Trong suốt hành trình 15 năm phát tâm nguyện đi tìm những ngôi mộ bị
thất lạc giúp đời, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, bằng khả năng đặc
biệt, đã tìm được khoảng 7.000 hài cốt, trong đó phần lớn là hài cốt
liệt sĩ. Đó thực sự là một kỳ tích, đem lại niềm hạnh phúc nghẹn ngào
cho hàng vạn người sau nhiều năm đỏ mắt mỏi mòn ngóng trông. Với chị,
mỗi chuyến đi là một kỷ niệm. Mỗi cuộc tìm kiếm hài cốt là cả ngàn những
tình tiết ly kỳ, xúc động, huyền bí không thể nào quên. Nhưng, hành
trình đi tìm mộ người anh hùng nông dân Hoàng Công Chất đợt đầu năm 2005
có lẽ ám ảnh chị nhiều nhất. Đó không chỉ là sự ám ảnh bởi sự linh ứng
đến kỳ lạ giữa cõi vô hình và hữu hình, giữa cõi âm và dương mà đó còn
là sự chắp nối kỳ diệu của rất nhiều chi tộc dòng họ Hoàng sau hơn hai
trăm năm dâu bể.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)
Từ lời sấm truyền trong dòng
họ
Một buổi chiều đầu tháng giêng năm 2005,
có hai người khách lạ tìm đến nhà Phan Thị Bích Hằng. Người đàn ông mặc
bộ Veston chừng 45 tuổi, mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Người phụ nữ đi
cùng trạc 40, mặt trái xoan, dáng người thanh mảnh, quyền quý. Người đàn
ông tự giới thiệu, anh là Hoàng Văn Khánh, chủ tịch Hội đồng quản trị,
kiêm Tổng giám đốc công ty Placo và em gái Hoàng Thị Sáu, quê Hải Phòng.
Sau một chút bối rối, anh trình bày những uẩn khúc, trăn trở bao năm đè
nén trong lòng khiến tâm bất an. Anh kể: Từ hồi còn nhỏ, anh đã từng
nghe cha chú, trong nhịp dịp chén thù chén tạc, rung đùi vuốt râu tự hào
về dòng dõi, tổ tiên. Nghe đâu, cụ tổ anh là thủ lĩnh nghĩa quân chống
lại triều đình Lê – Trịnh. Năm 1770, linh cảm về một ngày đen tối đang
đến gần, cụ cho người đưa 3 cháu nội về tổng Cổ Trà Nghi Dương (nay là
thôn Ngọc Tỉnh, xã Tân Trào, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng) những mong bảo
tồn nòi dống. Có một câu sấm truyền từ đời nọ đến đời kia trong dòng họ
Hoàng: “Bao giờ phát phú phát vương. Tầm lại cố hương. Bái tạ tiên
đường. Nơi đó có chữ Hoàng gia đại tộc”. Sau này, trước lúc lâm chung,
cha anh, rồi người chú ruột, cứ níu chặt tay anh mà dặn dò: “Con gắng
tìm cội nguồn tiên tổ”. Lời trăn trối ấy cứ ám ảnh anh Khánh. Có uẩn
khúc gì trong lời nói, tự sâu thẳm ánh mắt của cha?
Anh Hoàng Văn Khánh đang thắp
hương trước tượng cụ Hoàng Công Chất
Khi trở thành một doanh nhân thành đạt ở
Hải Phòng, ngẫm về lời sấm truyền tụng bao đời: “Bao giờ phát phú phát
vương”, nhớ đến ánh mắt như van vỉ của cha trước lúc đi xa, anh Khánh
quyết chí đi tìm tổ tiên dòng họ. Anh đi khắp nơi, ở đâu có đền thờ họ
Hoàng là tìm đến nhưng mãi vẫn không thấy chữ “Hoàng gia đại tộc”, thấy
cội nguồn tổ tiên. Một lần về Nam Định công tác, gặp một nhà nghiên cứu
văn hóa lão thành, anh trải nỗi lòng mình. Nghe xong, nhà nghiên cứu
cười khà: “Có lẽ, cụ tổ họ Hoàng đã run rủi ta làm sứ giả cho anh đây.
