99 năm đã qua đi, kể từ khi ngọn lửa của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
bùng cháy (30/8/1917 – 5/1/1918). Đây là lần đầu tiên, trong lịch sử cận
đại Việt Nam, một cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp đã chiếm được
tỉnh lỵ, không những làm vang dội cả nước Việt Nam mà còn làm rung động
nước Pháp và ảnh hưởng tới các xứ thuộc địa của Pháp.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)
Cuộc
bạo động ấy cùng tên tuổi của
hai nhà lãnh tụ Lương Ngọc Quyến, Đội Cấn sẽ mãi mãi là những nét vàng
son rực rỡ ghi trong trang sử hào hùng của đất Thái Nguyên, của lịch sử
dân tộc. Song có một điều ít ai biết được rằng, phía sau cái chết còn
nhiều bí ẩn của người anh hùng Lương Ngọc Quyến là cuộc hành trình tìm
kiếm hài cốt có lẽ là dài nhất, đằng đẵng nhất – 84 năm, của rất nhiều
thế hệ con cháu của cụ. Và đến tận những ngày này, khi chút ít hài cốt
của cụ Lương Ngọc Quyến đã được tìm thấy nhờ khả năng đặc biệt của nhà
ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và được an táng tại quê nhà (xã Nhị Khê,
huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây) thì di hài của người anh hùng Đội Cấn vẫn
còn chìm lấp đâu đó giữa bạt ngàn nương chè, cỏ dại.
Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
và
cái chết oanh liệt của người anh hùng Lương Ngọc Quyến
Cụ Lương Ngọc Quyến
Sinh ra trong thời buổi loạn lạc, đất
nước bị giặc ngoại xâm giày xéo, ngay từ thuở nhỏ, cậu bé Lương Ngọc
Quyến đã mang trong mình lòng yêu nước và mối căm thù giặc sâu sắc. Mặc
dầu được cha là cụ cử Lương Văn Can, người sáng lập ra Đông kinh nghĩa
thục, kèm cặp chữ thánh hiền song cậu bé Quyến vẫn chuộng võ hơn văn.
Năm 1900, đi thi hương không đậu, ông bèn rũ bỏ con đường khoa cử, dốc
hết tâm trí vào việc rèn luyện trí lực, những mong có thời cơ cứu nước.
Tháng 10 năm 1905, khi nhà yêu nước Phan Bội Châu phát động phong trào
Đông du, ngay lập tức, Lương Ngọc Quyến lên đường, trở thành một trong
bốn học sinh có mặt tại Nhật. Ngày ra đi, ông cúi đầu lạy từ cha mẹ, gạt
nước mắt phân ly, làm giấy cho phép người vợ hiền cải giá, để lại nhà
đứa con thơ dại, chỉ mang một số tiền vừa đủ đến Yokohama (Nhật Bản).
Cái nghĩa khí của một đấng nam nhi “ra đi đầu không ngoảnh lại” ấy đã
gây một niềm cảm kích mãnh liệt trong lòng lãnh tụ Phan Bội Châu. Trong
Ngục trung thư, cụ Phan đã dành những lời khen ngợi tốt đẹp nhất cho
Lương Ngọc Quyến: “Tôi xem ra người thật có khí phách hăng hái, đầu tóc
còn để bờm sờm. Dò hỏi mới biết Lương quân đã bỏ nhà trốn sang Nhật trơ
trọi một thân, lúc lên đến bến thì trong túi chỉ còn vẻn vẹn 3 xu. Thấy
thế tôi vừa mừng vừa chưng hửng. Vì bạn nhỏ tuổi nước ta, một thân một
bóng mà dám liều mạng xông pha sóng gió muôn trùng đến một nước mình
chưa quen biết bao giờ, Lương quân chính là người thứ nhất vậy. Té ra,
Lương quân vốn là một thanh niên chứa sẵn kỳ khí, có hoài bão cao xa,
chỉ nghe nói tôi đã sang Đông, cho nên mạnh bạo bỏ nhà ra đi, không kể
gì mọi nỗi gian nan nguy hiểm. Bạn thiếu niên anh tuấn nước ta, có mấy
người được như Lương quân?!”.
