Thế giới các hiện tượng
huyền bí thuộc phạm trù Tâm linh, vẫn tiếp tục kích thích nhiều công
trình nghiên cứu, xuất hiện nhiều trong vòng hai mươi năm trở lại đây.
Sự tập hợp trí tuệ ấy, hình thành cái gọi là “Khoa học huyền bí”, mà
sức lan tỏa của nó đủ trở thành một bộ phận không nhỏ trong toàn bộ Tri
thức của nhân loại. Nhưng tại sao sự hiện diện, không thể chối cãi ấy,
của hiện tượng Tâm linh, lại bị gán cho hai chữ “Huyền bí”? Đó là bởi
vì Khoa học hiện thời không lý giải được. Và chắc chắn không bao giờ lý
giải được. Vì một lẽ đơn giản là Khoa học không mang trong lòng nó
những mầm mống của Tâm linh! Đối với Khoa hoc, Thế giới thuần túy Vật
chất và phải định lượng được.
Một cách tự nhiên, giữa
Khoa học và Tâm linh tồn tại một ranh giới: Khoa học vẫn phát triển mà
không cần đến Tâm linh, và bằng chiêm nghiệm, Tâm linh cũng chẳng cần
đến Khoa học.
Nhưng Khoa học càng tiến
lên, chính các nhà khoa học cũng trở nên bối rối, lạ lùng – thậm chí
hoang mang – trước sự đối lập giữa “Hiện thực khách quan” với những
phát hiện Khoa học của chính mình: Những phát hiện đó, đi ngược lại sự
gắn bó chặt chẽ của nhận thức truyền thống, đã ăn rất sâu vào tiềm thức
đối với hiện thực nội tại. Vì quá trăn trở với những đối lập ấy, đến
nỗi một nhà Vật lý lừng danh như Schodinger, cũng phải than thở với
đồng nghiệp Niels Bohr rằng: “Tôi rất lấy làm tiếc là mình đã có lúc
dây dưa với lý thuyết Lượng tử”!
Để làm yên lòng thế
giới, các nhà Khoa học đã lao vào những cuộc luận giải để dung hòa các
phát minh của Vật lý với nhãn quan, nhằm tránh phải xem xét lại sự cảm
nhận thông thường của chúng ta về các sự vật. Những kết quả, những nỗ
lực ấy của họ, càng vấp phải những khó khăn, khi họ buộc phải đối chiếu
chúng với các hiện tượng do chính mình phát hiện ra.
Ngày nay, người ta thấy
sự quan tâm đặc biệt của phương Tây dành cho Phật giáo. Các nhà Khoa
học phương Tây nhận thấy ở những dạng Tâm linh, mang tính thực dụng của
chiêm nghiệm, mà không mang những tín điều nặng nề (như ở các Tôn giáo
khác), có thể đưa đến một lối thoát duy nhất cho những khó khăn mà Khoa
học đang phải đối diện. Albert Einstein viết: “Nếu có một Tôn giáo nào
thích nghi được với những nhu cầu của Khoa học tiên tiến, thì đó là
Phật giáo”. Điều này đã kích thích sự tò mò của các phương tiện thông
tin đại chúng và kích thích nhiều công trình nghiên cứu, nhằm đánh giá
nguyên nhân nào khiến Khoa học hướng tới tiếp cận Tâm linh, và xu hướng
phát triển của nó trong tương lai.
Đặc biệt, trong vòng ba
mươi năm trở lại đây, bắt đầu mở ra những cuộc đối thoại giữa Khoa học
và Phật giáo. Tại đó, nhiều nhà Khoa học lỗi lạc thuộc các lĩnh vực :
Thần kinh học, Sinh vật học, Tâm lý học, Vật lý học, Toán học, Triết
học… đã được tổ chức thường xuyên, với những đề tài trải rộng thuộc
phạm trù Tâm linh.
Heisenberg đã viết: “Tôi
cho rằng khát vọng vượt qua những đối lập, bao gồm sự tổng hợp cả hiểu
biết duy lý và trải nghiệm Tâm linh về tính thống nhất, là một nét đặc
trưng quan trọng của thời đại chúng ta”.
Các nhà Vật lý Lượng tử cũng đã nhấn mạnh rằng, sự phân chia giữa ta và thế giới là giả tạo, Schrodinger đã từng viết: “Chủ thể và Khách thể
chỉ là một. Người ta không thể nói rằng, hàng rào giữa chúng đã bị phá
vỡ sau các thực nghiệm gần đây của Khoa học Vật lý, vì hàng rào này
không hề tồn tại”.
