“Lúc đầu, nghe cô đồng Tuyên ở thị trấn Thứa (Bắc Ninh) gọi tôi là bố và
xưng con, tôi ngơ ngác không hiểu gì. Sau mới vỡ lẽ, vong của con trai
tôi về và nhập vào cô. Cháu vốn là một… thai nhi mới 3 tháng tuổi. Những
năm 80, vợ tôi mang thai cháu là thứ 3 nhưng do chính sách kế hoạch hoá
gia đình nên đã nạo bỏ cháu ở nhà hộ sinh. Tôi đâu có biết là mình đã
đánh mất cháu, chỉ đến khi tôi hỏi cháu mới kể như vậy.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)
Thú
thực, lúc ấy tôi xúc động quá,
cả ân hận nữa. Tôi xin lỗi cháu nhưng cháu cười bảo: cha mẹ không có lỗi
vì đấy là qui định của nhà nước. Tôi khóc oà lên. Ôi! Không ngờ một đứa
trẻ mà lại có những suy nghĩ và tấm lòng bao dung đến vậy”. Câu chuyện
về hành trình leo núi ngược ngàn đi tìm mộ liệt sĩ Vũ Duy Dư trên điểm
cao 463 ở bản Adiu (Quảng Nam) đã được ông Trần Tích Tiến, Phó tổng giám
đốc công ty cao su INOUE mở đầu như vậy. Ông nói, giọng nghèn nghẹn:
“Điều bất ngờ là chính cháu đã vẽ đường đi nước bước cho chúng tôi đi
tìm mộ và cuối cùng, chúng tôi đã tìm thấy”. Câu chuyện ông Tiến kể
trong đêm mưa dầm sùi sụt ấy cứ bị ngắt quãng bởi những giọt nước mắt và
tiếng nấc nghẹn ngào.
Từ sự chỉ dẫn của vong… thai
nhi
3 tháng tuổi
Ông Trần Tích Tiến đang lần
giở từng bức ảnh
của cuộc hành trình tìm kiếm
hài cốt LS Vũ Duy Dư.
Ông Trần Tích Tiến, thực ra, không có
quan hệ máu mủ, ruột thịt gì với liệt sĩ Vũ Duy Dư. Ông chỉ là chỗ quan
hệ thân tình với gia đình con gái út của liệt sĩ: chị Vũ Thị Thắng và
anh Nguyễn Văn Thành. Song, đúng như lời giới thiệu của chị Thắng: “Anh
muốn tìm hiểu kỹ về chuyện đi tìm mộ bố em thì phải gặp anh Tiến, vì anh
ấy lưu giữ được đầy đủ tư liệu về chuyến đi này. Anh Tiến có tâm với
gia đình các liệt sĩ nhiều lắm. Nếu không có anh ấy, chắc giờ này bố em
vẫn nằm giãi dầu sương gió trên đỉnh núi Adiu”.
Chị Thắng kể: Cha chị sinh hạ được 3
người con. Anh cả là Vũ Duy Đoàn, anh thứ là Vũ Duy Kết. Chị là con gái
út. Năm 1968, chiến trường miền Nam nổ ra ác liệt, cha lên đường nhập
ngũ, rồi đi biệt không về. Không một lá thư, không một lời nhắn gửi. Cả
nhà ngóng đợi. Đến tận năm 1975, đất nước hát khúc khải hoàn ca, đồng
đội của cha náo nức trở về mà cha vẫn biệt vô âm tín. Đi dò hỏi, đồng
đội của cha bảo: Năm 1968, các bác thỉnh thoảng gặp cha đi lấy gạo ở
Adiu (Quảng Nam) nhưng về sau thì không gặp nữa. Không biết cha chuyển
đi nơi khác hay đã hy sinh rồi. Các bác còn dặn thêm: Nếu hy sinh thì
chỉ ở Adiu thôi.
Niềm hy vọng cứ mỏng dần theo năm tháng.
Rồi một hôm, người của huyện đội Thanh Trì đến nhà chị cùng tin sét
đánh: Cha đã hy sinh ở chiến trường miền Nam. Mẹ chị chết lặng. Còn mấy
anh em thì ôm nhau khóc ầm lên. Khổ thân cha! Ra đi không để lại một kỷ
vật gì. Mẹ lặng lẽ lập bát hương thờ cha. Giấy báo tử ghi cha hy sinh
ngày 15 tháng 3 năm 1975. Mẹ lấy đó làm ngày giỗ. Ngày ấy nhà chị nghèo
quá, thường phải ăn rau cháo trừ bữa. Mẹ tảo tần nuôi ba đứa con ăn học.