Tháng 5 năm 1906, Lương Ngọc Quyến được
Phan Bội Châu bố trí vào học quân sự tại Chấn Võ Học hiệu (Simbu Gakku),
một trường quân sự của chính phủ Nhật Bản đào tạo sĩ quan cho Trung
Quốc. Nhưng đến ngày 10 tháng 6 năm 1907, Pháp và Nhật bắt tay nhau, nên
ngày 8 tháng 3 năm 1909, Phan Bội Châu cùng toàn bộ du học sinh Việt
Nam bị chính phủ Nhật trục xuất. Cụ Phan cùng Lương Ngọc Quyến và một số
đồng chí phải sang Quảng Đông, nương náu ở nhà Chu Bá Linh, một nữ giáo
viên Trung Quốc có cảm tình với các nhà cách mạng Việt Nam.
Bấy giờ, phong trào cách mạng trong và
ngoài nước đều gặp nhiều khó khăn. Cụ Phan phải đi bán sách để sinh
nhai, tối về lại cùng Lương Ngọc Quyến uống rượu giải sầu. Muốn thoát
khỏi cảnh cùng quẫn, Lương Ngọc Quyến tìm đường về nước để vận động tài
chính. Cụ Lương Văn Can đã gom góp được 250 đồng để Quyến mang sang
Trung Quốc. Tháng 10 năm 1910, cụ Phan đã dùng số tiền ấy để đưa một số
đồng chí sang Xiêm cày cấy, chờ đợi thời cơ. Năm 1911, cha Lương Văn Can
lại đứng ra hỏi cưới và tổ chức cho Nguyễn Thị Hồng Đính, con gái thứ
hai của chí sĩ yêu nước Nguyễn Hữu Cương (làng Động Trung, huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình) sang Đông Hưng, Trung Quốc để thành hôn với Lương
Ngọc Quyến. Sau đó, với tư cách là một học viên đã tốt nghiệp Chấn Võ
Học hiệu, Lương Ngọc Quyến được vào học trường Quân nhu học hiệu ở Quảng
Đông và trường Sĩ quan học hiệu Bắc Kinh, rồi trở thành thiếu tá trong
quân đội cách mạng Trung Hoa. Đang tuổi thanh xuân, ý chí giết giặc cứu
nước luôn sôi sục nên ông lao vào học tập và thực hành sở học ngay trên
chiến địa Trung Hoa. Cụ Phan nhận xét: “Lúc ấy, học vấn khác, phần nhiều
Lương Ngọc Quyến đều không lưu ý, duy một khoa học quân sự chiến thuật
thì lại thiệt tâm nghiên cứu. Cái chí đoản đao thất mã (thanh gươm yên
ngựa) e không một phút nào quên”.
Tháng 6 năm 1912, nhân cách mạng Tân Hợi
(1911) thành công ở Trung Hoa, Phan Bội Châu đã thành lập Việt Nam
quang phục Hội, lấy chủ nghĩa dân chủ cùng mục tiêu “khu trục Pháp tặc,
khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt Nam cộng hoà dân quốc” làm tôn chỉ.
Lương Ngọc Quyến cùng Hoàng Trọng Mậu được cử làm uỷ viên quân vụ thuộc
Bộ chấp hành. Khi ấy, số hội viên tập hợp ở Quảng Đông lên đến cả trăm
người. Để có lương thực nuôi quân, đầu năm 1913, Lương Ngọc Quyến về
nước lần thứ 2. Tại nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Hữu Cương, Lương Ngọc
Quyến đã bàn với con cháu các chí sĩ tiến hành hai cuộc tập kích vào Ty
rượu Thanh Ba và Dinh tuần phủ Phú Thọ Chế Quang Ân. Rất tiếc, hai trận
đánh này đều thất bại, nhiều chiến sĩ cách mạng đã hy sinh anh dũng. Đến
tháng 4 năm 1913, Lương Ngọc Quyến lại đưa Phan Bội Châu đến tỉnh Hồ
Nam (Trung Quốc) gặp người bạn đồng học cũ là Trương Huy Toản, đang giữ
chức sư trưởng của quân đội Trung Hoa Dân quốc ở Hồ Nam để nhờ tài trợ.
Trương Huy Toản nhận lời giúp nhưng ngay sau đó, Trung Hoa rơi vào nội
chiến. “Hoạ vô đơn chí”, đang lúc gian nan thì ở trong nước lại xảy ra
hai vụ đánh bom ở Thái Bình và Hà Nội khiến cho mạng lưới của Việt Nam
quang phục hội bị càn quét tơi bời.