Quan điểm nền tảng của Phật giáo về thế giới là “Sự phụ thuộc lẫn nhau của các hiện tượng”,
tức là, không có cái gì tồn tại tự thân và là nguyên nhân của chính
mình: Một vật chỉ có thể được xác định trong mối quan hệ với các vật
khác và phải được xem xét trong một Tổng thể. Sự phụ thuộc lẫn nhau là
một thiết yếu để các hiện tượng có thể thể hiện được. Không có nó, Thế
giới không thể vận hành. Từ quan niệm về Sự phụ thuộc lẫn nhau, phát sinh khái niệm về Tính trống rỗng (Tính không), và đi tới khái niệm Vô thường.
Sự trống rỗng ở đây không phải là hư vô, mà chỉ là không có sự tồn tại
riêng (Tự thân) mà thôi. Bởi vì tất cả đều phụ thuộc lẫn nhau, nên
không có gì có thể được xác định, và không có gì là tồn tại bởi chính
mình cả.
Về ý nghĩa Triết học,
Khoa học hiện đại cũng nghiệm thấy rằng, có một sự hội tụ nhất định
giữa Khoa học và Phật giáo với nhãn quan về hiện thực. Bởi vì Vật lý
hiện đại (Cơ học lượng tử và Thuyết tương đối) cũng nêu lên những ý
tưởng về sự Phụ thuộc lẫn nhau của các hiện tượng trong một tính tổng thể vượt lên trên thời gian. Tính Tổng thể
của hiện thực đã được nhiều thí nghiệm Vật lý khẳng định : Trong Thế
giới vi mô có thí nghiệm EPR nổi tiếng, mà chúng ta thường nghe nhắc
đến. Những thí nghiệm loại này, cho chúng ta biết rằng, hiện thực là
không thể chia tách, rằng hai hạt ánh sáng tương tác với nhau liên tục
tạo thành một bộ phận của một, và chỉ một hiện thực duy nhất, mà không
phụ thuộc gì vào khoảng cách giữa chúng.
Còn trong Thế giới vĩ mô, Tính tổng thể
được thể hiện qua thí nghiệm con lắc Foucault. Ở đây, mặt phẳng dao
động của con lắc phù hợp, không phải chỉ với môi trường xung quanh, mà
với toàn bộ Vũ trụ. Nói cách khác, cái được chuẩn bị xảy ra ở Trái đất
đã được quyết định trong khoảng bao la vô tận của Vũ trụ. Nghĩa là phụ
thuộc vào tổng thể cấu trúc của Vũ trụ.
Tại sao con lắc Foucault
có hành vi như vậy ? Cho tới nay Khoa học Vật lý chưa tìm được câu trả
lời. Nhưng nhà Vật lý và Triết học người Áo Ernest Mach đã đưa ra một
nguyên lý, gọi là quán tính Mach, phát biểu rằng: “Khối lượng của một
vật là kết quả tác động của toàn Vũ trụ lên vật này”. Tác động bí ẩn
đó, cho tới nay vẫn chưa có ai tiếp tục chứng tỏ được một cách chi tiết.
Các nhà Vật lý khẳng
định, với thí nghiệm EPR và con lắc Foucault, đã buộc chúng ta phải
chấp nhận rằng, trong Thế giới vĩ mô, có tồn tại một mối tương tác có
bản chất hoàn toàn khác với những tương tác mà Vật lý hiện nay đã mô
tả: Tương tác này không làm xuất hiện lực và cũng không có sự trao đổi
năng lượng, nhưng nó gắn kết toàn bộ Vũ trụ với nhau, mỗi bộ phận đều
mang trong nó tính tổng thể, và mỗi bộ phận đều phụ thuộc vào bộ phận
còn lại. Chính các bộ phận này đã tạo nên hiện thực quanh ta, và quyết
định những điều kiện tồn tại của chúng ta, của các hạt và các thiên hà.
Mặt khác, theo thuyết Lượng tử : Bản thân hành vi quan sát, (cũng tức
là Ý thức của người quan sát), can dự vào việc xác định sự
tồn tại của hiện tượng được quan sát : Người quan sát và hiện tượng
được quan sát hợp thành một hệ thống duy nhất – một tổng thể.
