lớn do trước đó đã giết nhiều người, nên chắc chắn Angulimala cũng phải
bị chết một cách đột ngột, đau đớn bởi ác nghiệp này. Tuy thế, ý nghĩa
phục thiện rõ ràng là nội dung chính của bản kinh này.
Phục thiện có năng lực giúp cho người tội phạm nhận thức được tội lỗi
của mình và cố gắng tránh tái phạm trong tương lai. Theo Phật giáo, một
người tội phạm đã phục thiện, thậm chí một kẻ sát nhân, sẽ vẫn nhớ được
Phật tính của mình. Đối với xã hội, cải tạo người phạm pháp có nghĩa là
thu nhận lại một thành viên hữu ích mà người này có thể đóng góp bằng
cách nào đó cho phúc lợi công cộng.
B. Kinh điển
Đại thừa
1. Kinh Hoa Nghiêm (cũng gọi là Kinh Đại Phương Quảng Phật
Hoa nghiêm)
Nghiên cứu về án tử hình trong kinh Hoa nghiêm có tính chất biểu
trưng và triết lý cao hơn.
Kinh kể rằng có một Bồ tát tên là Thiện tài đồng tử (Sudhana
Sresthidaraka) đang đi tầm sư học đạo. Một trong những Đạo sư của ngài
là vua Anala.
Vua Anala sống trong một lâu đài đẹp tuyệt vời và rất xa. Để giữ
cương mực trật tự trong xã hội, vua thường dùng phù phép hóa hiện những
tội nhân bị hành hình đau đớn khốc liệt, để ngăn chặn dân chúng không
phạm tội.
Thật ra, Vua không có làm hại bất cứ ai, bởi vì những tù
nhân cũng như hình phạt đều chỉ là những thần thông biến hoá. Vua giải
thích với Thiện tài đồng tử rằng những ảo thuật này là phương tiện của
tâm từ bi cho dân chúng sợ hãi mà từ bỏ tội lỗi hay không dám phạm.
ii. Kinh Phạm Võng
Trong Kinh Phạm Võng[25], Đức Phật nói: “Bất cứ khi nào Bồ tát thấy
có người chuẩn bị giết hại sinh vật, thì vị ấy nên dùng phương tiện
thiện xảo để cứu chuộc, giải thoát cho nó thoát khỏi tình trạng khốn khó
và đau khổ...”
Và ngài cũng dạy thêm ở giới Bồ tát thứ 20 rằng:
“Nếu là Phật tử nên vì tâm từ bi mà làm việc phóng sanh. Hãy quán rằng
tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta. Từ nhiều đời ta
đều thác sanh nơi đó. Vì lẽ ấy nên chúng sanh trong lục đạo đều là cha
mẹ ta. Nếu giết chúng để ăn thịt thời chính là giết cha mẹ ta, mà cũng
chính là giết những thân cũ của ta. Tất cả thân tứ đại đều là bổn thân,
bổn thể của ta, cho nên thường phải làm việc phóng sanh và khuyên bảo
người khác làm. Nếu thấy người đi sát sanh nên tìm cách cứu hộ cho chúng
được thoát khỏi nạn khổ.
C. Luận Đại thừa
Rajaparikatha - ratnamala[26]:
Ngài Long Thọ (thế kỷ 2 hoặc 3 sau
TL)[27], một triết gia Phật giáo nổi tiếng miền Nam Ấn và cũng là tác
giả của bộ luận Rajaparikatha - ratnamala (Những lời khuyên quý giá dành
cho Vua). Nội dung luận phẩm này trình bày về nghệ thuật lãnh đạo theo
tinh thần Phật giáo. Ngài Long Thọ khuyên nhủ Vua Udayi (Triều đại
Satavahana) về rất nhiều vấn đề[28]. Trong đó, Ngài Long Thọ có đề cập
về án tử hình như sau:
“Này Đại vương, vì lòng từ bi Ngài cần nên
luôn luôn
Phát khởi thiện tâm cứu giúp tất cả chúng sanh,
Ngay
cả những ai đã phạm tội trọng.