Giữa năm 1914, nhân cơ hội ở Châu Âu sắp
xảy ra đại chiến, Lương Ngọc Quyến lên đường vào Sài Gòn, tìm xuống
Long Xuyên gặp gỡ Dương Bá Trạc để trù tính việc đưa người sang Xiêm để
khẩn ruộng, luyện quân, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa. Biết
giặc Pháp sẽ tra xét kỹ ở biên giới Miên – Xiêm, Lương Ngọc Quyến thay
đổi lộ trình, đi Hương Cảng để từ đó vòng sang đất Xiêm. Nhưng tại Hương
Cảng, ông đã bị cảnh sát Anh phục bắt rồi giao cho nhà cầm quyền Pháp ở
Quảng Châu Loan. Khoảng tháng 3 năm 1915, ông bị giải về Hà Nội, ra toà
án binh Cao Bằng rồi lần lượt bị chuyển sang các nhà lao Hoả Lò (Hà
Nội), Nam Định, Sơn Tây, Phú Thọ và lại quay về Hoả Lò. Tại đây, địch đã
dùng những đòn tra tấn dã man nhất, cả những ngón nghề mua chuộc xảo
quyệt song vẫn không làm lung lạc được ý chí sắt đá, nghị lực phi thường
của người chiến sĩ cách mạng Lương Ngọc Quyến. Theo Việt Nam nghĩa sử
lược (1918) của Đặng Đoàn Bằng và Phan Thị Hán (tức Phan Bội Châu), thì
trong phiên toà xét sử Lương Ngọc Quyến tại Hà Nội, thực dân Pháp đã cho
vời mẹ của ông – bà Lê Thị Lễ đến chứng kiến, hòng lợi dụng tình mẫu tử
để lung lạc ý chí của ông. Nhìn thấy con mình bị gông xiềng tù tội,
lòng mẹ đau đớn như cắt từng khúc ruột nhưng ra trước toà, vừa ngó thấy
mặt con, cụ đã mắng: “Tao nuôi mày khôn lớn những mong báo đền nợ nước
thù nhà. Nhưng mày làm thế nào để bị giặc bắt đưa ra xét sử, thật đáng
xấu hổ”. Cụ bà cò cứng cỏi chất vấn quan toà: “Từ thuở còn là bào thai,
chúng tôi đã dạy con về tình yêu thương giống nòi, chủng tộc. Bởi vậy,
con tôi theo đuổi mục đích cứu nước là hợp với đạo lý của gia đình và
của đất nước chúng tôi, sao lại gọi là phản loạn?”. Nói đoạn, cụ quay
sang nói với con trai mình: “Mẹ chỉ mong con xứng đáng là công dân nước
Việt đến hơi thở cuối cùng”. Là một người mẹ hiền đức, cần kiệm, tảo tần
lúc thường ngày, nhưng chính trong thời khắc căng thẳng ấy, hốt nhiên,
cụ bà Lê Thị Lễ bộc lộ trọn vẹn khí phách của một người mẹ Việt Nam anh
hùng. Chính khí phách anh hùng của mẹ đã vun đắp thêm chí khí cho con.
Ngay trong địa ngục Hoả Lò, Lương Ngọc
Quyến còn tìm mọi cách tuyên truyền, giác ngộ lòng yêu nước, căm thù
giặc trong các bạn tù, kêu gọi họ nổi dậy chống thực dân. Biết không thể
khuất phục được Lương Ngọc Quyến, ngày 25 tháng 7 năm 1916, thực dân
Pháp bèn phạt ông án tù chung thân và đưa ông lên Thái Nguyên.
Tên Công sứ khét tiếng tàn ác Darles, để
diệt trừ mầm nguy hiểm Lương Ngọc Quyến, đã sai lính dùi bàn chân của
ông rồi tra xích sắt, làm cho ông bị liệt hẳn chân. Nhưng hắn không thể
ngờ, hành động tàn ác ấy chỉ càng làm bùng lên ngọn lửa căm thù trong
con người Lương Ngọc Quyến. Chính tại nhà tù của giặc Pháp, ông đã tìm
được người đồng chí mới là Đội Cấn (tên thật là Trịnh Văn Cấn), một viên
đội khố xanh yêu nước, đang phục vụ trong cơ binh Pháp ở Thái Nguyên.
Xuất thân từ tầng lớp nông dân, tuy đứng trong hàng ngũ của địch nhưng
Đội Cấn thấm thía vô cùng nỗi nhục mất nước và đau xót trước cảnh ngộ
của đồng bào khi hàng ngày, tận mắt chứng kiến những hành động tàn ác
của Darles với người bản xứ, với tù nhân, dân phu. Điều đó, đã hun đúc
trong ông ý chí giết giặc cứu nước. Sau một thời gian, ông đã bí mật kết
giao được với nhiều người có cùng chí hướng trong đơn vị. Lấy tư cách
là Uỷ viên quân vụ thuộc Bộ chấp hành của Việt Nam quang phục hội, Lương
Ngọc Quyến đã kết nạp Đội Cấn vào Hội.
