Để        trở thành một Phật tử, tất cả chúng ta đều        
phải phát nguyện thọ trì ba quy y và năm        giới cấm, học tập về 
nhân quả, luân hồi, mười nghiệp đạo v.v... và        v.v... Quy y Tam 
bảo và sự chấp thuận gia nhập       đoàn thể nào       đó, giữa giới 
luật và luật pháp thế        gian, giữa năm giới và mười nghiệp       
đạo, giữa định luật nhân quả và nghiệp        báo, khác nhau như thế nào
về nội dung, hình thức, sự vi phạm, sám hối,        kết quả là những 
điều mà chúng ta phảI        hiểu rõ.Nếu không hiểu rõ sự khác nhau đó, 
chính chúng ta sẽ không thấy được sự khác nhau giữa hạnh phúc 
tinh thần        của người Phật tử và hạnh phúc dung tục của người bên 
ngoài, không        thấy được mục đích tu học theo Phật giáo.
Có khi ta đã từng suy nghĩ hay nghe: "Đạo        nào cũng tốt, cũng 
dạy làm lành bỏ dữ". Nếu chỉ dừng ở chổ làm lành lánh        dữ thì chỉ 
cần luật pháp của quốc gia, chẳng cần sự có mặt của tôn giáo.        Nếu
chỉ cần làm điều thiện để được hưởng        khoái lạc ở cõi trời thì 
giáo pháp của        Đức Phật không xuất hiện ở đời. Đây là những       
điều mà người Phật tử chúng ta cần ghi        nhận.
Sống giữa thế giới này, có biết bao hiện tượng mà ta không thể giải  
đáp, biết bao sự lo sợ, đau khổ mà ta        không thể vượt qua, 
biết bao điều ta ưa        thích, hạnh phúc mà không thể giữ        
được. Để mưu cầu hạnh phúc bằng cách bảo vệ hay phát triển quyền lợi và 
địa vị của mình hay do những thế lực        khác bắt buộc, chúng 
ta gia nhập vào những đoàn        thể nào đó. Sự gia nhập những tôn giáo
khác,        cũng với mục đích như trên nhưng lại cầu mong sự che chở, 
hay chấp        nhận sự phán quyết của các thần linh, Thượng        đế 
theo tôn giáo ấy để an tâm lập mệnh.
Khác hẳn với hai trường hợp trên, người Phật tử tự nguyện quy y Tam bảo        với ý nghĩa:
Quy y Tam bảo là trở về (gacchati) nương tựa (Saranà) 
nơi ba ngôi báu        Phật, Pháp, Tăng. Lấy ba ngôi báu hay ba điều    
quý báu (Ratanataya) làm tôn chỉ, làm mục       đích, làm kim chỉ 
nam cho nếp sống        tinh thần của mình.
Mục đích tối hậu của con người là        hạnh phúc, nhưng hạnh phúc 
không thể có được        khi con người làm nô lệ cho vô minh, ái dục, 
vọng nghiệp. Muốn        thoát khỏi ba trói buộc đó, con người cần      
phải trở về sống sáng suốt, định tỉnh, trong lành, nghĩa là trở về    
nương tựa nơi Phật (sáng suốt), Pháp (định        tỉnh), Tăng (trong
lành), vì đó là        ba điều kiện quý báu và       đầy đủ hơn cả cho 
hạnh phúc đích thực của con        người. Đức Phật dạy trong kinh Pháp 
cú: "Ta là nơi nương nhờ của        ta, không ai khác là nơi nương nhờ 
của ta        được, khi ta đã thuần tịnh thì đó là        nơi nương nhờ 
hy hữu" (PC 160). Như vậy, Đức        Phật đã khẳng định quy y Tam bảo 
chính        là tự quy y vậy.
Quy y Phật có 2 phương diện:
- Quy y Bậc đã hoàn toàn giác ngộ        nghĩa là nhận Đức Phật là bậc Thầy        hướng đạo.
- Quy y đức tính giác ngộ nơi chính mình,        nghĩa là luôn sống 
sáng suốt, tỉnh thức trong hành       động, lời nói và ý nghĩ, không mê 
muội        buông lung theo vô minh, ái dục.
