Trong ba vị Thiền sư đã tham gia
trực tiếp vào cuộc chiến tranh năm 981 là Thiền sư Khuông Việt, Vạn Hạnh và
Pháp Thuận, thì hình như Thiền sư Pháp Thuận là người được vua Lê Đại Hành tín
nhiệm và kính trọng nhiều nhất. Sự tình này ta có thể thấy qua việc vua Lê Đại
Hành đã đem vận nước ngắn dài ra để trưng cầu ý kiến của Thiền sư Pháp Thuận.
Phải nói rằng Thiền sư Pháp Thuận đã được tín nhiệm tới một mức độ nào đó, thì
Lê Hoàn mới dám đem vấn đề ấy ra để hỏi. Khi nói đến vận nước, thực tế là nói đến
vận mạng của một triều đại. Vua Lê Đại Hành đã đem vận mạng của triều đại mình để
hỏi, điều này cũng có nghĩa ông hoàn toàn tin tưởng Thiền sư Pháp Thuận.
Sự thật, khi đặt câu hỏi như thế,
vua Lê Đại Hành đã nhìn Thiền sư Pháp Thuận không chỉ là một cố vấn thân tín, mà
còn là một cố vấn có đủ khả năng phân tích để có thể thấy đâu là sở trường, đâu
là sở đoản của một triều đại. Có thể, vua Lê Đại Hành đã đặt câu hỏi ấy vào một
thời điểm mà triều đại nhà Lê do Lê Hoàn thiết lập đang đứng trước những khó khăn
thách thức, có nguy cơ có thể bị sụp đổ. Thời điểm đầy nguy cơ ấy không đâu
khác hơn là giai đoạn lúc Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết vào tháng 10 năm Kỷ
Mão (979) và khi Hầu Nhân Bảo tiến quân vào nước ta vào mùa Xuân tháng 3 năm
Tân Tỵ (981).
Đây là giai đoạn của thù trong
giặc ngoài, mà nếu không có sự ủng hộ một lòng một dạ của dân thì Lê Hoàn đã
không bao giờ thành công, đè bẹp và tiêu diệt đám thù trong giặc ngoài ấy. Quả
vậy, bên trong đám Đinh Điền, Nguyễn Bặc do quyền lợi cá nhân và dòng họ, đã
không thấy nguy cơ xâm lược của kẻ thù đối với đất nước, nên đã kiên quyết chống
lại Lê Hoàn. Còn bên ngoài, triều đình nhà Tống đang ráo riết đi sâu vào những
khó khăn nội bộ của ta và tiến hành cuộc chiến tranh xâm lăng Đại Cồ Việt.
Trong một tình huống như thế, nếu không có sự đoàn kết của toàn dân, vua Lê Đại
Hành đã không thể chiến thắng được thù trong giặc ngoài như vừa kể.
Chính trong tình thế có nhiều
nguy cơ thách thức như vậy, mà vua Lê Đại Hành đã hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận
nước dài hay ngắn. Và như thế câu trả lời của Thiền sư Pháp Thuận cũng ở vào thời
điểm ấy. Để nhấn mạnh đến vị thế xung yếu của sự đoàn kết, Thiền sư Pháp Thuận đã
dùng hình ảnh vận nước như một bó mây cuốn lại với nhau:
Vận nước như mây cuốn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện các
Xứ xứ hết đao binh
Nói vậy tức cũng xác định bài
thơ Vận Nước này ra đời vào trong khoảng những năm 979 – 981, khi đất nước đang
trải qua những giờ phút nghiêm trọng. Nguy cơ đánh mất chủ quyền quốc gia ngày đêm
vẫn rình rập. Chính vào thời điểm này, những người lãnh đạo đất nước như Lê Hoàn
với trực cảm bén nhạy của nhà chính trị thiên tài đã thấy vấn đề và tìm cách giải
quyết. Câu trả lời của Thiền sư Pháp Thuận cũng thể hiện một trực cảm chính trị
sắc bén không kém. Ông đã ý thức rất rõ mọi quyền lực phải từ dân mà ra và vận
nước cũng thế. Vận nước ngắn dài nằm ở trong tay người dân. Người lãnh đạo biết
nắm lấy dân, biết đoàn kết với dân thì vận mệnh của triều đại mình sẽ lâu dài.
Ngược lại, thì sẽ nhào đổ một cách nhanh chóng.