Lại cần quan tâm thật nhiều,
Đối
với những kẻ giết người, tạo tội ác lớn;
Quên mất bản tâm là nơi
chứa đựng lòng từ bi vô lượng
Sau khi thẩm sát sự hung tàn của kẻ
sát nhân và thấy rõ căn nguyên,
Chỉ nên đày ải, chớ giết hoặc dùng
đại hình”[29].
XI. Những vị vua Phật tử Ấn Độ.
i. Vua Phật tử (Bắc Ấn)
a) Vua A Dục[30], một trong
những nhà cai trị đầu tiên của Ấn Độ cổ đại, từ chối dùng quân lực thay
vì vậy là truyền bá triết lý bất bạo động và lòng tôn trọng đối với mọi
người.
Những sắc lệnh của Vua A Dục được khắc trên các trụ đá, cho
thấy Ngài là một vị vua có tư tưởng khác thường đi trước thời đại.
Dưới đây sẽ tóm tắt một số những sắc lệnh của Vua A Dục như sau:
Những điều răn cấm:
- Không được dùng súc vật để tế lễ tôn giáo.
- Ngăn cấm mọi việc giết mổ súc vật và cầm thú.
- Vua sẽ không còn
tổ chức các cuộc săn bắn nữa.
- Vua từ bỏ vinh quang các cuộc chiến
xâm lược.
- Chiến thắng thiện pháp là chiến công oanh liệt nhất.
Những công trình công cộng:
- Xây dựng bệnh viện cho người và
thú vật.
- Thành lập nhiều vườn tược dược thảo.
- Đào giếng,
trồng cây xanh, và cất nhà nghỉ dọc theo những đường lộ để tạo tiện nghi
cho khách hành hương và thú vật.
Mối Quan hệ giữa Con người:
- Dân chúng cần phải vâng lời cha mẹ và các bậc sư trưởng, thầy tổ tinh
thần của họ.
- Người chủ không được ngược đãi những người hầu và
tôi tớ của họ
- Mọi người phải nên rộng lượng với các bậc xuất gia,
họ hàng, và bè bạn.
Tôn giáo:
- Các giáo phái tôn giáo “có
thể trú ngụ khắp nơi”.
- Những người khác tín ngưỡng không được công
kích lẫn nhau khi “tìm hiểu các tôn giáo bạn”.
Phúc lợi cho
người dân:
- Các quan chức triều đình phải quan tâm tới lợi ích của
người già, người nghèo, và các tù nhân.
- Các quan chức báo cáo công
tác công cộng có thể yết kiến trực tiếp với nhà vua mọi lúc, mọi nơi.
- Các quan chức phải đảm bảo việc điều hành quản lý mang hữu hiệu lợi
ích và hạnh phúc cho người dân.
Công lý:
- Các phán quan
phải độc lập và hành xử nhất quán trong thủ tục và xử phạt.
- Phạm
nhân nên được khoan hồng càng nhiều càng tốt.
- Bản án tử hình nên
được hạn chế áp dụng và việc kết tội cần phải có ba ngày để tuyên án.
- “không sát sanh là thiện nghiệp”
Trong sắc lệnh cuối cùng, có lẽ
được viết khắc vào năm 242 trước Tây lịch, Vua A Dục đã viết: “Trong thế
gian, có hai phương cách đạt được thiện pháp là pháp luật và đức tin.
Nhưng trong hai điều này, hình như pháp luật tỏ ra ít có hiệu quả hơn
đức tin. “Những quan chức được huấn luyện đặc biệt, gọi là
dhamma-mahamattas (Đại quan chuyên trách truyền giáo) thường đi kinh lý
để tìm hiểu quan điểm của dân chúng và hướng dẫn họ về thiện pháp.
Điều này dễ dàng cho chúng ta nhận ra rằng Vua A Dục ủng hộ tinh thần
bất hại (ahimsa) và không thích áp dụng án tử hình.