Quy y Pháp có 2 phương diện:
- Quy y giáo pháp đức Phật. Giáo pháp được        đức Phật khéo 
thuyết giảng. Pháp ấy có đặc tính: thiết thực hiện tại, vượt        
ngoài thời gian, hãy trở lại mà thấy, hướng thượng, bậc trí tự mình     
chứng ngộ.
- Quy y thực tại chân lý ở chính mình.
Quy y Tăng có 2 phương diện:
- Quy y chúng tăng là noi theo        gương các bậc có 4 đức tính 
thiện hạnh, trực        hạnh, ứng lý hạnh, chánh hạnh, đang hành trì 
theo chánh pháp.
- Quy y những đức tính trong lành        quý báu nơi chính mình như chúng tăng đã       đạt được.
Như vậy, quy y Tam bảo không phải là nương nhờ vào sự ban ơn giáng 
phúc        hay cứu rỗi của Phật, Pháp, Tăng. Quy        y Tam bảo không
phải là quy y với một vị thầy hay với một ngôi chùa nào        cả. Một 
vị thầy xứng đáng, một ngôi chùa        quy củ có thể sách tấn chúng ta 
luôn tự quy y Tam bảo. Một vị thầy có thể        sai, một ngôi chùa có 
thể sụp đổ, còn        quy y Tam bảo là sự hành trì từng giây từng phút 
không thể nào thiếu       được.
Chứng điệp quy y chỉ có giá trị tượng        trưng, không thể thay 
thế được chính tự quy y, không thể để thờ hay để đốt        theo khi 
chết hầu Diêm vương xá tội.
Không phải sau khi được làm lễ        truyền thọ quy giới là đã trở 
thành        người Phật tử, chỉ khi nào quy giới được hành        trì 
nghiêm chỉnh thì mới xứng đáng là        người Phật tử.
Quy y xong mà vẫn sống theo mê tín, tin theo tà giáo, sống buông 
lung,        phóng dật, thất niệm, hành động nói năng bất        chính 
thì gọi là mất Tam quy.
Nếu có chuyên cần thọ trì quy giới, nhưng có khi       được, khi mất 
thì gọi là Tam quy nhơ       đục, phải thường tự ăn năn sám hối, thọ trì
quy giới lại. Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, mỗi nửa 
tháng Phật tử        phải đến chùa       để sám hối, thọ trì quy giới 
lại và        nghe pháp để tự nhắc mình hành trì quy        giới nghiêm 
túc hơn. Nếu không có chùa thì tự sám hối và       đọc quy giới trước 
bàn thờ Phật trong        nhà. Người căn cơ cao có thể luôn tinh tấn,   
chánh niệm, tỉnh giác thì khi thất niệm, chỉ cần tỉnh thức trở lại 
là đầy đủ Tam quy.
Tóm lại, Tam quy là luôn luôn tự mình tinh tấn, chánh niệm, tỉnh 
giác,       để giữ thân khẩu ý của mình sáng suốt        (quy y Phật), 
định tỉnh (quy y Pháp),        trong lành (quy y Tăng).
Một người đã vững bước trong sáng        suốt, tỉnh giác, định tỉnh, 
chánh niệm và        trong lành tinh tấn, người ấy được gọi là        
"Tịnh tín bất động nơi Tam bảo",       đã thấy        đó là lẽ sống đích
thực của mình,       đã nhận ra nguồn chân hạnh phúc,       Đức Phật 
gọi đó là người       đã nhập dòng Thánh,       đã thấy rõ Tam bảo nơi 
chính mình.       Đó là ý nghĩa       đích thực của quy y. (lược trích 
Quy y Tam        bảo của Thầy Viên Minh)
*
Luật pháp thế gian được xây dựng theo luân        lý, đạo đức, truyền
thống, phong tục tập quán và quan       điểm chính trị của chính quyền 
đại diện cho        nhân dân ở đất nước đó. Hay nói cách khác, luật pháp
nhằm khống chế, quản        lý những đối tượng phản động, nguy hiểm, 
bất chính theo nhận thức, chủ        trương, khái niệm của nhân dân và 
chính quyền ở       địa phương đó. Luật pháp như vậy mang tính        
cách địa phương, chỉ có giá trị ở nước này, nhưng vô giá trị ở nước     
khác. Có khi, ngay trong một nước, tỉnh này, làng này, luật lệ cũng 
khác        với tỉnh khác, làng khác. Luât pháp được xây        dựng 
trên quyền của số đông, nhất là        số đông có quyền lực chi phối xã 
hội       đó. Do tiêu chí       đó, luật pháp có khi rất công bằng với 
số        người này, nhưng bất công với số người khác theo quan       
điểm xã hội. Mục       đích của Luật pháp là       đem lại sự cân bằng 
ổn định, đồng thời bảo vệ        đời sống hạnh phúc theo quan niệm của 
xã hội       đó. Nếu ai làm ngược lại vi phạm thì        có chiếc còng 
và nhà tù dành cho họ.