Anh hãy về thôn Hoàng Xá, xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
xem. ở đó, có nhà thờ dòng họ Hoàng Văn to lắm”. Vâng lời, anh Khánh tìm
đường về Nguyên Xá, xin được vào thắp hương nhà thờ họ Hoàng. Anh chợt
run bắn người khi nhìn thấy bức hoành phi treo chính giữa ban thờ với
bốn chữ đại tự viết bằng chữ thảo: “Hoàng gia đại tộc”. Và oà khóc nức
nở khi lật giở cuốn gia phả đã ố màu thời gian, thấy ghi chi tộc họ
Hoàng Văn ở Hải Phòng. Té ra, cụ tổ của anh chính là người anh hùng nông
dân Hoàng Công Chất. Cụ sinh ra tại Thủ Trì, Sơn Nam, nay là Hoàng Xá,
Nguyên Xá, Vũ Thư, Thái Bình. Cụ là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa nông
dân nổ ra năm 1739 cùng hai cuộc khởi nghĩa lớn khác của cụ Nguyễn Hữu
Cầu (tức Quận He) và cụ Lê Duy Mật.
Nhưng mộ phần cụ Hoàng Công Chất ở đâu?
Các con cháu cụ lưu lạc nơi nào? Đã rất nhiều năm anh Khánh cất công đi
tìm kiếm di hài của cụ Hoàng Công Chất và mong muốn dựng lại hoàn chỉnh
sơ đồ phả tộc mà không thành. Tình cờ, một lần, anh được đọc một tập tài
liệu viết về hành trình đi tìm người em gái, vốn là một nữ du kích gan
dạ của đội Hoàng Ngân năm xưa, của nguyên Phó thủ tướng chính phủ Trần
Phương, dưới sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, đặc biệt là
khả năng gọi hồn của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng (Chuyện sẽ kể
chi tiết ở phần sau – PV) với rất nhiều tình tiết ly kỳ, huyền bí.
Điều đó, thôi thúc anh tìm gặp Bích Hằng, nhờ chị tìm hộ di hài tiên tổ
và các chi tộc bị thất lạc.
Ba ngày sau. Vào một đêm mưa dầm sùi
sụt, rét cắt da cắt thịt, vừa chợp mắt được một lát, Bích Hằng chợt nghe
thấy tiếng vó ngựa, tiếng gươm khua. Chaỵ ra sân mở. Chị giật mình khi
thấy trước mặt là một người đàn ông quắc thước, da nâu, trống gươm đứng
nhìn chị. Quan sát kỹ, thấy trang phục, tướng mạo đúng là một võ tướng.
Xung quanh, có rất nhiều binh lính. Võ tướng cười, bảo: “Cháu đừng sợ.
Ta là võ tướng họ Hoàng. Còn đây là quan quân của ta. Cháu đi về với ta
đi. Con cháu ta đang mong đợi cháu từng ngày”. Nói đoạn, ông lên ngựa
đi. Hình bóng khuất xa rồi mà tiếng cười hiền hậu còn vang mãi.
Bích Hằng choàng tỉnh. Chị sực nhớ đến
chiếc các-vi-dít mà hai người khách họ Hoàng ở Hải Phòng để lại chiều
hôm nọ. Đọc kỹ, thấy ghi: Hoàng Văn Khánh. Tổng giám đốc Công ty Placo.
Trụ sở: Km5, đường Phạm Văn Đồng, Anh Dũng, Kiến Thuỵ, Hải Phòng. Điện
thoại: 0913.24004. Bên tai chị lại văng vẳng lời nhờ cậy thiết tha của
vị võ tướng họ Hoàng. Sáng sớm hôm sau, chị chủ động điện thoại cho anh
Khánh, hẹn ngày 16 tháng giêng (âm lịch), chị sẽ xuống Hải Phòng tìm
giúp.