Mãi sau này, khi kinh tế gia đình bớt
khó khăn, thấy nhiều gia đình vào miền Nam tìm mộ thân nhân, được Bộ và
Sở lao động thương binh xã hội cấp giấy đi tìm, khát vọng tìm mộ cha
trong chị Thắng chợt trỗi dậy. Nhân ngày giỗ cha, chị bàn với gia đình,
cô gì chú bác nhưng mọi người gạt đi. Họ bảo: Giấy báo tử chỉ ghi vỏn
vẹn là hy sinh ở chiến trường miền Nam mà miền Nam thì rộng lớn như vậy,
biết mộ cha chỗ nào mà tìm. Không nản lòng, vợ chồng chị bàn riêng với
anh Đoàn quyết tâm làm một chuyến vào tận bản Adiu tìm cha.
Vào một ngày cuối tháng 8 năm 2000, anh
Đoàn cùng một người bạn khoác ba lô lên tàu vào Đà Nẵng. Hỏi thăm, được
biết bản Adiu thuộc huyện Hiên, tỉnh Quảng Nam, cách Đà Nẵng chừng
100km. Nghỉ một đêm tại Đà Nẵng, sáng sớm hôm sau, hai anh em bắt xe vào
huyện Hiên. Mặc dầu được các đồng chí phòng lao động thương binh và xã
hội huyện Hiên tận tình giúp đỡ, kiểm tra toàn bộ danh sách liệt sĩ đã
được quy tập về nghĩa trang nhưng không thấy tên liệt sĩ Vũ Duy Dư. Anh
Đoàn quyết định thuê xe ôm vào bản Adiu. Khổ thân anh! Đường lên Adiu
quá nhiều đèo dốc hiểm trở, lại đúng vào mùa mưa Tây Nguyên nên đi chừng
7 – 8 km, buộc lòng phải quay lại.
Niềm hy vọng tìm thấy cha bị rơi rụng
nhưng đêm đêm, nỗi day trở cứ cắn rứt lương tâm chị Thắng khiến chị
không yên. Nhiều lần, chị khóc với bạn bè rằng: Cha đi chinh chiến khi
chị vừa tròn 2 tuổi. Kỷ niệm về cha không có nhiều. Khuôn mặt cha chị
cũng không còn nhớ. Nhưng đời này, kiếp này, nếu không tìm được mộ cha,
chị là đứa con bất hiếu. Là người đã từng xông pha trận mạc, tận tay
chôn cất những mảnh thi hài còn sót lại của đồng đội ở chiến trường miền
tây Nam bộ, ông Trần Tích Tiến rất hiểu và cảm thông với nỗi niềm của
chị Thắng. Lòng tự nhủ, bằng mọi cách phải giúp Thắng làm tròn được tâm
nguyện. Làm phó tổng giám đốc công ty cao su INOUE, ông Tiến có điều
kiện đi đây đó nhiều. Đến đâu, ông cũng tranh thủ đến các nghĩa trang
liệt sĩ để tìm mộ liệt sĩ Vũ Duy Dư, bày tỏ nỗi niềm cùng những người
bạn tâm đắc mong có sự trợ giúp.
Ngày 24 tháng 2 năm 2002, nhờ sự đưa
đường của anh Thắng ở phố Lò Rèn (Hà Nội), ông Tiến cùng vợ chồng chị
Thắng, anh Thành đã xuống nhà cô đồng Tuyên ở thị trấn Thứa, Bắc Ninh để
gọi hồn liệt sĩ Vũ Duy Dư. Vừa đặt chút lễ mọn lên bàn thờ, chưa kịp
ngồi yên vị, ông Tiến đã giật nảy mình khi nghe cô đồng Tuyên gọi ông là
“bố Tiến” và xưng con. Qua trò chuyện, ông mới biết đó là vong của thai
nhi 3 tháng tuổi mà vợ ông đã nạo bỏ ở nhà hộ sinh cách đó gần 20 năm.
Càng nói chuyện, ông Tiến càng bị xúc động vì những thông tin cháu nói
(qua cô đồng Tuyên) rất chính xác, kể cả những chuyện rất riêng tư, bí
mật chỉ mình ông biết. Ông Tiến hỏi: “Thế con có biết ai đang ngồi cạnh
bố không?”. Cháu bảo: “Chú Thành, bạn bố, nhà ở 509 đường Nguyễn Văn Cừ,
Gia Lâm, Hà Nội chứ gì? Vợ chú đang muốn tìm mộ bố là liệt sĩ có đúng
không? Hồi Tết, chú đến nhà cháu chơi mà không mừng tuổi cho cháu đấy
nhé”. Cháu còn nói tên những người hàng xóm cạnh nhà “bố Tiến”, nhận xét
người này tốt, người kia xấu, rồi căn dặn ông nên quan hệ với người
này, cảnh giác với người kia”. Ông Tiến bảo: “Con giúp vợ chồng cô Thắng
tìm được mộ ông nhé”. Cháu cười bảo: “Cô chú sẽ tìm được. Gần tìm được
rồi. Bố cứ đến nhà chú Bảy (nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy) ở phòng 212,
nhà B19, khu tập thể Kim Liên và ông Chu Phác (thiếu tướng Chu Phác –
chủ nhiệm Bộ môn cận tâm lý, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người)
là tìm được thôi mà”.