Khác với luật pháp thế gian, Giới luật của Phật giáo,       được xây 
dựng trên từ bi và trí tuệ        hiểu biết về nhân quả, nghiệp báo nên 
có cả quy       định xã hội nhưng chú trọng về mặt        Thánh đạo. Do 
đó, muốn hiểu giới luật của        Phật giáo thì phải biết rõ về định   
luật nhân quả, nghiệp báo.
Nhân quả và nghiệp báo khác nhau. Có khi có nhân quả mà không có 
nghiệp        báo. Định luật nhân quả là tất yếu,        không thể chấm 
dứt nó được nhưng nghiệp báo        thì ta có thể chấm dứt, giải thoát 
nó        được. Muốn hiểu rõ về nhân quả nghiệp báo, chúng ta cần phải 
biết        về những kiến thức giáo pháp cơ bản sau:
Những định luật của vũ trụ: có những định        luật, những quy luật
vận hành vũ trụ, chúng tương quan mật thiết        với nhau và chi phối
toàn bộ đời sống con        người cùng vạn hữu. Những định luật,       
quy luật này mâu thuẫn nhau, tương tác nhau       đã sinh ra vô vàn 
hiện tượng khác nhau        như hữu tình, vô tình, trời đất, vũ trụ v.v 
và        v.v...
Những quy luật ấy được Đức Phật giới thiệu        phổ quát bằng năm định luật (niyàma):
1. Thế giới vật lý vô cơ (utu-niyàma): quy luật vận hành trong thế 
giới        tự nhiên, tạo ra những hiện tượng nắng mưa, ngày       đêm, 
nóng lạnh, bốn mùa do ảnh hưởng        của mặt trời, mặt trăng, tinh tú 
đến sông        biển ao hồ, tác động đến con người, cây cối, vạn vật.
Trong định luật thuộc vật lý vô cơ này        cũng xảy ra theo tiến 
trình nhân quả nhưng không có nghiệp báo. Như do        hiện tượng 
Elhino mà bão lụt động đất, hạn        hán xảy ra khắp nơi. Nguyên nhân 
là do nạn phá rừng, khí thải công        nghiệp mà nhiệt độ trái đất 
tăng lên,        phá vỡ tầng ozon, môi trường sinh thái bị nhiễm       
độc... Gần hơn có những nhân quả rất        cụ thể như trời nóng thì đổ 
mồ hôi, lạnh thì        rét, mưa nhiều sinh lụt, không khí giãn nở tạo 
ra gió....
2. Thế giới sinh vật lý hữu cơ (bija-niyàma): quy luật tác       động
trong thế giới tế bào của những       động vật và thực vật, có cả con 
người.        Do những định luật này, các nhà khoa        học đã tìm ra 
luật bảo toàn giống        loại, DNA, di truyền, gène... kể cả những 
công nghệ sinh học. Do quy luật        này mà giống nào sinh giống ấy, 
hạt cam sinh cây cam, hạt lúa có từ cây        lúa. Gène di truyền trong
việc thụ thai 2 trẻ sinh       đôi giống nhau nhưng khác tính tình     
v.v...
Trong thế giới này, tiến trình nhân quả xảy ra rất       đa dạng và 
phức tạp. Nền công nghệ        sinh học muốn biến đổi gène       động 
vật, thực vật là dựa vào quy luật        này...do sự lai tạo, mướp đắng 
không đắng nữa        mà lớn như quả bầu,... các loại lúa chịu hạn, bắp 
cho nhiều hạt...        một loài người thông minh hơn... nhân quả này 
cũng máy móc, lạnh lùng        khách quan.