Đến những tín hiệu cho trước
Đúng hẹn, sáng ngày 16 tháng giêng, Bích
Hằng có mặt tại nhà thờ họ Hoàng ở xã Tân Thành, huyện Kiến Thuỵ, Hải
Phòng. Đi cùng chị hôm đó, còn có nhà nghiên cứu Quan Lệ Lan, thư ký của
Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người). Trước sự
chứng kiến, thành tâm của đông đảo con cháu họ Hoàng, Bích Hằng đã vời
vong linh của cụ Hoàng Công Chất về trò chuyện. Qua Bích Hằng, cụ bảo:
“Những người đi theo triều đình thì coi ta là giặc cỏ. Nhưng nhân dân
lại coi ta là anh hùng. Ta vẫn thích sống trong lòng dân hơn. Còn với
các con các cháu, ta là giặc cỏ hay anh hùng, điều đó ta không cần quan
tâm nữa. Chỉ biết rằng ta là cụ tổ của các con. Trước kia, ta đã cùng
các tù trưởng Lò Ngải, Lò Khanh, Lò Thang đánh giặc giữ biên thuỳ. Nay
ta đang ở đất châu Điện Biên. Đáng khen các con đã làm được những việc
khiến ta thấy được an ủi nơi chín suối, mát mặt với tướng sĩ ba quân”.
Anh Khánh chắp tay thành kính, giọng run run: “Thưa tổ! Xin tổ cho chúng
con biết, hiện giờ mộ tổ ở đâu”. Cụ Hoàng Công Chất nói (qua Bích
Hằng): “Các con cứ lên Thành Bản Phủ. Cứ nơi nào trồng cây đa là có
nghĩa quân của ta. Trước kia, nhà Lê Trịnh đã cho quân khai quật mộ ta
rồi chặt làm 3 khúc. (Chuyện này, chính sử cũng có nhắc đến).
Chân ta, chúng ném xuống sông Nậm Rốn. Đầu, thân thì vứt lăn lóc. Đêm,
nghĩa quân của ta lén đi lấy. Thân thì chôn ở gần sông Nậm Rốn nhưng
cách đây ít năm, người ta đã ủi đi rồi. Đầu thì vác về gần Thành Bản
Phủ, chôn dưới một gốc cây đa. ở đó có một cây thuốc. Khi các con đi tìm
ta, sẽ có một người răng vổ gốc Thái Bình ra dẫn đường”.
Đang “thông dịch” cho mọi người nghe,
bất chợt, Bích Hằng nhìn thấy một thiếu phụ trẻ người Thái, đứng cạnh cụ
Hoàng Công Chất bưng mặt khóc. Lấy làm lạ, Bích Hằng hỏi, cụ Chất bảo:
“Đây là liệt nữ Lò Thị Nương, con một vị tù trưởng ở Điện Biên”. Xưa,
nàng đi theo cha đánh giặc, cảm phục tài đức của tướng Hoàng Công Chất,
nàng tình nguyện làm vợ thứ 4. Sở dĩ cụ Chất gọi bà là liệt nữ vì bà đã
hy sinh cho nghĩa quân. Chuyện rằng: trong một lần bị giặc Phẻ truy
kích, bà cùng con trai là Hoàng Công Trực đã đánh lạc hướng cho nghĩa
quân rút lui. Bắt được hai mẹ con, giặc đã đem bà ra làm mồi nhử. Chúng
trói hai người vào chiệc cột gỗ chôn giữa đồng Tông Khao, xung quanh
chất củi cao ngập đầu. Nếu tướng Hoàng Công Chất muốn chuộc vợ, con thì
phải mở cổng thành. Bằng không, chúng sẽ thiêu cháy. Từ dưới đồng, bà Lò
Thị Nương thét to: “Không được mở cổng thành”. Lửa cháy ngùn ngụt. Hai
mẹ con bà bị thiêu chết. Xót thương người vợ hiền, cụ Chất cho trồng một
cây đa trên mộ nàng. Nơi đây bốn mùa hoa nở. Hoa vàng và hoa đỏ. Cụ
bảo: “Đó là những tín hiệu ta cho để các con đi tìm mộ. Khi đi, sẽ có
một phụ nữ dân tộc Thái dẫn đường”.