Ngài là một Phật
tử thuần thành siêng tu thiện pháp và vì thế Ngài không thể cho phép
việc hành hình này xảy ra.
b) Vào thế kỷ thứ sáu, có hai nhà sư
chiêm bái người Trung hoa là Sung Yun và Hui Sheng đã hành hương đến
đất Ấn và viết như sau:
Chúng tôi vào nước Ouchang (Oudyana). Phía
bắc của nước này tiếp giáp núi Thông Lĩnh; phía nam tiếp giáp với Ấn độ…
Vua nước này rất sùng đạo và thực hành hạnh ăn chay … Sau bữa trưa vua
đích thân thân chăm lo công việc triều chính.
Giả sử có người phạm
tội sát nhân, người này không bị xử tử mà chỉ bị đày tới những hoang
đảo, được chu cấp thức ăn đủ để duy trì mạng sống. Sau thẩm định, hình
phạt được điều chỉnh tuỳ theo tính chất nặng nhẹ từng hoàn cảnh[31].
ii. Vua Phật tử (vùng Trung Ấn)
Pháp Hiền (337-422),
một nhà sư chiêm bái người Trung hoa tới Ấn rất sớm, có nhắc đến vị vua
Phật giáo vùng Trung Ấn như sau:
Vua của vùng Trung Ấn cầm quyền mà
không có hành phạt chém đầu (tức án tử hình nói chung) hoặc những hình
phạt hành hình thân thể. Những tội phạm đơn giản chỉ bị phạt tiền, nhẹ
hoặc nặng tùy theo hoàn cảnh của mỗi trường hợp. Thậm chí trong những
trường hợp bạo loạn ngoan cố, họ chỉ bị chặt bàn tay phải mà thôi. Khắp
cả nước những người không sát sanh, không uống rượu say, cũng giữ cả
giới không ăn các loại hành tỏi nồng cay[32].
iii. Vua Phật
giáo (vùng Trung tâm Ấn)
Vào thế kỷ thứ tám, có sư Hye Ch'o
người Triều-tiên đến chiêm bái Ấn Độ tương tự như sư Pháp Hiền, nhưng
cách khoảng ba thế kỷ về sau.
Sư cũng có mô tả những vị vua Phật
giáo vùng Trung tâm Ấn cai trị không có sử dụng tới án tử hình: “Pháp
luật quốc gia trong năm vùng của Ấn quy định không có gông cùm, đánh đập
hoặc nhốt tù tuỳ theo mức độ tội phạm. Không có bản án tử hình”[33].
iv. Vua Phật giáo (vùng Tây Ấn)
Sư Hye Ch'o nhận thấy
một tình trạng gần như đồng nhất trong vùng Tây Ấn: “Ở đây không có
gông cùm, đánh đập, bỏ tù, tử hình, hay những hình phạt tương tự”[34].
Vua của Nhật bản
Năm 724 sau Tây lịch, Nhật Hoàng Shomu
(724-749), một Phật tử thuần thành theo tông Kegon, xây dựng chùa
Todai-ji rất nổi tiếng đến nay vẫn còn ở thành phố Nara, đã cấm áp dụng
án tử hình. Điều này diễn ra vào cuối thời kỳ Nara (715-794). Tương tự,
suốt thời kỳ Heian (794-1185) rất ít thi hành án tử hình[35].
Đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIII của Tây
Tạng là Ngài Thubten Gyatso (1876-1933), tiền thân của Đức Đạt Lai Lạt
Ma thứ XIV hiện thời là Ngài Tenzin Gyatso (sinh năm 1935). Đức Đạt Lai
Lạt Ma thứ mười ba tranh đấu để hiện đại hóa Tây Tạng và duy trì chủ
quyền quốc gia chống lại Anh quốc và sau đó là Trung quốc. Ngài cũng cải
cách hệ thống pháp luật phong kiến của Tây Tạng. Một trong những sự
thay đổi đó là sự huỷ bỏ án tử hình vào khoảng năm 1920. Trước thời điểm
ấy, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường tránh can thiệp trực tiếp trong các
trường hợp kết án tử hình bởi vì vai trò tôn giáo của Ngài[36].