Sau đó, một Ban chỉ huy khởi nghĩa đã
được thành lập gồm: Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến, Đội Giá, Đội Xuyên, Đội
Nam, Đội 935 và một người đội văn thư. Kế hoạch tấn công đã được vạch
ra: huy động lực lượng lính khố xanh ở trại tỉnh lỵ, các đồn lân cận
(175 lính), các tù chính trị và tù thường phạm giác ngộ đánh chiếm tỉnh
lỵ Thái Nguyên làm căn cứ. Khi cuộc bạo động nổ ra, sẽ có quân của Việt
Nam quang phục hội từ bên ngoài vào tiếp ứng. 22 h ngày 30 tháng 8 năm
1917, ban chỉ huy hạ lệnh khởi sự. Đội Trường dẫn quân đi diệt tên giám
binh Noel và các tên tay sai là Phó quản Lạp và Đội Hành. Đội Giá dẫn
quân phá đề lao, diệt tên giám ngục Lô-ép, giải phóng 203 tù nhân, trong
đó có Lương Ngọc Quyến. Tiếp đó, Đội Cấn tập hợp thành đội ngũ hùng
mạnh, lấy đại nghĩa “giết thù cứu nước” để hiểu dụ anh em. 131 lính khố
xanh đã đồng lòng hưởng ứng. Mọi người nhất trí bầu Đội Cấn làm Thái
Nguyên Quang phục Quân Đại đô đốc và cử Lương Ngọc Quyến làm quân sư.
Ngay đêm đó, nghĩa quân đã toả ra đánh chiếm các công sở như toà sứ, toà
án, nhà đoan, kho vũ khí, kho bạc, nhà dây thép và bao vây trại lính
Pháp. Khi phá kho vũ khí, nghĩa quân đã thu được 167 súng trường và
62.175 viên đạn.
Sáng ra, nghĩa quân trương trước cửa
thành lá quốc kỳ nền vàng năm sao đỏ do Việt Nam quang phục hội chế định
và quân kỳ nền đỏ năm sao trắng của Việt Nam Quang phục Quân cùng bức
trướng đề bốn chữ “Nam binh phục quốc”. Dùng loa tuyên bố Thái Nguyên
độc lập, đặt quốc hiệu là “Đại hùng đế quốc”. Trước đó, từ ngay nửa đêm,
nghĩa quân đã công bố bản “Tuyên ngôn thứ nhất” do ông Tú Nguyễn Gia
Cầu khởi thảo, Lương Ngọc Quyến chỉnh sửa. Bản tuyên ngôn kể rõ tội ác
của thực dân Pháp kể từ khi chúng xâm chiếm nước ta, nhấn mạnh dã tâm vơ
vét của cải, đưa dân ta đi làm bia đỡ đạn ở chiến trường Châu Âu. Phần
cuối, nhân danh Đại đô đốc Quang phục Quân Trịnh Văn Cấn, bản tuyên ngôn
kêu gọi nhân dân đứng lên khởi nghĩa, đồng tâm hiệp lực diệt trừ giặc
Pháp, dành độc lập cho tổ quốc.
Hưởng ứng lời kêu gọi, hơn 300 người dân
địa phương đã tình nguyện gia nhập nghĩa quân nâng tổng số quân lên đến
623 người với võ khí tương đối đầy đủ. Cân nhắc tương quan lực lượng
giữa ta và địch, Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn đã chọn phương án cố thủ
Thái Nguyên để chờ ngoại viện. Toàn thể nghĩa quân được tổ chức thành 8
đội, chia nhau đào công sự và ngăn giữ các hướng ra vào tỉnh lỵ. Lương
Ngọc Quyến chỉ huy tuyến phòng thủ bên ngoài. Đội Cấn lo giữ phía trong.
Hốt hoảng trước việc tỉnh lỵ Thái Nguyên
bị nghĩa quân chiếm đóng, ngày 31 tháng 8 năm 1917, thực dân Pháp cấp
tốc điều quân từ Hà Nội và Đáp Cầu lên giữ đồn Gia Sàng. Sáng 2 tháng 9,
bắt đầu mở cuộc tấn công với lực lượng hùng mạnh gồm 2.000 quân, có
pháo binh, tàu chiến yểm trợ. Nghĩa quân đã kháng cự rất quyết liệt,
tiêu diệt được 107 tên, sát thương 17 tên. Song trước kẻ địch mạnh gấp
bội, nghĩa quân cũng bị tiêu hao, chỉ còn 250 tay súng nên buộc phải rút
lui. Chính trong lần rút chạy ấy, Lương Ngọc Quyến đã anh dũng hy sinh.