Đi tìm di hài tổ tiên: sự linh
ứng đến kỳ lạ
Một tháng sau ngày chiêu hồn cụ Hoàng
Công Chất tại nhà thờ họ Hoàng ở Hải Phòng, sáng ngày 29 tháng 3 năm
2005, khoảng 50 người, già trẻ, gái trai đủ các chi ngành cùng nhà ngoại
cảm Phan Thị Bích Hằng lên Điện Biên tìm mộ. Thành Bản Phủ là nơi đoàn
đặt chân đầu tiên. Những nghi lễ trang trọng nhất đã được cử hành tại
đây. Ông trưởng chi Hoàng Văn Nhương thành kính dâng sớ, cầu xin tổ tiên
linh hiển, báo cho con cháu biết nơi tổ yên nghỉ để con cháu được tu
sửa, thờ vọng. Lời khấn vừa dứt, sớ chưa kịp hoá bỗng một cơn gió lớn từ
đâu ào đến. Và những thanh âm nghe “lách cách, lách cách” như hàng ngàn
tiếng gươm khua khiến cả đoàn, đang thành kính chắp tay làm lễ đồng
loạt quay lưng lại phía sau. Lại một cơn cuồng phong cuốn bụi mịt mù.
Mọi người hốt hoảng chạy ra sân. Một cảnh tượng lạ lùng đập vào mắt
khiến khiến tất cả đứng chết lặng: nền sân gạch đỏ giờ ngập tràn lá
xanh. Có những chiếc lá còn non tơ. Tịnh không có một chiếc lá vàng nào.
(Giữa xuân, kiếm đâu ra lá vàng?!). Đó là lá của ba cây đa, si, xanh
quấn quýt trước đền trút xuống, tương truyền, do chính tay cụ Hoàng Công
Chất trồng, như một lời nguyền với non sông giữ tình đoàn kết giữa miền
xuôi và miền ngược, thề đòi lại và giữ yên biên cương đất nước. Cây đa
là cụ. Cây đề là trời đất. Còn cây si loà xoà gốc rễ là dân tộc Thái.
Qua Bích Hằng, cụ bảo, đấy là cụ khóc mừng khi thầy tề tựu đầy đủ con
cháu trai gái, dâu rể… lên với tổ. Cụ bảo: Cụ có 4 anh em là Hoàng Văn
Phiệt, Hoàng Văn Phí, Hoàng Công Chất và Hoàng Công Tại. Cụ có 3 vợ và
có nhiều con. Hoàng Công Toản là con cả. Kế tiếp là Chính, Châu, Thao,
Tần, Toản, Túc, Lựu (Trùng khớp với gia phả – PV). Năm 1768,
nghĩa quân của cụ bị quân của triều đình nhà Lê – Trịnh đánh tan tác.
Con cháu cụ phải chạy ra bản Loong Luống. Hiện vẫn còn ở đấy. Tiên lượng
về một ngày đen tối sẽ đến, để bảo tồn nòi giống, cụ cho người em gái
là Hoàng Thị Chiên dẫn 3 đứa cháu nội là Cao, Tháo, Thọ về quê, cầu cứu
nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu (tức Quận He). Trong 3 đứa cháu, Tháo là
người có chí nhất. Tháo lúc ấy còn bé lắm. Cụ trao cho Tháo một áo bào
tía, một thanh gươm rồi bảo: “Con hãy giữ làm vật tin để dâng lên tướng
Nguyễn Hữu Cầu”. Tháo cầm lấy thanh gươm từ tay ông nội. Thanh gươm cao
hơn đầu, ôm lấy túi áo bào, vừa khóc vừa nói: “Ông ơi! Cháu sẽ khôi phục
lại sự nghiệp của ông”. Nói đến đây, cả nhà anh Khánh khóc ầm lên. Cháu
Tháo bé bỏng mà đầy chí khí ngày ấy chính là hậu tổ của anh Khánh.
Trong gia phả ghi rõ: Cụ hậu tổ là Hoàng Quí Công, tự Công Tháo”. Anh
Khánh vừa khóc vừa kể: Lúc còn sống, cha anh lúc nào cũng giữ khư khư
một cái bọc, trong có chiếc áo bào tía và một thanh gươm. Một lần hoả
hoạn, chiếc áo bào cháy mất. Cha anh khóc ròng mấy tháng trời vì tiếc.
Đó là đồ gia bảo. Cha còn quý hơn cả tính mạng mình.
Sau một hồi làm con cháu trấn tĩnh, cụ
Chất bảo: “Thôi! Giờ để ta hướng dẫn các con đến những nơi tổ yên nghỉ”.
Cả đoàn bước ra khỏi đền. Từ trên cao phóng tầm mắt ra bốn hướng, anh
Khánh reo to: “Cây đa cổ thụ kia rồi”. Nhìn theo phía tay anh chỉ, cách
chỗ đứng chừng 500m, thấy một cây đa cổ thụ xoè bóng mát giữa trưa nắng
vàng.