Quan điểm coi vận nước như một
bó mây vừa tượng hình, dễ hiểu, lại vừa chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc. Ngày
nay, chúng ta thường hay dùng hình ảnh bó đũa để chỉ cho sự đoàn kết. Tổ tiên
ta hơn ngàn năm trước đã dùng hình ảnh cuộn mây (đằng lạc). Từng con người có
thể yếu yếu ớt như từng chiếc đũa, từng sợi mây, nhưng biết kết hợp lại thì sẽ
trở thành một sức mạnh vô địch, không gì có thể phá vỡ được. Vào những ngày
tháng của năm 980, một nhận định và kêu gọi như thế về sức mạnh của đoàn kết thật
đúng lúc. Thiền sư Pháp Thuận đã thể hiện tư cách tham mưu sắc bén của mình qua
bài thơ ấy.
Sự thật, với sức mạnh của đoàn
kết, vị Thiền sư thấy đất nước mở ra một vận hội không những lâu dài mà còn
thái bình. Quả vậy, chỉ khi đất nước thái bình thì vận nước mới lâu dài được. Mà
một đất nước cứ chiến tranh liên miên thì làm sao mà thái bình cho được. Cứ chiến
tranh, bao nhiêu nguồn tài nguyên nhân vật lực bị phung phí thì đời sống nhân
dân càng ngày càng kiệt quệ. Nhân dân đã kiệt quệ, thì làm sao vận nước được
lâu dài. Cho nên, hơn ai hết, những người đã trực tiếp tham gia chỉ đạo cục
kháng chiến của dân tộc như Thiền sư Pháp Thuận, chắc chắn có một mong ước thiết
tha cho chiến tranh chóng chấm dứt. Và thật sự họ đã nhanh chóng chấm dứt cuộc
chiến tranh do kẻ thù áp đặt chỉ trong vòng ba tuần lễ.
Bài thơ Vận Nước tuy thể hiện một
tư tưởng chính trị, nhưng vẫn không đánh mất tính chất thời sự của nó. Dòng thơ
thời sự Việt Nam bắt đầu với Thiền sư Định Không, bây giờ đến Thiền sư Pháp Thuận
và Thiền sư Khuông Việt, rồi Thiền sư Vạn Hạnh đã trở thành dòng thơ chủ lưu của
nền văn học Việt Nam. Đây là một dòng thơ suy tưởng sâu đậm đến vận mạng của đất
nước, đến cuộc sống của người dân. Với gần mấy chục bài thơ xoay quanh những vấn
đề trọng đại như chủ quyền quốc gia, như đoàn kết toàn dân, như thái bình của đất
nước, nó đã chuẩn bị tiền đề tư tưởng và nhận thức cho mọi tầng lớp người dân và
báo hiệu cho sự ra đời một quốc gia Đại Việt hùng cường sắp tới. Ít có khi
trong lịch sử văn học bất cứ dân tộc nào, mà một dòng văn học chủ lưu như dòng
văn học thời sự Việt Nam trong các thế kỷ thứ tám cho đến thứ mười.
Tính chất thời sự của dòng thơ
chủ lưu này không còn xuất hiện trong những thế kỷ sau. Hoặc có đi nữa, thì nó
cũng rất mờ nhạt, không có những nét đặc thù rõ rệt. Đây là một thời đại văn học,
mà mọi cây bút lớn đều tập trung vào những vấn đề trọng đại vừa nêu trên. Một đặc
trưng ta cũng ít tìm thấy trong những giai đoạn văn học sau. Có thể nói mọi
tinh lực của dân tộc đều đổ dồn vào công cuộc xây dựng chủ quyền quốc gia và kiến
thiết một nền thái bình cho đất nước. Cho nên, nó đã khai sinh ra nền văn học đậm
đặc tính chất thời sự phục vụ cho nhu cầu xây dựng và kiến thiết như vừa nói. Đây
là một nền văn học mang lại cho ta những cảm thức hùng vĩ về đất nước, về con
người.
Nhiều người đã viết về lịch sử
văn học Việt Nam
và hầu hết họ đều đưa bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” lên làm bài thơ mở đầu cho giai
đoạn văn học thời kỳ tự chủ. Người ta cố tình bỏ qua cả một dòng thơ thời sự tràn
đầy tính chiến đấu cho chủ quyền của đất nước, bắt đầu từ Thiền sư Định Không
(730 – 808) cho đến Thiền sư Vạn Hạnh (? – 1025) qua những danh gia như La Quý,
Khuông Việt, Đa Bảo và Pháp Thuận. Trong gần 300 năm tồn tại, dòng văn học thời
sự này đã có những đóng góp to lớn cho công cuộc vận động toàn dân đấu tranh giành
độc lập và xây dựng nền thái bình cho đất nước. Nó đã thể hiện được tinh thần hào
hùng của một thời kỳ đầy biến động dồn dập.