Hành vi quan sát và sự
nhận thức (do hành vi quan sát ấy đem lại), không những làm đổi hướng
hiện thực mà còn quyết định nó, nghĩa là Cơ học lượng tử xác nhận tính
hiển nhiên của mối liên hệ giữa Tinh thần và Vật chất.
Dưới ánh sáng của lý thuyết lượng tử, nhiều bí ẩn được giải bằng một
cách lý giải mới, đi tới một tính nhất quán nào đó mà vẫn không bỏ mất
sự thật ban đầu của chúng. Đặc biệt, Vật lý hiện đại cho thấy, càng đi
sâu, người ta càng đến gần một nền móng phổ biến gắn liền Vật chất, Sự sống và Ý thức.
Về phương pháp luận nhận thức, được coi là nền tảng của Phật giáo, về Tính tổng thể, về Sự phụ thuộc lẫn nhau, về Tính trống rỗng,
của Thế giới các hiện tượng, đã cho phép giải thích mọi bí ẩn của Thế
giới Vật chất và thế giới Tâm linh. Đồng thời có khả năng giải quyết sự
đối lập giữa hiện thực và các phát hiện của Khoa học hiện đai, sự đối
lập đã làm dấy lên lòng hoài nghi và sự lo lắng về “Một cuộc khủng
hoảng Vật lý học trong thời đại hiện nay”.
Như vậy,có thể nói rằng,
Phật học là một học thuyết đã bao trùm cả Vật lý học và Tâm linh học,
tức là một học thuyết nghiên cứu cả Thế giới khách quan và Thế giới tâm linh – một phạm trù đối xứng với thể xác.
Sự đối thoại thường
xuyên giữa Khoa học và Phật học, không phải là phương tiện dung hòa,
làm hài lòng cả hai quan điểm, dựa trên những xuất phát điểm khác nhau,
mà chính là để tạo thành một dòng liên tục của tri thức, của sự hiểu
biết về bản chất của các hiện tượng và của Ý thức: Tri thức phải giúp chúng ta khám phá ra bản chất của Thế giới xung quanh và bản chất của Tâm linh con người !
Khoa học không cần đến
Tâm linh sẽ làm lụi tàn dần dần sự tồn tại của con người. Bởi vì tri
thức không được nuôi dưỡng bằng lòng vị tha thì Khoa học và Chính trị
sẽ trở thành con dao hai lưỡi: Khoa học công nghệ mang đến cho loài
người những yếu tố tích cực vô cùng to lớn, nhưng nó cũng gây ra những
hậu quả tàn phá không kém phần nghiêm trọng, kể cả tàn phá về nền tảng
đạo đức. Khoa học đã chứng tỏ rằng, nó có thể tác động vào Thế giới,
chứ không làm chủ được Thế giới. Chỉ có những Phẩm chất con người mới
có thể định hướng được cách tác động vào Thế giới của chúng ta. Vậy mà,
những phẩm chất này chỉ có thể nảy sinh từ một Khoa học về Tâm linh !
2- Phải chăng Ý
thức chỉ là sự phản ảnh của các quá trình Vật lý? Nó là kết quả của sự
phức tạp hóa cấu trúc Vật chất hay hoàn toàn khác biệt với Vật chất ?
Giải đáp những câu hỏi
loại này một cách hợp lý, sẽ cung cấp cho chúng ta một tư duy mới, tiếp
cận với bản chất “huyền bí” của Tâm linh con người, và làm phong phú
thêm Tri thức của chúng ta.
Ý thức từ đâu đến ?
1* - Đối với các nhà
Sinh vật học đương đại thì cho rằng, Ý thức bắt nguồn từ sự tổ chức
ngày càng phức tạp của các hạt vô sinh, phát triển theo hình thái phân
nhánh nhờ động lực của quá trình trao đổi chất và năng lượng với hệ
ngoài, và đến một ngưỡng tới hạn nào đó thì xuất hiện sự “đột sinh”, ra
đời một hiện tượng, với bản chất hoàn toàn mới. Ý thức đột sinh theo
nguyên lý này. Vì Ý thức được thai nghén và nuôi dưỡng bằng Vật chất, cho nên Ý thức luôn phải gắn liền với cái nôi Vật chất để làm “giá đỡ”. Não bộ là giá đỡ vật chất (hay còn gọi là giá đỡ vật lý) của Ý thức.