Mộ cụ Hoàng Công Chất nằm
dưới gốc cây đa
Khánh phăm phăm dẫn đường. Bích Hằng vô
cùng ngạc nhiên. Thấy vậy, mọi người mới kể: Cách đây chừng 10 năm, anh
Khánh nằm mơ thấy tổ về chỉ đường cho tìm mộ. Tỉnh dậy, anh có kể lại
cho gia đình và vẽ lại sơ đồ. Không ngờ, hôm nay, thấy thực địa diễn ra
đúng như trong giấc mơ ấy nên anh mới thông thạo đến vậy. Lúc ấy, Bích
Hằng mới ngả ngửa người. Chưa hết ngạc nhiên. Khi cả đoàn đứng trước
đống mối lớn, dưới gốc đa cổ thụ chừng 200 năm tuổi, Bích Hằng vừa xác
định: “đúng mộ cụ đây rồi” thì bất ngờ, từ đâu xuất hiện một người đàn
ông răng vổ, bảo: “Đi tìm mộ cụ Hoàng Công Chất phải không? Tôi là
Nguyễn Văn Nhân, quê Thái Bình lên đây lập nghiệp lâu rồi. Trước đây,
tôi nghe các cụ già ở đây bảo: đây là nơi quân sĩ chôn một phần thi hài
của cụ Chất đấy”.
Người đàn ông răng vổ
Như vậy, tín hiệu mà Bích Hằng cho từ
Hải Phòng cách đây chừng một tháng: gốc đa cổ thụ, người đàn ông răng vổ
quê Thái Bình, đã có kiểm chứng. Nhưng còn tín hiệu thứ 3: cây thuốc?
Nhìn khắp lượt, chỉ thấy một cây hoa trắng, gốc cây bị vạc hết vỏ. Hỏi
ông Nhân, ông cười bảo: “Cây này chữa sâu răng tốt lắm. Tước một ít vỏ,
nhét vào chỗ sâu răng. Ngậm chừng 2-3 lần là khỏi”. Mọi người thở phào.
Cả đoàn lên bản Tông Khao tìm mộ cụ Lò
Thị Nương. Hoa tiêu là một chị người Thái ở Chi hội phụ nữ Điện Biên. Xe
ô tô chạy rì rì trên con đường đất đỏ, hai bên là ruộng lúa xanh rờn.
Đến gần một cái ao, bỗng anh Khánh hô: “Dừng xe lại! Cụ kia rồi”. Vừa
xuống xe, anh Khánh lao thẳng vào con đường bé xíu, ngoằn nghèo chuột
chạy. Chạy đến lúc bở hơi tai thì dừng lại dưới một gốc đa cổ thụ. Chưa
kịp định thần thì cả đoàn chết lặng: Trên thảm cỏ xanh rì, cả một bụi
hoa loa kèn đỏ rực còn long lanh hạt sương sớm. Bên cạnh có một cây si,
quả to như ngón chân cái, vàng rượi từ gốc đến ngọn.
Khóm hoa loa kèm đỏ trêm mộ
Bà Lò Thị Nương
Cả nhà đang thắp hương xì xụp khấn vái
thì có một người phụ nữ Thái đi làm đồng, bước lại hỏi: “Chúng mày vào
đây để làm gì? ở nơi này, ngày xưa có một cái miếu thờ, có 3 bát hương.
Song chỉ có họ Lò mới được vào đây cúng. Còn các họ khác chỉ đứng ngoài
xem thôi. Sau này giặc phá hết. Miếu này thiêng lắm đấy”. Nghe vậy, anh
Khánh lại khóc oà.
Người đàn bà Thái
Cuộc hội ngộ của các chi tộc họ
Hoàng
Tìm được mộ tiên tổ, ước nguyện của anh
Khánh đã hoàn thành được một nửa. Nhưng còn các chi tộc họ Hoàng khác?