XII. Ứng dụng Thực tế
Một điều hiển nhiên rằng con người ai cũng có một khả năng tiềm tàng
nào đó, cho nên vấn đề huấn luyện để khơi dậy tiềm năng ấy. Chúng ta
không nên là nạn nhân của những xúc cảm bất thiện hoặc bạo lực. Những
giải pháp nhằm chuyển hoá tư duy của người dường như thiết thực hơn là
việc tạo ra đối đầu và va chạm.
Án tử hình không phải là giải pháp tốt nhất để ngăn chặn những người
làm điều ác. Nó chỉ là một giải pháp có tính tạm thời để răn đe tội ác.
Tuy nhiên, nếu chúng ta sử dụng giải pháp tử hình khắc nghiệt này để
thực thi, thì đây chưa phải là một hành động có ý nghĩa và thích hợp.
Việc này làm mất hết ý nghĩa của tâm từ bi và lòng nhân ái trong
chúng ta.
Hành động đầy ý nghĩa và thích hợp phải nên làm là: khi một người
phạm tội, hoặc bị bỏ tù hoặc bị quản thúc tại gia, và đặt ra một thời
hạn nào đó để cho đương sự sửa sai. Người đó có khả năng nhận ra hành
động sai trái đã làm và từ đó sanh tâm ăn năn hối cải. Vì con người là
sinh vật có ý thức, cho nên người ác cũng biết xấu hổ về hành động sai
trái của mình.
Muốn kẻ đó cải thiện hành vi sai trái, chúng ta phải đặt nặng vào
việc giáo dục, phát huy các giá trị con người xuyên qua đạo đức tôn giáo
hoặc những chương trình xã hội lành mạnh để trợ giúp người đó. Chúng ta
cần phải hỗ trợ nhiều hơn nữa cho giáo dục và động viên ý thức trách
nhiệm chung của mọi người.
Chúng ta cũng cần giải thích tầm quan trọng của việc thực hành tâm từ
bi, lòng nhân ái vì lợi ích của chính mình và cố gắng giảm thiểu tối đa
những yếu tố nuôi dưỡng mầm móng giết chóc, chẳng hạn như sự tăng cường
chế tạo vũ khí trong những xã hội chúng ta… Để trợ duyên cho người đó
thực tập, chúng ta nên đề nghị vài phương pháp cụ thể như dưới đây:
1/ Đương sự cần phải sống riêng một mình trong thời gian khoảng một
hoặc hai tháng, một hoặc hai năm để nhận thức và hối hận về hành động
sai trái của mình.
2/ Khuyến khích đương sự cần phải làm một việc tốt giúp đỡ người
khác.
3/ Đương sự cần phải thực tập thiền quán hàng ngày để thay đổi hành
vi bất thiện trở thành thiện.
4/ Đương sự phải tự xem xét hành vi sai trái của mình bắt nguồn từ
đâu.
5/ Hành vi sai trái có thể bắt nguồn từ việc giết người, cướp của, tà
dâm, dối gạt, sử dụng rượu, ma tuý …
6/ Phương pháp để xử lý những hành động sai trái là thực hành tám con
đường chân chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
7/ Đương sự sẽ có thể trở thành là một người tốt như trước đây.
Đạo Phật là con đường chuyển hoá khổ đau. Tất cả chúng ta có thể bị chi
phối bởi các cảm xúc tiêu cực và những tâm bất thiện quấy nhiễu hoặc
không bị chi phối, có tội hoặc không tội, nhưng nếu biết ứng dụng những
phương pháp giáo dục nói trên vào đời sống hàng ngày, chúng ta có thể
thu hoạch được hoa quả của an lạc và hạnh phúc ở ngay đây và bây giờ
trong cuộc sống hiện tại.
Giải pháp tốt nhất vẫn là ngăn ngừa hơn là can thiệp. Và việc giáo
dục cần nên thực hiện trước khi đã bị trừng phạt. Bởi lẽ một nguyên nhân
tốt thường sẽ tạo ra một quả trái lành.