Trưa ngày 5 tháng 9, Đội Cấn ra lệnh rút
quân khỏi tỉnh lỵ để toả ra các vùng rừng núi xung quanh. Bị giặc Pháp
truy đuổi ráo riết, nghĩa quân phải di chuyển suốt 4 tháng ròng từ Hùng
Sơn (huyện lỵ Đại Từ), Quán Chu đến Vĩnh Yên, Phúc Yên rồi quay lại Thái
Nguyên, đèo Nứa. Ngày 21 tháng 12, lực lượng của Đội Cấn tại căn cứ núi
Pháo chỉ còn 30 tay súng nhưng đã đánh bật nhiều đợt tấn công liên tiếp
của địch. Bị trọng thương và bị bao vây, vào lúc 21h ngày 5 tháng 1 năm
1918, Đội Cấn đã tự sát để khỏi sa vào tay giặc.
Tuy chỉ dành được độc lập vỏn vẹn có 7
ngày rồi bị địch dìm trong biển máu nhưng cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
vẫn là điểm son rực rỡ nhất của phong trào yêu nước theo đường lối bạo
động. Điểm son ấy đã kết thúc một cách oanh liệt phong trào yêu nước
trong hai thập niên đầu thế kỷ 20. Sau này, khi viết Phan Bội Châu niên
biểu, cụ Phan một lần nữa, lại dành những lời hay nhất để ca tụng Lương
Ngọc Quyến: “Việc Thái Nguyên Quang phục 7 ngày, ông thiệt là tướng tiên
phong cho quân cách mệnh. Thế mới biết, người ta chỉ sợ không chí khí,
không sợ không một ngày biểu hiện được. Xem ở ông Lương mà càng đáng tin
lắm”. Còn học giả Nguyễn Hiến Lê, cũng không tiếc lời ca ngợi khi viết
Đông kinh nghĩa thục: “Trong lịch sử cách mạng của dân tộc ta, hai cái
chết đó oanh liệt và cảm động bậc nhất”.
Tuy nhiên, cái chết của người anh hùng
Lương Ngọc Quyến, cho đến tận bây giờ, vẫn còn là một ẩn số đối với các
nhà nghiên cứu lịch sử. Đã có nhiều giả thiết về cái chết đầy bi tráng
này. Theo nhà nghiên cứu Đào Trinh Nhất thì “Đến trưa ngày 5 tháng 9,
tỉnh thành thập phần nguy cấp. Quang phục quân được lệnh bỏ tỉnh thành
lục tục ra đi. Đội Cấn đã xếp đặt võng cáng sẵn sàng để đưa Lương Ngọc
Quyến theo quân. Nhưng ông đã khảng khái từ chối, không muốn đi theo
quân để anh em chiến sĩ phải bận lòng vì mình, phải chậm trễ trên đường
bạt thiệp bôn ba, mỗi bước có giặc theo sau, mỗi bước phải quay lại cự
địch. Ông quyết định chết ở Thái Nguyên, lấy hồn tiễn đưa các chiến sĩ.
Sau mấy câu vắn tắt yên uỷ mọi người, ông nói với Đội Cấn, thành thực và
tự nhiên: Ông bắn hộ một phát vào giữa ngực cho tôi khỏi trông thấy
thực dân dày xéo lên lá cờ cách mạng. Bất đắc dĩ, Đội Cấn phải làm theo ý
muốn ấy. Sau đó, di hài Lương Ngọc Quyến được nghĩa quân đào hố chôn
lấp tử tế và san phẳng mặt đất rồi mới từ giã tỉnh thành kéo đi”. Nhưng
theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Kiệm thì “vào ngày 4 tháng 9, địch dồn
hết lực lượng tấn công. Lương Ngọc Quyến trong lúc chỉ huy chiến đấu bị
mảnh đại bác bắn vào đầu nên hy sinh ngay tại trận”. Chính cái chết đầy
bí ẩn ấy đã dẫn đến hành trình tìm mộ dài dằng dặc ngót một thế kỷ của
rất nhiều thế hệ con cháu người anh hùng Lương Ngọc Quyến sau này.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)