2* - Với những phát hiện
mới nhất của Vật lý hiện đại: Dường như thế giới các hạt cơ bản cũng
đều có biểu hiện một “Ý thức” ở mức độ nào đó để tự thích ứng trong các
tình huống khác nhau. Thí nghiệm nổi tiếng nhất, gây xôn xao về chuyện
này, gọi là thí nghiệm 2 khe (Do nhà Vật lý người Anh Thomas Young thực
hiện).
Những
kết quả quan sát và lặp lại nhiều lần thí nghiệm này, người ta gần như
có cảm giác rằng, các Photon có mang theo một Ý thức thô sơ ở mức độ
nào đấy. Trong tình hình lúc bấy giờ của Khoa học, đa số các nhà khoa
học không tán thành ý kiến này. Tuy nhiên cũng có một số người vẫn hình
dung rằng, các hạt cơ bản có mang một thuộc tính, có thể so sánh ít hay
nhiều với ý chí tự do. Chẳng hạn nhà Vật lý người Mỹ Evan Walker đã
trình bày một luận điểm đáng kinh ngạc như thế này: “Ý thức có
thể liên kết với tất cả các hiện tượng Lượng tử, vì mọi sự kiện, xét
đến cùng, là sản phẩm của một hay nhiều sự kiện Lượng tử…”
Luận điểm đó tương đồng với khái niệm về Trường Ý thức và cho rằng, Trường Ý thức
cũng có thể thuộc về một continum giống như Trường Lượng tử. Bởi vì
theo thuyết Lượng tử thì bản thân động tác quan sát, nói khác đi là ý
thức của người quan sát, can dự vào việc xác định sự tồn tại hiện tượng
được quan sát,
3* - Quan điểm Phật giáo cho biết rằng, Ý thức
chỉ là một chức năng hữu hiệu, một “vẻ bề ngoài thuần túy”, không có
hiện thực nội tại, và cũng không có điểm bắt đầu. Vấn đề không tồn tại
điểm bắt đầu (hay nguồn gốc đầu tiên) của Vật chất và Ý thức xuất phát
từ cái gọi là “Không thể nhận thức được”: Không thể nhận thức
được, không phải là sự cam chịu trước một điều huyền bí vượt quá khả
năng nhận thức, mà là nói tới cái không thể được hiểu bằng các khái
niệm thông thường của chúng ta. Điều này cũng tương đồng với cái được
gọi là định lý Godel về “Tính không đầy đủ”. Theo định lý này
thì không thể chứng minh rằng, một hệ thống là phi mâu thuẫn, khi ta
vẫn ở bên trong hệ thống ấy. Để chứnh minh, cần phải ra khỏi hệ thống
đó.
Theo Phật giáo, Vật chất và Ý thức tồn tại song song, không có thứ tự trước - sau, không loại trừ lẫn nhau.
Việc cho rằng, Nguyên lý
Vị nhân dẫn dắt thế giới vô sinh phát triển, hình thành sự sống có Ý
thức, là siêu hình, chẳng có ý nghĩa gì đáng quan tâm đối với Phật giáo.
Phật giáo nhìn nhận Ý thức có nhiều cấp độ : Cấp Thô, cấp Tinh, và Cực kỳ tinh.
Cấp thô tương ứng với sự hoạt động của não bộ. Cấp Tinh
tương ứng với cách gọi trực quan thông thường là Ý thức nghĩa là rất
nhiều khả năng, đặc biệt là khả năng tự suy xét, tự vấn về bản chất của
chính mình và biểu lộ tự do ý chí của chính mình, đồng thời thể hiện
các khuynh hướng khác nhau tích lũy được trong quá khứ. Ý thức cấp độ Tinh có thể xếp liền với ý thức cấp độ Thô vì
cả hai đều bắt nguồn từ cấp độ cơ bản. Mặt cơ bản có thể tạm thời bị
che khuất bởi vướng vào sự độc hại của vô minh. Khi đó, chỉ có mặt Thô và Tinh của Ý thức là có thể tri giác được.
Riêng Cấp độ Thô cần có các yếu tố phụ trợ như não bộ, thể xác và môi trường, Điều này có nghĩa là cấp độ Thô
cần có “giá đỡ” vật chất : Nó bị não bộ làm cho thay đổi và nó cũng có
thể làm thay đổi não bộ thông qua qui luật nhân quả tương hỗ. Hoạt động
của Ý thức cấp độ thô liên quan tương ứng với hoat động của não bộ và không được thể hiện khi không có thể xác.