Đó là một sự thật xuyên suốt khắp trong kinh điển Phật giáo. Đạo Phật
có lập trường mạnh mẽ chống lại việc giết hại nói chung, và trong vài
trường hợp chống lại án tử hình.
Như vậy, Đức Phật hoàn toàn không chấp nhận hành án tử hình. Không có
người Phật tử thuần thành nào ủng hộ án tử hình cả. Nhưng chúng ta nên
hiểu rằng những lời dạy trong Phật giáo không phải là giáo điều, mà
chính là hoa quả của trí tuệ. Đơn giản đó là những lời khuyên bảo từ Đức
Phật với những giải thích rõ ràng tại sao chúng ta không nên sát sanh
…, phần lớn đặt trên nền tảng đạo đức và liên quan đến luật nghiệp báo.
Lập trường Phật giáo chống lại án tử hình dựa vào nền tảng triết lý
Phật giáo và đồng thời tương ứng với thực tế của xã hội.
Trước hết, có khả năng rằng án tử hình trong hệ thống luật pháp các
quốc gia ban hành có thể dẫn đến sự thực hiện oan đối với người vô tội,
và điều này hay xảy ra ở nhiều nước tiên tiến, chẳng hạn như Hoa kỳ… Án
tử hình, một khi đã thi hành rồi thì không thể đảo ngược và cũng không
thể sửa chữa được nếu bị cáo về sau được chứng minh là vô tội.
Thứ hai, Đạo Phật cảm nhận rằng tất cả mọi người về căn bản là chân
thiện, và mục đích chính của Phật giáo là giáo dục, chuyển hoá và cải
cách chứ không hủy diệt. Nếu có người bệnh, Đạo Phật cố gắng cứu chữa
người đó khỏi căn bệnh hơn là tiêu diệt người mang bệnh. Đạo Phật xem
những tội phạm là những người đang có vấn đề tâm thần kết hợp với sự
không hiểu biết (vô minh).
Như thế, mục đích chính của Đạo Phật là tận trừ gốc rễ sự không hiểu
biết hơn là tiêu diệt người ngu dốt. Điều này có thể được thực hiện
thông qua hệ thống giáo dục, chuyển hoá, cải cách đương sự, nói cách
khác, giúp đỡ đương sự thấy đúng như thật sự việc đang là.
Trong Đạo Phật, có một câu nói:
“Dẫu xây chín bậc phù đồ, chẳng bằng làm
phước cứu cho một người”.
Tóm lại, dựa vào những lời dạy cơ
bản của Đức Phật từ kinh điển Phật giáo và tâm tư bao dung sáng suốt của
những vị vua Phật giáo trong lịch sử Châu á cổ đại như được đề cập ở
trên, chúng ta hoàn toàn đồng tâm ủng hộ lời kêu gọi tới những nhà lãnh
đạo các nước trên thế giới đang áp dụng án tử hình hãy bãi bỏ hình phạt
này trong tinh thần từ bi vô lượng vô biên của Đạo Phật.
Chùa Phước Hậu, ngày 28 tháng 10, năm
2006
[1]
http://quangduc.com/English/canon/vinaya/05.bikkhu-rules-guide.html#5precepts;
http://www.unfetteredmind.org/articles/precept1.php;
[2] The Brahma
Net Sutra, trans. by the Buddhist Text Translation Society in USA, xem
http://www.purifymind.com/BrahmaNetSutra.htm
[3] Dhammasaṇganī
Aṭṭhakathā (Atthasālinī), ed. E. Müller, 1897, PTS, p. 129; Saddhammo
pāyana, ed. Richard Morris, V, PTS, 1887, p. 58; Kaṇkhāvitaranī, ed. D.
A. L. Maskell (néc stede), 1957, PTS, p. 50.
[4] Dhammasaṇganī
Aṭṭhakathā (Atthasālinī), ed. E. Müller, 1897, PTS, p. 129;
Kaṇkhāvitaranī, ed. D. A. L. Maskell (néc stede), 1957, PTS, p. 30.