Cả hai loại định luật này tương        tác, ảnh hưởng qua lại nhau...
để xảy ra tiến        trình nhân quả khác. Ví dụ: chết vì rét, vì      
đói, vì bị nhiễm       độc, vì bội thực..thế giới vật lý tác       động
lên thế giới sinh lý (cơ thể) nên        xảy ra như vậy.
3. Pháp (Dhamma-niyama): quy luật chi phối vạn pháp như âm dương, ngũ
hành, luật hấp dẫn, ly tâm, điện từ, phản ứng        sinh lý 
hoá, luật bảo toàn năng lượng,        trường sinh học; kể cả những hiện 
tượng siêu hình như lúc Bồ-tát        giáng phàm, thành đạo, khi Đức 
Phật Niết bàn.
Lãnh vực này rất bao la, khoa học cũng chưa tìm kiếm ra hết, có chăng
chỉ mới là những bước khám phá ban        đầu. Định luật này xảy
ra trong tiến trình nhân quả trong pháp        giới... Luật này dễ kiểm
chứng như trong phản ứng hoá học. Cho chất này        vào thì nước sôi 
lên, nhưng là chất khác thì nước       đổi màu v.v... âm dương hút nhau,
dương dương hay âm âm thì đẩy nhau...        Nam châm hút sắt...
ngũ hành tương sinh, tương khắc...       đều là nhân quả. Tuy nhiên, 
trong pháp        giới còn có những định luật nhân quả rất        huyền 
nhiệm như khi Bồ tát đản sinh thì       địa cầu chuyển động... người bị 
thôi        miên, mộng du di chuyển trong thế giới 4 chiều...
4. Tâm (citta-niyama): định luật về tâm,        tâm lý như ý niệm, ý 
tưởng, tưởng tượng, hồi ức, trí nhớ, tư tưởng, trực        giác... Những
trạng thái tâm lý, những yếu tố nội tâm diễn tiến        theo trình tự 
nhân quả tương quan đưa đến        phán đoán, nhận thức, suy luận, chi 
phối sinh hoạt hữu thức hay vô        thức của con người đều thuộc lĩnh 
vực của        định luật này. Những hiện tượng thần giao cách cảm, biết 
quá khứ vị        lai, thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm ... đều        từ 
định luật này.
Nhân quả trong các định luật về nhân quả        cũng không phải là 
nghiệp báo. Khoa tâm lý học phương Tây có cả một        môn học chuyên 
sâu để nghiên cứu,       đào xới mảnh       đất bí hiểm này. Tất cả 
những cái gọi        là ký ức, phán đoán, tưởng tượng, tình        cảm, 
nhận thức... đều nằm trong quy luật nhân        quả. Chính giấc mộng, 
sinh hoạt vô thức, bệnh tâm thần, stress, họ cũng tìm        ra quy luật
và giải mã nó để tìm        phương pháp chữa trị... Những hiện tượng 
như thuật thôi miên, thần giao        cách cảm, truyền đạt tư tưởng, tìm
ra        mộ người thân, chữa bệnh bằng tư tưởng... đều        là nhân 
quả của tâm. Điều này,        các tôn giáo Đông phương đã thực       đi 
trước bằng các khả năng thiên nhĩ        thông, thiên nhãn, tha tâm 
thông... Có những ví dụ gần gủi và thực tế như:
- Khi tâm định thì phát sinh hỷ        lạc.
- Khi các tâm sở thiện có mặt thì thân tâm thư thái nhẹ nhàng, an        vui....
- Khi các tâm sở bất thiện có mặt thì thân tâm ta nặng nề, bất an, nóng        nảy, trì trệ, bộp chộp, bất an....
- Khi thấy người thân qua đời thì        buồn chảy nước mắt.
- Thấy rắn thì sợ.
- Trúng số thì vui.
- Bị phỉ báng, nhục mạ thì buồn khổ.
- Nếu thường làm các việc ác thì thường thấy cảnh chiến tranh hay 
mộng        dữ... Tâm và pháp tương tác nhau để sinh ra        các tâm 
lý chủ quan "người buồn cảnh có vui       đâu bao giờ".