Cấp độ Cực kỳ tinh là quan trọng nhất, nó được gọi là “Sự sáng suốt nền tảng của Ý thức”.
Nó tương ứng với một sự hiểu biết thuần khiết, không hoạt động theo mô
thức nhị nguyên (Chủ thể - Khách thể) và không nhất thiết phải có “giá
đỡ” Vật chất: Nó vẫn còn đấy mà không cần đến thể xác.
Vấn đề từ đâu sinh ra các hiện tượng có Ý thức,
liệu có phải cần một “tia lửa” để khởi động sự sống và Ý thức từ những
nguyên tử vô sinh hay không, đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi về chủ đề:
Ý thức có thể có một điểm bắt đầu.
Theo quan điểm Phật
giáo, nếu có một điểm bắt đầu như vậy thì, hoặc là nó được tạo ra từ hư
vô, hoặc từ một sự tiến hóa tuần tự từ các vật vô sinh, (như suy nghĩ
của hầu hết các nhà Sinh vật học và Vật lý học). Nếu từ hư vô thì, một
là nó không cần nguyên nhân, hai là nó được nhào nặn qua bàn tay của
một Đấng Sáng thế. Trong nhiều dịp, chúng ta đã biết Phật giáo bác bỏ
hai khả năng này như thế nào rồi. Còn nếu tiến hóa tuần tự từ vật vô
sinh, điển hình như nhà Vật lý Brian Greene đã viết: “Tôi cho rằng, Ý
thức là sự phản ánh các quá trình Vật lý vi mô, vốn rất phức tạp và
diễn ra cực kỳ nhanh. Mặc dù các khía cạnh về chất của Ý thức rất khác
với những tính chất của các cấu thành Vật lý, mà trên đó Ý thức được
tạo ra, nhưng tôi không nghĩ rằng, điều đó là dấu hiệu chỉ ra sự tồn
tại của một cái gì đó khác với cấu trúc Vật lý, vốn là cơ sở của nó”.
Phật
giáo trả lời rằng, nguyên nhân và kết quả phải có một sự cộng thông về
bản chất: Một khoảnh khắc của Ý thức, chỉ có thể được sinh ra từ một
khoảnh khắc ngay trước đó cũng của Ý thức. Nếu một cái gì đó có thể
được sinh ra từ một cái hoàn toàn khác về bản chất, thì tất cả đều có
thể được sinh ra từ bất cứ cái gì. Đó là một điều phi lý. Do đó, mặt cơ
bản của Ý thức không thể sinh ra từ Vật chất vô sinh và, trong mọi hoàn
cảnh, không nhất thiết phải phụ thuộc vào sự hiện diện của một “giá đỡ”
vật lý.
Như vậy, không có sự chuyển tiếp từ Vật chất đến Ý thức, mà là khái niệm về một dòng liên tục của Ý thức, gắn hay không gắn với các “giá đỡ” vật chất khác nhau.
Ở đây nảy sinh câu hỏi: Nếu thừa nhận có thể có một Ý thức không có giá đỡ Vật lý, thì Ý thức có quan hệ gì với Vật chất? Câu trả lời là, mối quan hệ ấy nằm ngay ở tính phổ biến của Sự phụ thuộc lẫn nhau: ngay cả khi không có giá đỡ Vật chất, thì Ý thức cũng không vì thế mà bị “tách rời” khỏi Tổng thể của thế giới các hiện tượng.
Bằng chứng thứ nhất cho
luận điểm này là, với những người đã trải qua trạng thái trung gian
giữa cái chết và sự hồi sinh, tức là trạng thái chết lâm sàng, (Ở
phương Tây, những trải nghiệm mà người ta gọi là “cận kề cái chết”, còn
trong ngành Y, có chữ viết tắt là NDE (near death experience) cũng rất
quen thuộc và cũng được minh họa khá nhiều.) Đó là trạng thái không còn
“giá đỡ”vật chất cho mọi cấp độ Ý thức nữa. Nhưng những lời chứng của
những người trải qua cái chết lâm sàng (trong một khoảng thời gian nào
đó, và sau đó, họ hồi tỉnh lại), thì vẫn còn đó. Họ thường kể lại là đã
từng trải qua trạng thái cực kỳ hạnh phúc, kể về tình yêu thương nhân
loại, về cuộc du hành đến một nguồn sáng chói lòa ở cuối đường hầm tăm
tối và về điểm không thể quay lui, mà tại đó, họ phải lựa chọn nên tiếp
tục đi hay trở về với sự sống. Và rằng, họ rất thường xuyên ngập ngừng
trong việc tái nhập trở lại vào thể xác của mình… Những người trải qua
các trạng thái này, khi tỉnh lại, thường thay đổi và quyết định sống
phần còn lại của cuộc đời theo một cách mới.