…đến sơ đồ của nhà ngoại cảm
Nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy
đang vẽ sơ đồ
Đúng như sự chỉ dẫn của vong thai nhi 3
tháng tuổi, gia đình chị Thắng đã tìm đến phòng số 212, nhà B19, khu Tập
thể Kim Liên (Hà Nội) và gặp được nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy. Đó là
căn phòng chật hẹp chừng 18m2 nhưng mọi thứ bày biện gọn gàng, ngăn nắp.
Sau khi đặt lễ lên bàn thờ, nơi treo ảnh Bác Hồ kính yêu, nhà ngoại cảm
mời chị Thắng ngồi trước mặt. Anh hỏi thăm về gia đình chị, về người
cha liệt sĩ rồi bảo: “Chị yên tâm! Sẽ tìm được cụ. Nhưng chị có anh trai
hoặc em trai không? Nếu có thì gọi đến đây để kết hợp xem sẽ tốt hơn.
Bởi đây là vấn đề tâm linh mang tính huyết thống. Thông thường, ở vợ và
con trai liệt sĩ thể hiện rõ hơn song phải là những người có tâm, luôn
tưởng nhớ tới người đã mất”. Nghe vậy, chị Thắng liền gọi điện cho anh
trai cả Vũ Duy Đoàn.
Khi anh Đoàn và chị Thắng ngồi ngay
ngắn, nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy bảo hai người vén tóc lên cho gọn
gàng rồi chăm chú nhìn vào trán họ. Anh hỏi chị Thắng: “Cụ hy sinh năm
nào? Giấy báo tử ghi thế nào?”. Chị Thắng sụt sịt: “Em cũng không biết
cụ thể. Chỉ thấy trong giấy báo tử ghi bố em mất ngày 15 tháng 3 năm
1975 tại mặt trận phía Nam thôi và gia đình lấy ngày đó để làm giỗ cho
cụ”. Nghe xong, anh Bảy chắp hai tay trước ngực, mặt hướng lên bàn thờ
Bác Hồ một cách thành kính, miệng khấn lầm rầm. Chừng 5 phút sau, anh
quay sang chị Thắng nói: “Cụ về rồi đấy chị ạ!”. Nói đoạn, anh lấy tờ
giấy trắng khổ A3 cùng hộp bút màu bày ra trước mặt rồi lại chăm chú
nhìn lên trán hai người. “Thấy rồi. Có mộ anh chị ạ! Mộ chưa quy tập”.
Tay vẽ, miệng anh thuyết minh: Đây là dãy núi. Đi qua chiếc cầu bằng cây
bắc qua con suối. Đây là đường mòn nhỏ đơn vị hay đi lấy gạo. Cụ không
phải mất ngày 15 tháng 3 năm 1975 đâu chị ạ. Chị ghi lại đi. Cụ mất ngày
14 tháng 10 năm 1969 âm lịch ở bản Adiu cơ. Giấy báo tử ghi sai. Nhiều
trường hợp như thế này lắm. Giấy báo tử thời chống Pháp ghi chi tiết chứ
không như thế này.
Mọi người nhìn vào sơ đồ thấy núi non
trùng điệp, ruộng lúa bậc thang, cỏ cây ngút ngàn. Có cầu bắc qua sông,
qua suối. (Xem ảnh).
Vẽ xong sơ đồ, anh Bảy bắt đầu điền các ký hiệu, trong đó có cao
điểm
463, nơi trạm trung phẫu của đơn vị. Đang cắm cúi viết, nhà ngoại cảm
bất chợt dừng bút hỏi: “Anh Tiến này. Em nghe thấy cụ nói điểm cao 463.