5. Định luật về nghiệp (kamma-niyàma):       định luật về nghiệp báo,
nói đủ là        nhân quả nghiệp báo. Khi nói đến nghiệp báo        thì
phải có tác nhân của nghiệp và kết quả của nghiệp.
 Chính ở đây mới nói đến nghiệp báo, sự        chi phối của nghiệp 
báo và thoát khỏi nghiệp báo. Ta có thể dẫn        nhiều ví dụ:
- Ta làm một việc xấu ác bị người khinh ghét và bị tù tội....
Phân tích: làm việc xấu ác là nhân, bị người khinh ghét, bị tội tù là
quả. Do biết lẽ nhân quả nên ông A nhẫn chịu sự       đau khổ 
xảy ra mà tâm không hề oán        trách, than van sầu muộn hay sinh tâm 
ác, hay hận thù với ai.       Đây là trường hợp có nhân có quả nhưng    
không có nghiệp báo. Ông B thì trái lại, cho nên cái quả khinh ghét 
hoặc        tội tù ấy càng gia tăng, có thể dẫn đến những        hành 
động hoặc ý nghĩ sai lầm khác        nữa. Ông B bị nghiệp báo chi phối.
Qua ví dụ trên, ta biết rõ, quyết định về        nhân hay về quả của 
nghiệp báo chính là tâm niệm, ý tưởng, ý chí        (cetanà - tư tâm sở)
là tâm sở chủ động các        trạng thái tâm lý
Trong 5 định luật trên, 4       định luật đầu là       định luật tự 
nhiên, chúng xảy ra theo        tiến trình nhân quả nhưng không theo 
nghiệp báo.       Định luật thứ 5 này mới xảy ra theo        nhân quả 
nghiệp báo. Những hành động và        phản ứng tâm lý có ý thức, mang 
tính đạo đức,        luân lý (thiện, bất thiện, bất động) mới tạo ra báo
ứng của nghiệp. Đây là        những quyết định, những chủ đích, những 
hành       động có đầu tư ý chí của mỗi cá nhân. Tuy là        nghiệp 
riêng biệt (biệt nghiệp) của cá nhân nhưng nó có ảnh hưởng       đến 
toàn bộ xã hội và nhân loại (cộng        nghiệp).
Như vậy, chúng ta phải biết rõ đâu là        nhân quả khách quan, đâu
là nghiệp báo        chủ quan. Cả 4 định luật đầu đều xảy ra theo      
tiến trình nhân quả. Phạm vi của chúng rất rộng lớn. Nếu chúng ta     
không thấu triệt dễ sinh ra ngộ nhận, cái gì cũng       đổ thừa cho 
nghiệp thì oan cho ba       đời chư Phật.
Dù đức Phật có ra đời hay không thì        4 định luật trên       đều
chi phối vạn vật. Đức Phật không hề dạy        tu tập để chấm dứt các 
định luật ấy. Giáo pháp và giới luật do       Đức Phật dạy để giúp ta 
không tạo nghiệp ác và        giải thoát nghiệp báo ở định luật thứ năm.
Nhưng ta cần phải thấu rõ các định        luật ấy để không bị 
đau khổ, sợ hãi vì không hiểu biết chúng.
Nếu là nhân quả tự nhiên thì nó máy móc, khách quan, nhưng nhân quả  
nghiệp báo thì còn do tâm quyết định. Chính ở        nơi tâm mới 
nói đến tâm nhân và tâm quả. Còn có cả triệu       định luật khác không 
được gọi là nhân        mà chỉ là duyên, thuận hay nghịch tác động,     
ảnh hưởng lên nhân ấy. (lược trích Học Phật căn        bản II - chùa 
Huyền Không)
Nghiệp là gì?
Nghiệp là hành động bằng thân và        miệng do tác động của ý chí 
(cetanà).        Hành động với sự cố ý như thế là tạo        ra nghiệp, 
thành tựu nghiệp đạo và tất        nhiên sẽ đưa đến quả báo tương xứng. 
Đức Phật        dạy: "Này các tỳ kheo! Như lai nói Tư chính là Nghiệp" 
(Cetan 'aham        bhikkhave kammam vadàmi - Anguttara Nìkàya). Tư chỉ 
cho ý chí của các hành       động thiện ác thuộc dục giới và tâm        
bất động của sắc và vô sắc giới.