Dù những lời kể này có
sức ảnh hưởng như thế nào chăng nữa, thì những người theo chủ nghĩa Duy
vật, vẫn sẽ bác lại rằng chúng chẳng qua chỉ là tàn dư của hoạt động
thần kinh lúc hấp hối. Phật giáo cho rằng, những người đã trải qua NDE
vẫn chưa thực sự vượt qua ngưỡng của cái chết. Nhưng một số người khác
(mà thường là những Thiền sư cao cấp hoặc những người bình thường đã
trải qua những trải nghiệm kéo dài ở trạng thái NDE), thì họ đã mô tả
rất chi tiết các giai đoạn khác nhau của cái chết và của trạng thái
trung gian mà họ đã trải qua này.
Bàng chứng thứ hai
là về ký ức của các kiếp trước tái hiện vào kiếp sau. Những lời kể theo
hướng này rất nhiều, vì chưa được một số đủ lớn các nhà Khoa học kiểm
chứng, nên chúng thường không được chấp nhận, tuy nhiên vẫn có một vài
ngoại lệ, đó là những trường hợp khá nổi tiếng, mà khả năng người kể
bịa đặt hoặc trùng hợp ngẫu nhiên bị loại trừ một cách hợp lý. Đó là
trường hợp của Shanti Dévi: cô bé 4 tuổi sinh tại Delhi - Ấn Độ (Xem
phụ trương câu chuyện này, ở phần dưới, do nhà Khoa học kiêm Nhà sư
người Pháp Matthieu dẫn ra làm luận cứ trong một cuộc đối thoại Khoa
học về đề tài này).
Trường hợp Shanti Dévi,
mặc dù rất đặc biệt nhưng không phải đơn độc. Giáo sư Ian Stevenson,
Trường đại học Virginie, đã nghiên cứu lời chứng của hàng trăm người
khẳng định là họ có những hồi niệm tương tự như vậy. Ông đã giữ lại vài
chục trường hợp mà ông cho là khó giải thích nếu không dựa vào hiện
tượng truyền ký ức.
Nhưng trong bối cảnh nền
văn hóa phương Tây quá xa lạ với việc cho rằng, người ta có thể tái
sinh nhiều lần, cho nên viện dẫn ra bằng chứng này chỉ làm dấy lên sự
bác bỏ. Nhưng cũng khá ngạc nhiên, khi người ta sẵn sàng tin rằng, có
gen di truyền trong dòng tộc về bệnh tật, về dị tật, về một tài năng
nào đó từ đời các cụ-kỵ xa xưa bỗng tái hiện ở đời cháu–chắt hiện tại.
Tình huống ở đây về khoảng cách thời gian và không gian, không thể nói
đó là một sự truyền tải kiểu “lây nhiễm” qua thể xác, bởi vì không hề
có sự “bắt cầu” di truyền theo thứ tự kế tiếp, mà cách quãng đôi khi
khá xa. Vậy thì cái gọi là gen di truyền, được chuyển đi bằng phương
tiện nào với quãng cách ấy ? Cho nên, suy cho cùng, sự bác bỏ này, của
phương Tây, chủ yếu là do thói quen bản năng, không ưa thích việc phải
xem xét lại các quan điểm siêu hình hơn là sự mong muốn làm sáng tỏ vấn
đề đang chịu ảnh hưởng mạnh của môi trường văn hóa. Rõ ràng, môi trường
văn hóa có ảnh hưởng to lớn đến thế giới quan của chúng ta.
Sự tồn tại Ký ức kiếp trước cũng cho phép giải thích hiện tượng “Thần đồng” và sự đột xuất các tài năng thiên bẩm nói chung.