[5] The Brahma Net Sutra, trans. by the Buddhist Text Translation
Society in USA, xem http://www.purifymind.com/BrahmaNetSutra.htm
[6]
Khuddhaka Nikaya (belong to the Sutta Nipata), tr. By Thanissaro
Bhikkhu, I.8, Karanaiya Metta Sutta.
[7] The Lotus sutra, tr. By
Burton Watson, Colombia Univeristy Press, New York, 1993, pp 10-11.
[8] Brahma Net Sutra, I, 162.
[9] Bồ tát nguyện giữ giới “Không sát
hại người và súc vật”.
[10] Cherishing Life, I, 83.
[11]
Cherishing Life, II, 5.
[12] Dhammapada, tran. by Thanissaro
Bhikkhu, Verse 5 of Chapter 1, MA 01005, USA, 1997.
[13]
http://www.vipassana.com/canon/majjhima/mn135.php
[14] Mullin, Glenn
H., Death and Dying: The Tibtant Tradition, Boston: Arkana Penguin,
1986, p. 17.
[15] Telakaṭāhagāthā, v, 78.
[16]
http://www.vipassana.com/canon/majjhima/mn135.php
[17] Dhammapada,
tran. by Thanissaro Bhikkhu, verses no 129 of Chapter 10, MA 01005, USA,
1997.
[18] Nt, verses no 130 of Chapter 10.
[19] Nt, verses no
405 of Chapter 26.
[20] Jataka, ed. V. Fausboll, London: PTS, 1962;
ed. E.B. Cowell, tr. By Robert Chalmers, Stories of the Buddha’s Former
Births, I, Story Banian, Low Price Publications, Delhi-52, p. 149.
[21] Thánh Dự lưu còn gọi Nhập Lưu hoặc bảy lần tái sanh ở đời nữa.
[22] The Jataka or Stories of the Buddha's Former Births, Vol. 4, Bk. 12
(E.B. Cowell, ed.; W.H.D. Rouse, trans. 1957) pp. 109-11.
[23] The
Jataka or Stories of the Buddha's Former Births, Vol. 6, Bk. 22,
pp.1-19.
[24] The Collection of the Middle Length Sayings
(Majjhima-Nikaya), Isaline B. Horner, trans. 1957, pp. 284-92. See also,
Hellmuth Hecker, Angulimala: A Murder's Road to Sainthood (The Wheel
Publication No. 312, 1984).
[25] Brahma Net Sutra, I, 162. See
http://www.ymba.org/bns/bnsframe.htm.
[26] Nagarjuna and Kaysang
Gyatso [Dalai Lama VII], The Precious Garland and The Song of the Four
Mindfulnesses (Jeffrey Hopkins et al, trans., 1975).
[27] The
Encyclopedia of Eastern Philosophy and Religion, pp. 237-38.
[28]
For an interpretation of the text and some background on King Udayi, see
Robert A.F. Thurman, "Nagarjuna's Guidelines for Buddhist Social
Action," in The Path of Compassion: Writings on Socially Engaged
Buddhism (Fred Eppsteiner, ed. 1988); Robert A.F. Thurman, "Social and
Cultural Rights in Buddhism," in Human Rights and the World's Religions
(Leroy S. Rouner, ed. 1988), p. 148. A brief overview of the Satavahana
Dynasty can be found in Rama Shankar Tripathi, History of Ancient India
(1942), pp.191-201; Etienne Lamotte, History of Indian Buddhism: From
the Origins to the Saka Era (Sara Webb Boin and Jean Dantinne, trans.
1988), pp. 474-81.
[29] The Precious Garland and the Song of the
Four Mindfulnessess, pp. 66-67.
[30] Asoka Rock and Pillar Edicts,
the translation by Ven. S. Dhammika, Kandy, Sri Lanka; Buddhist
Publication Society, 1993. See
http://www.thenagain.info/Classes/Sources/Asoka.html
[31] Travels of
Fah-Hian and Sung Yun, Buddhist Pilgrims from China to India (400 A.D.
and 518 A.D.), pp. 188-89.
[32] A Record of Buddhist Kingdoms: Being
an Account by the Chinese Monk Fa-Hieh of His Travels in India and
Ceylon, p