Khi ý chí đã       đạt được mục đích mà nó mong muốn thì        
nghiệp đạo căn bản được thành tựu.        Nghiệp đạo là con       đường 
đưa nghiệp nhân đến nghiệp quả. Quá trình        thành tựu nghiệp đạo dù
thuộc thân hay        ngữ cũng phải đi qua 3 giai đoạn. Một là        
gia hành của nghiệp đạo là giai       đoạn chuẩn bị cho hành       động.
Hai là căn        bản nghiệp đạo lúc hành vi đạt được        mục đích 
mong muốn. Ba là hậu khởi của nghiệp       đạo, sự tiếp diễn của hành   
động sau khi căn bản nghiệp đạo đã        thành tựu. (tham khảo Yết 
ma yếu chỉ - trích Câu xá - của HT Trí Thủ)
Nghiệp đạo có nhiều loại nhưng được biểu        hiện bằng ba loại là 
nghiệp thân, miệng và ý. Về mặt tính chất thì        chia làm 3 là thiện
nghiệp, ác nghiệp và nghiệp bất       động (thiền định).
Nghiệp ác (akusala kamma) có mười:
Về thân có 3 là sát sinh, trộm cắp, tà dâm.
Về miệng có 4 là nói dối, nói chia rẽ, nói thô ác, nói phù phiếm nhảm        nhí.
Về ý có 3 là tham, sân, si.
Nghiệp thiện (Kusala kamma) có mười; ngược lại mười nghiệp ác trên.
Nghiệp bất động (ànanja kamma) là        các tầng định thuộc sắc và vô sắc giới        do Tư tâm sở làm phát sinh các thiền chỉ.
Như vậy, ở dục giới, hành động thân, miệng        và ý của chúng ta 
thường xuyên tương ứng với mười nghiệp ác do vô        minh và ái dục 
làm nhân duyên. Khi nào chúng ta còn vô minh, ái dục thì        vẫn còn 
hành động theo mười nghiệp ác. Do đó,        tuy chúng ta có đặt ra luật
pháp, đạo đức, luân lý để ngăn chận các nghiệp        ác nhưng chúng 
vẫn bị hạn chế bởi không gian và thời gian, bởi        những tiêu chuẩn 
thiện ác, đúng sai, tốt xấu        dựa trên khái niệm chủ quan mà đặt 
ra,        như đã nêu ở trên.
Khác nhau giữa nghiệp đạo và giới        luật:
Một người hành động theo mười nghiệp ác,        xét ra họ không thể 
sám hối mà hết. Họ cũng không bị Thượng       đế nào trừng phạt cả mà 
chính luật        nhân quả với sự tác động của nghiệp đạo làm        cho
họ phải chịu quả báo tương xứng với nghiệp mà họ       đã làm. Như thế,
muôn tiêu diệt hay vô        hiệu hoá nghiệp đạo đã làm thì phải       
bằng cách làm nhiều thiện nghiệp để hóa giải.        Ví dụ ta nấu một 
nồi canh lỡ cho muối nhiều, bị mặn, thì phải xử lý        bằng cách cho 
thêm nước, bột ngọt, đường vào        thì vị mặn sẽ giảm đi và có thể   
ăn được. Nếu cũng lượng muối ấy, nếu cho vào        một khối nước 
thì sẽ bị tiêu mất.
Để ngăn chận các hành vi của thân, miệng, ý không tạo các nghiệp     
đạo ác, người Phật tử phải thọ giới. Khi đã        thọ giới, chúng ta 
nhờ năng lực hộ trì,        ngăn chận của giới làm cho chúng ta        
không làm các nghiệp ác.