Tuy nhiên cũng có câu
hỏi rằng, nếu như có thể nhớ lại những cuộc đời trước, thì tại sao điều
này chỉ xảy ra với một số ít người? Đó là vì cái mà người ta gọi là “sự
hôn ám tạm thời”, chẳng hạn, bừng tỉnh lúc nửa đêm, hoặc ra khỏi trạng
thái gây mê toàn thân, bị chấn thương, người ta rơi vào trạng thái mơ
hồ, trong vài phút, không biết là mình đang ở đâu. Nó tương tự như sự
hôn ám của người sau khi chết sống lại, chỉ có điều cường độ khác nhau
mà thôi. Do vậy, người ta hiểu rằng, khi chết là một chấn thương gây
hôn ám nặng hơn nhiều và sự quên cũng sâu hơn, làm tiêu tán dòng Ký ức.
Nhưng cái chết xảy ra trong hoàn cảnh đầu óc còn rất sáng suốt, hoặc ở
độ tuổi còn trẻ trung sung mãn, thì có thể xảy ra trường hợp các hồi ức
sẽ xuất hiện trở lại trong các kiếp sau.
Hiện tượng này được thể
hiện trong suốt tuổi ấu thơ, vì càng lớn lên thì những ấn tượng của
cuộc sống mới càng áp đặt và càng hằn sâu vào Ý thức, khiến cho các ấn
tượng của kiếp trước tan biến dần. Ở những người đã đạt đến độ làm chủ
mình bằng thiền định và biết vượt qua trạng thái trung gian với một đầu
óc minh mẫn, thì sự hôn ám do quá trình chết là rất nhỏ. Chính vì thế,
ở Tây tạng, các hồi niệm lại kiếp trước, xảy ra nhiều hơn trong lứa
tuổi nhỏ do sự tái sinh của các Thánh nhân đã chết.
Mặt khác, đó không phải
là loại Ý thức phổ biến chung cho tất cả mọi người và hiện tượng trong
tất cả các hiện tượng, mà là một dòng liên tục của Ý thức cá nhân,
chuyển từ một trạng thái tồn tại này sang một trạng thái khác. Đó là
những dòng chảy mà người ta có thể so sánh với các “Sóng” vì Ý thức chỉ là một chức năng, không có hiện thực nội tại.
Ý thức bao hàm một lượng lớn các quan hệ mà ta có thể xem như chúng sinh ra một “Trường” cũng nghĩa là một “Sóng”,
ngay cả khi nó không phải là một sóng Vật lý. Người ta có thể mô tả Ý
thức như một dòng chảy, một chức năng duy trì vĩnh viễn, nhưng không
nhất thiết phải mang theo một Thực thể tách biệt nào: Một cái gì đó trôi đi nhưng không có một Thực thể di trú.
Có thể so sánh dòng tiếp nối này với sự truyền đạt kiến thức: Trong một
bài giảng, chắc chắn là có sự truyền thụ nhưng không có sự truyền phát
một vật thể nào. Cũng
vậy, khi nhìn những con sóng lừng ngoài khơi, ta tưởng rằng, các khối
nước lớn đang chuyển động, nhưng không phải như vậy: Các phần tử nước
chỉ dập dềnh tại chỗ khi con sóng đi qua, nhưng không đi theo cùng với
sóng, nghĩa là một con sóng truyền lan nhưng không có Vật chất nào được
truyền lan theo. Tương tự, sự tiếp nối các trạng thái, mà Ý thức trải
qua, giống như sự tiếp nối của một sóng lan truyền một chức năng và các
thông tin, chứ không có sự chuyển dịch của Vật chất hay một thực thể cụ
thể nào. Theo đó, các từ “Đầu thai” hay “Tái sinh” chỉ nói lên một cách
gần đúng trải nghiệm vừa nêu trên. Sự trở thành một con người tương ứng
với các chuyển hóa của con sóng này, bản chất của những hành vi và suy
nghĩ quyết định các trạng thái Ý thức của chúng ta. Nhưng điều đó không
có nghĩa là tồn tại sự sở hữu mỗi người một sóng Ý thức riêng, để nhờ
có nó mà chúng ta mới có được ý niệm về một bản sắc cá nhân.