Nhớ đến lời kể của cụ Chất về cuộc chạy loạn của dòng họ Hoàng lên bản
Loong Luống năm 1768, anh Khánh quyết định sáng hôm sau đi tìm. Hỏi thăm
dân bản, họ bảo: Có bản Loong Luống. Nhưng trước bị lũ lụt nên dân đi
hết rồi. Cứ tìm nhà nào họ Hoàng thì vào. Một gợi ý hay nhưng khác nào
mò kim đáy bể. Đành nhờ cậu bí thư đoàn xã dẫn đường. Vào nhà họ Hoàng
thứ nhất. Cả đoàn không có cảm giác gì. Hỏi quê, đúng Thái Bình. Hỏi ông
nội là ai? Không biết. Hỏi bố đẻ là ai? Cũng không biết nốt. Đến nhà họ
Hoàng thứ hai, ông Quàng Lả. Vừa thấy anh Khánh bước vào, hai vợ chồng
đon đả chạy ra, tay bắt mặt mừng như người thân lâu ngày gặp lại. Linh
cảm gì chăng? Ông Quàng Lả tự hào kể: “Các cụ ngày xưa khai thiên lập ấp
ở dưới Loong Luống kia kìa. Ông cha ở đấy lâu lắm rồi. Lũ lụt mới
chuyển lên đây”. Anh Khánh hỏi: “Sao ông lại là họ Quàng?”. Ông Lả lại
cười: “Tao họ Hoàng đấy. Nhưng tiếng Thái, lúc Quàng, lúc Hoàng. Mà này,
tao có một thằng cháu họ Hoàng, làm cán bộ tỉnh to lắm. Là cháu nhưng
nó hơn tuổi tao nhiều. Nó tên là Xuyên. Nó có cả gia phả đấy”.
Thì ra là ông Hoàng Xuyên, nguyên Phó bí
thư tỉnh uỷ Điện Biên. Tìm đến nhà ông Xuyên, anh Khánh xúc động quá.
Vốn hàng ngày là người hoạt ngôn mà nay, ngồi trước ông Xuyên cứ lúng
búng như gà mắc tóc. Bích Hằng phải trình bày dùm hoàn cảnh, mục đích
cuộc gặp gỡ. Hỏi về cuốn gia phả họ Hoàng, lúc đầu ông Xuyên lắc đầu
nguây nguẩy: “Tôi đâu có. Đâu biết”. Trong khi bà vợ ngồi cạnh lại cứ
tủm tỉm cười, huých nhẹ khuỷu tay vào chồng: “Kìa anh! Đưa cho các cô
chú xem đi. Cuốn gia phả dưới hầm ấy”. Đến nước này thì không thể chối
được nữa. Ông Xuyên thú nhận: Đúng là trước kia, nhà ông có một cuốn gia
phả viết bằng chữ Hán. Tổ tiên ông chính là tướng quân Hoàng Công Chất.
Đợt cải cách ruộng đất, sợ bị kết tội là con cháu Then, Phìa thì bị
giết cả nhà nên ông nội phải cất dấu dưới hầm. Hồi đi học Trung Quốc về,
ông đã đem đốt đi. Ông kể, ngày trước, ở Đền Bản Phủ, mỗi khi đến ngày
giỗ cụ Hoàng Công Chất, chỉ mình ông nội được ra lễ. Ông mặc áo vàng,
cưỡi ngựa, có lọng che đầu. Hàng chục người hầu đội lễ rất to. Bây giờ
Bảo tàng văn hoá còn lưu bức ảnh này. Nói đoạn, ông Xuyên và anh Khánh
ôm choàng lấy nhau, khóc nấc lên. Thôi, đúng chúng ta là anh em rồi. Về
tuổi tác, ông Xuyên gần gấp đôi tuổi anh Khánh. Nhưng về vai vế dòng họ,
cả hai đều là cháu đời thứ 8 của cụ Hoàng Công Chất.
Ngày giỗ của cụ Hoàng Công Chất năm nay,
chưa bao giờ con cháu lại tề tựu đông đủ đến thế. Chi tộc họ Hoàng ở
Điện Biên về. Chi tộc họ Hoàng ở Hải Phòng xuống. Cùng chi tộc họ Hoàng ở
Thái Bình. Tất cả, đều một lòng thành kính hướng về cội nguồn, tiên tổ.
Bữa cơm đoàn tụ hôm ấy, đầy ắp tiếng cười và cả những giọt nước mắt
hạnh phúc tuôn rơi…
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)