Giới luật là gì? Giới luật (sìla, vinaya) có nghĩa là hộ trì, bảo vệ,
là những điều cần phải học (sikkhà        pada - học xứ - như 
học xứ không sát sinh) bằng tự nguyện. Giới không hề        có ý nghĩa 
bị bắt buộc phải thọ, phải giữ như luật pháp hay nội quy. Ngoài        ý
nghĩa xã hội, giới chú trọng đến mặt Thánh        đạo nên còn gọi là 
luật nghi (Samvara). Khác với luật pháp bị hạn        chế bởi không 
gian, thời gian, đối tượng,        trường hợp, luật nghi bao trùm cả năm
chi phần: đối với bất cứ hữu tình (động        vật); đối với bất
cứ thời gian nào;        đối với bất cứ nơi đâu; đối với bất cứ trường 
hợp nào;       đối với bất cứ phương tiện nào       để làm ác (xem Câu 
xá 15 -       Đại chính 29, tr 78b). Chính luật nghi là        cơ sở 
phòng hộ người có thọ giới được sống an        ổn và đi vững vàng trong 
Thánh       đạo, nền tảng cho chánh niêm, tỉnh        giác để đi vào    
định và tuệ tiến       đến giác ngộ giải thoát.Giới luật còn        
có chức năng rất quan trọng là bảo trì        sự tồn tại của Phật pháp. 
Giới luật là nền tảng của Phật pháp (Vinayo        sàsana mùlam - Tỳ ni 
giả, Phật pháp chi thọ mạng)
Có thọ giới, tất nhiên có lúc phạm giới. Phạm giới là gây tội. Tội 
với        ai? Trước tiên là với chính ta vì ta đã        vi phạm vào 
những điều mà chính ta        nguyện giữ. Thứ nữa, ta có tội với Tam 
bảo, với giới sư, người mà ta xin        giới và hứa sẽ giữ giới. Như 
vậy, khi phạm giới, chúng ta có thể sám hối        và xin giới để thanh 
tịnh trở lại.
Một người không phải là Phật tử, không thọ giới, khi sát sinh, họ    
đã tạo một nghiệp       đạo ác và sẽ chịu quả báo tương xứng.
Một người Phật tử khi sát sinh, vừa tạo một nghiệp       đạo ác, vừa phạm giới sát sinh.
Nhìn qua, người Phât tử bị thiệt thòi, vậy thọ giới       để làm gì?
Nhưng như đã nói ở trên, phạm giới        thì sám hối được và khi sám
hối       đúng pháp thì giới sẽ phục hồi.       Đồng thời, người Phật 
tử nhờ năng lực hộ trì        của giới nên không hành động các nghiệp 
ác, dù        có muốn làm, đồng thời nhờ giới hộ trì        nên dễ dàng 
thực hành các phúc nghiệp (Punna) như bố thí, hành thiền, phục        vụ
v.v... để hoá giải các nghiệp đạo ác đã        có.
Một người không thọ giới, họ chỉ không làm        điều ác khi bị luật
pháp ngăn cấm trong không gian hay thời gian nào       đó. Nhưng khi có
cơ hội thuân tiện thì        họ vẫn làm. Không có năng lực của giới hộ 
trì        nên họ sẵn sàng hành động theo tiếng gọi của        vô minh 
và ái dục. Và như thế, họ sẽ nhận lấy những quả báo của        nghiệp đã
làm,       đồng thời tiếp tục tạo thêm các nghiệp       đạo ác khác. 
Luật pháp được xây dựng trên        quyền lợi của số đông hay quyền lực 
nên        người ta chỉ tuân thủ do tác động ngăn chận bên        ngoài.
Giới luật của Phật giáo được xây dựng        trên từ bi, luôn đặt mình 
vào        vị trí của người để giúp đỡ người, không làm       điều ác có
hại cho người; bằng trí tuệ là        hiểu rõ nhân quả, nghiệp báo nên 
không làm        điều ác chứ không cần đến sự khống chế từ bên ngoài.
Là Phật tử, chúng ta phải nhận định        đúng về tam quy, giới 
luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của        nghiệp, để hiểu 
rõ sự khác nhau giữa vị trí và giá trị, mục       đích của giáo pháp do 
đức Phật dạy và        những quy định về luật pháp của xã hội        hay
những điều cấm, điều răn của các tôn giáo        khác.Khi đã hiểu đúng 
giáo pháp bằng        trí tuệ, chúng ta mới có chánh kiến và mới       
đi đúng trên chánh       đạo để có đời sống an lạc trong hiện tại và    
tương lai mà không bị lệ thuộc hay mâu thuẫn với những sinh hoạt của
chính        ta giữa xã hội. 
Vĩnh Nghiêm, mùa hạ 2548 - 2004
 Tâm Hạnh