Nên nhớ rằng, ta có thể hình dung một người có một Ý thức cá nhân,
nhưng không nhất thiết cần phải thừa nhận sự tồn tại của một “Cái tôi”
du hành cùng với sóng đó. Bởi vì, nếu Ký ức phụ thuộc vào “Cái tôi”,
thì những ai rèn luyện đạt được giải phóng khỏi ảo tưởng của “Cái tôi”,
thì lẽ nào, người ấy trở thành người mất trí nhớ? Cho nên, không được
nhầm lẫn khái niệm giả tạo về “Cái tôi” với dòng Ý thức cá thể. Sự vắng
bóng của “Cái tôi” không hề ngăn cản quá trình nhớ vốn được ghi sẵn
trong hệ thống thần kinh và làm thay đổi các đặc trưng của Ý thức Thô tương ứng với hệ thống đó.
“Cái tôi” là một cái nhãn gắn với Tâm thể của chúng ta, giống như chúng ta gọi “Ngôi nhà có nhiều cửa sổ”
là tổng thể các thông tin chứa trong bộ phim truyền hình cùng tên,
nhưng không thể nghĩ rằng, có một thực thể “ngôi nhà có nhiều cửa sổ”
hiện diện ngay trong lòng tổng thể các thông tin của bộ phim này.
3- Thay lời kết :
a) Không chỉ có Thế giới Vật chất mà có cả Thế giới Tâm linh cùng song hành tồn tai trong một Tổng thể và Phụ thuộc lẫn nhau
của Vũ trụ. Thế giới Vật chất cung cấp tiện nghi và nuôi dưỡng sự sống.
Thế giới Tâm linh cung cấp đạo lý và nuôi dưỡng phẩm chất Tâm hồn. Hai
Thế giới bổ trợ nhau tạo ra con người hoàn hảo. Đó là vẻ đẹp mà nguyên
lý đối xứng của Vũ trụ mang lại cho chúng ta.
b) Sự tích hợp Khoa học
Vật lý và Khoa học Tâm linh sẽ làm triệt tiêu mảnh đất vô minh của sự
lòe bịp nhảm nhí, tầm thường hóa Tâm linh. Đồng thời cho phép chinh
phục mọi bí ẩn trong nó, sự bí ẩn mà đơn phương Khoa học không thể
chinh phục được.
c) Với cấp độ thô, thì Ý thức gắn liền với não bộ. Với Ý thức tinh tế thì đó là những dòng chảy mà người ta có thể so sánh với các Sóng, và do nó bao hàm một lượng lớn các quan hệ, mà ta có thể xem chúng phát sinh ra một Trường (cũng đồng nghĩa với một Sóng), dù nó không phải là một Trường hay một sóng Vật lý.
Người ta có thể mô tả Ý thức
như một dòng chảy, một chức năng duy trì vĩnh viễn, nhưng không nhất
thiết phải mang theo một thực thể di trú nào. Điều này có nghĩa là Sóng Ý thức vẫn tồn tại ngay cả khi không còn thể xác !
Vì Sóng ý thức tồn tại trong Tính tổng thể Vũ trụ và Tính phụ thuộc lẫn nhau
cho nên, nó chẳng những không biến mất khi không còn thể xác, mà nó còn
liên tục cập nhật thông tin để duy trì chức năng vĩnh viễn của mình
trong dòng Ý thức liên tục. Chính điều này bác bỏ luận giải cho rằng, “ý thức hồi niệm” chẳng qua chỉ là “bức xạ tàn dư” lúc hấp hối.
d) Một luận thuyết Khoa
học (dù là Duy lý hay Chiêm nghiệm) được công nhận là đúng đắn, nếu nó
giải thích nhất quán những hiện tượng quan sát được và cho phép tiên
đoán khá đúng những sự kiện liên quan chưa được phát hiện. Đó là “Cơ sở Khoa học”, chẳng những nền tảng cho lòng tin vào chân lý mà, quan trọng hơn, là cơ sở cho một nhận thức mới: Nhận thức về một “Thế giới tích hợp”: Một Khoa học về Tổng thể Vật chất – Sự sống – Ý thức, hay về Tổng thể Khoa học – Tâm linh.
Hà Nội, mùa đông 2008
(Bài viết có
sử dụng một số đoạn trong cuộc đối thoại tay đôi giữa nhà Vật lý thiên
văn, Giáo sư Đại học Virginia, Hoa kỳ: Trịnh Xuân Thuận và nhà Khoa học
kiêm nhà sư người Pháp Matthieu Ricard, trong ấn phẩm “Cái vô hạn trong lòng bàn tay – Từ Big Bang đến giác ngộ”
Theo: chungta.com