Sự thật, đọc bài thơ Vận Nước
trên, ta không chỉ cảm thấy Thiền sư Pháp Thuận nói đến đòi hỏi về đoàn kết toàn
dân cho một nền thái bình đang tới của trời Nam, mà còn thấy Thiền sư Pháp Thuận
nói đến trách nhiệm của những người cầm quyền. Thiền sư Pháp Thuận đã nói thẳng
với vua Lê Đại Hành rằng để đất nước được thái bình “nơi nơi hết chiến tranh”, đòi
hỏi ngườiø cầm quyền, cụ thể là nhà vua phải “vô vi”:
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh.
Khi nói đến khái niệm vô vi, người
ta thường nghĩ ngay đến phạm trù vô vi của triết học Lão Trang. Nhưng ở đây thực
sự không phải như thế. Về phía Phật giáo, vô vi là một phạm trù lớn và thường được
coi là dịch từ chữ asamskrta của tiếng Phạn. Nội dung của vô vi theo hướng này
thường được quy định trong giới hạn của bản thể luận và nhận thức luận. Song ảnh
hưởng của kinh Lục Độ Tập đối với Phật giáo nước ta lúc ấy, ta thấy truyện
81 của kinh này có một định nghĩa của vô vi như sau: “Cẩn thận, không kiêu
ngạo, là hạnh của học sĩ, bỏ lòng dơ ân ái, không lấm bụi bặm của sáu tình,
không để các ái nhỏ như tóc tơ che dấu trong lòng mình thì các niệm lắng diệt, đó
là vô vi”.
Tư tưởng vô vi này của kinh Lục
Độ Tập, tuy có ít nhiều nội dung xã hội và chính trị, vẫn chưa tỏ hết nội dung
của vô vi trong bài thơ của Thiền sư Pháp Thuận. Thực vậy, một nghiên cứu sơ bộ
đã cung cấp cho ta về quan điểm vô vi nhi trị của kinh điển nhà Nho. Vậy vô vi
cũng là một phạm trù của tư tưởng Nho giáo. Nhưng Khổng tử cho rằng đây là tư tưởng
trị đạo của vua Thuấn, mà ông chỉ mô tả một cách vắn tắt bằng hai chữ cung kỷ
(nghiêm túc với chính mình).
Trị đạo của vua Thuấn được Khổng
tử mô tả là một Trị Đạo Vô Vi, và trong Luận ngữ ta chỉ được thấy mô tả bằng
hai chữ cung kỷ mà không thấy nói gì thêm nữa. Chỉ trong thiên Trung Dung ta mới
thấy hai lần Khổng tử mô tả lại Trị Đạo Vô Vi của vua Thuấn gồm những yếu tố
gì. Đó là phải có trí và có hiếu. Có trí để xét đoán sử dụng sở trường của người
mà quên đi những sở đoản của họ, giữa những quan điểm cực đoan biết chọn lấy một
đường lối thích hợp để phục vụ cho người dân. Và có hiếu nhằm có đức lớn để có
thể lãnh đạo được nhân dân.
Vậy rõ ràng, khi nói đến vô vi
trên điện các, Thiền sư Pháp Thuận đã muốn đề xuất một mẫu người lý tưởng cho
vua Lê Đại Hành trong việc trị vì đất nước, một mẫu người có trí, có đức. Người
lãnh đạo phải sở hữu những phẩm chất tài và đức này thì đất nước mới thái bình
thịnh trị, nơi nơi mới chấm dứt chiến tranh. Khi một đất nước đã thế, tất nhiên
vận nước sẽ dài lâu, và vận mạng của triều đại cũng nhờ thế mà tồn tại với đất
nước. Cho nên, tuy không trả lời trực tiếp cho câu hỏi vận nước ngắn dài của
vua Lê Đại Hành, nhưng ý nghĩa của bài thơ thì hết sức hiển nhiên, không cần phải
bàn cãi đâu là yếu tố cấu thành nên vận nước.
Khi vua Lê Đại Hành đặt câu hỏi
vận nước dài lâu với Thiền sư Pháp Thuận, vua chắc chắn đã biết về khả năng “nói
ra lời nào cũng hợp với sấm ngữ” của vị Thiền sư này. Tuy nhiên, đọc bài thơ vận
nước, ta chẳng cần một thiên tài nào về sấm ngữ, cũng có thể giải mã một cách đích
xác và cụ thể những yếu tố gì có thể làm cho vận nước được dài lâu. Đó là sự đoàn
kết của toàn dân và phẩm chất tài đức của người lãnh đạo. Không có hai yếu tố này,
mà thực sự chỉ có hai mặt của một thể thống-nhất là dân tộc, thì vận nước không
bao giờ có thể bền vững được. Trong một bài thơ ngắn ngủi, chỉ đúng 20 chữ, Thiền
sư Pháp Thuận đã biết cô đọng một cách chính xác cốt lõi của hệ thống tư tưởng
chính trị bản thân vào thời đại của ông.