Không hiểu ở chiến trường, người ta có gọi như thế không nhỉ?”. Ông Tiến
bảo: “Có đấy. Điểm cao là quả đồi hay ngọn núi cao nhất. Người ta đặt
cho nó một cái tên để phân biệt với những ngọn núi khác. Thông thường,
những con số đặt cho điểm cao là chiều cao của ngọn núi. Song cũng có
thể chỉ là mã số trong bản đồ quân sự”. Nhà ngoại cảm bảo: “Em nghe
không rõ, chỉ thấy cụ nói điểm cao 463 thì điền vào chứ thực tình em
không hiểu. Em nghe thấy gì thì ghi vào để lấy tín hiệu. Càng nhiều tín
hiệu thì khi tìm càng dễ”. Ngừng lời, anh Bảy lại chăm chú lắng nghe và
tiếp tục ghi chép, miệng lẩm bẩm: ông Lai, ông Luật, anh Hạo ở thôn 1,
bản Adiu là những người trước kia thường xuyên gặp cụ. Ông Lai có nước
da ngăm đen, hàm trên rụng hết không còn một chiếc răng nào. Cứ thế, anh
viết lên tấm sơ đồ đã vẽ xong. Cuối cùng, anh khoanh tròn một chấm đen
rồi kẻ một đường mũi tên ra ngoài khoảng trống, ghi: phần mộ liệt sĩ Vũ
Duy Dư. Anh chấm ba nốt tròn nữa cạnh mộ liệt sĩ rồi cũng ghi chú là 3
ngôi mộ của dân địa phương phía sau. Ngẩng đầu lên, anh Bảy bảo: “Thế là
đã rõ rồi. Em chỉ băn khoăn một điều là sao lại có mỗi một mộ liệt sĩ ở
đây. Hay những người khác quy tập rồi sót cụ ở lại?”. Ông Tiến hỏi: “Có
chắc chắn không? Bảy cố gắng hỏi lại cụ xem”. “Để lát nữa anh ạ. Nếu có
thêm tín hiệu em sẽ tiếp tục ghi. Anh chị cứ yên tâm, em sẽ làm hết sức
chi tiết cho gia đình”. Chiêu một ngụm nước, anh Bảy chậm rãi nói: “Anh
ạ! Bản đồ thế này là rõ lắm rồi”. Vừa nói, Bảy vừa lấy tờ giấy trắng
khác tiếp tục ghi chép những thông tin mới. “Mộ cụ chôn ngay gần đường
mòn mà đơn vị vẫn đi lấy gạo qua. Đồng đội của cụ có đánh dấu một tảng
đá to cạnh đấy. Mộ ở cạnh một gốc cây cụt. Cốt còn nhưng ít lắm. Có một
bát cơm đã hoá thạch, một lọ thuốc ký ninh, bên trong là tờ giấy ghi địa
chỉ nhưng mờ hết rồi. Có hộp dầu cao hổ đút ở túi ngực. Cụ không phải
hy sinh trong trận đánh đâu. Cụ là bác sĩ phải không ạ?”. Chị Thắng ngồi
bên trả lời: “Vâng! Bố em ở nhà là y sĩ”. Anh Bảy bảo: “ừ! Đúng rồi. Cụ
mất lúc 14h. Khi đang mổ cho thương binh thì có một vệt sáng từ máy bay
lao xuống làm sập cái nhà phẫu. Chỉ có mình cụ mất thôi. Cạnh cụ còn có
chị Lý là y tá vẫn sống, quê ở Quảng Trị và hai người nữa”. Anh Bảy
ngừng viết, nhìn kỹ vào khuôn mặt anh Đoàn, chị Thắng, bảo: “Em nhìn
thấy cụ rồi. Cụ giống chị, trắng, cao chứ không giống anh Đoàn có đúng
không?”. Cả hai anh em đều gật đầu xác nhận đúng. Chừng hơn một tiếng
đồng hồ, tấm sơ đồ được vẽ xong. Ông Tiến hỏi thêm, nếu gia đình đi tìm
theo sơ đồ này thì cần phải làm những thủ tục gì? Bảy bảo: “Tốt nhất
trước khi đi, gia đình gọi điện báo cho em biết, em sẽ hướng dẫn cho. Em
vẫn chỉ dẫn qua điện thoại cho nhiều gia đình mà kết quả vẫn tốt”. Là
người đã từng sống và chiến đấu trong chiến trường nên khi nhìn tấm bản
đồ, ông Tiến biết việc đi tìm chẳng đơn giản chút nào. Ông tha thiết đề
nghị anh Bảy bớt chút thời giờ đi cùng đoàn. Thật may, anh Bảy nhận lời.
Cả nhà đều vui mừng, nhất là chị Thắng, mặt mũi rạng rỡ hẳn lên. Trên
đường về nhà, chị luôn miệng trầm trồ, xuýt xoa: “Lạ nhỉ?! Không hiểu
tại sao anh ấy lại biết rõ thế nhỉ?”. Từ hôm ấy, tất cả ráo riết chuẩn
bị chờ ngày lên đường tìm cha.