Có người đã từng nói: “Không có
tư tưởng cách mạng thì không có vận động cách mạng”. Cũng thế, đất nước ta vào
những ngày tháng đấu tranh sống mái với kẻ thù để bảo vệ nền độc lập của tổ quốc,
nếu không có một hệ thống tư tưởng chính trị chỉ đạo, thì không thể nào có những
cuộc vận động chính trị thành công, đặc biệt là cuộc vận động chính trị để bảo
vệ chủ quyền đất nước vào năm 980. Hệ thống tư tưởng chính trị của Thiền sư
Pháp Thuận do thế phải nói là một cống hiến quý báu cho lịch sử chính trị và tư
tưởng của dân tộc không những vào thời điểm ấy, mà còn vào những thế kỷ sau, thậm
chí ngay cả hôm nay.
Đúng thế, đất nước nào có thể tồn
tại khi lòng dân ly tán và những người lãnh đạo lại thiếu tài, thiếu đức. Hai
tính chất này đối với sự tồn tại của một đất nước, một triều đại, không bao giờ
mất tính thời sự của nó. Trong lịch sử dân tộc, gặp những khi một sự việc như
thế xảy ra, không biết bao nhiêu xương máu đã đổ ra để tìm cho được manh mối,
nguyên do vì sao đất nước bị ngửa nghiêng, dân tình bị khốn khổ. Lời cảnh báo của
Thiền sư Pháp Thuận về độ dài ngắn của vận nước, do thế, đã trở thành một lời
huyền khải, một tuyên ngôn về tư tưởng dựng nước và giữ nước. Nó đã trở thành nền
móng cho công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền dân tộc.
Vào thế kỷ thứ mười, lịch sử tư
tưởng nước ta sau bao nhiêu năm thăng trầm đã hoàn tất được việc xây dựng một
lý luận chính quyền với bài thơ Vận Nước của Thiền sư Pháp Thuận. Chính quyền,
hay nói rõ hơn, quyền lực của một nước nhà độc lập, xuất phát từ đâu và làm sao
bảo vệ? Thiền sư Pháp Thuận trả lời rất rõ ràng là chính quyền xuất phát từ sự đoàn
kết của toàn dân xung quanh những vị lãnh đạo có tài có đức và được bảo vệ bởi
chính sự đoàn kết và lãnh đạo tài đức ấy. Với một quan điểm lý luận chính quyền
như thế, Thiền sư Pháp Thuận thực sự đã có một đóng góp hoàn toàn mới mẻ đối với
chủ nghĩa địa linh của Thiền sư Định Không và La Quý.
Thiền sư Định Không và La Quý
chỉ mới đặt ra yêu cầu làm chủ đất nước, vì đất nước có thể sản sinh ra những
anh tài để làm chủ nó. Tuy nhiên, làm chủ bằng cách nào thì Thiền sư Định Không
và La Quý chưa đề ra được những giải pháp thích hợp. Đây rõ ràng thời đại của
Thiền sư Định Không và La Quý chưa cho phép họ nhìn xa hơn. Họ thấy rất rõ đất
Cổ Pháp có thể sinh ra những người làm chủ đất nước. Nhưng những người này làm
chủ như thế nào, họ đã không bảo cho chúng ta biết. Thiền sư Pháp Thuận kế thừa
sự nghiệp của Thiền sư La Quý đã trả lời cho câu hỏi ấy một cách dứt khoát là
phải có sự đoàn kết của toàn dân và những người lãnh đạo có tài có đức.
Bài thơ Vận Nước của Thiền sư
Pháp Thuận từ đó, nếu kết hợp với bài thơ Thần Nước Nam Sông Núi, có một vị thế
hết sức quan trọng không chỉ trong lịch sử văn học mà cả trong lịch sử tư tưởng
chính trị và Phật giáo Việt Nam.
Nó đã thành công khi đề xuất được hệ thống tư tưởng chính trị hoàn chỉnh để định
hướng cho sự phát triển của một hệ thống chính quyền làm chủ đất nước vừa thỏa
mãn yêu cầu bảo vệ chủ quyền quốc gia vừa đáp ứng nguyện vọng của người dân. Từ
đó, nó giúp ta hiểu tổ tiên ta đã xây dựng chính quyền trên căn bản hệ thống tư
tưởng chính trị nào, nhất là khi ta quan niệm lịch sử như một vận động có ý thức
của con người.