Trong cuộc sống xã hội đầy bất
trắc, và đặc biệt là trong thời gian chiến tranh có rất nhiều chuyện xảy ra, có
thật không hư cấu, khiến người ta tin là có số mệnh. "Nhanh cũng chết,
chậm cũng chết, may thì sống", đó là câu thường được nói tới trong suốt
thời gian binh lửa, khi giữa cái chết và cái sống, khoảng cách chỉ là một tích
tắc đồng hồ hay là một sợi gang sợi tóc. Trong một bối cảnh xã hội và đất nước
đầy bất trắc, dầu sôi lửa bỏng đến như vậy, số người tin vào chuyện tướng số,
bói toán, cầu đảo phải rất nhiều, và ngày càng nhiều.
Vậy có cơ sở đạo lý gì
cho tất cả những chuyện này hay không?
Con người là sinh vật có lý
trí, đối với những tai họa lớn giáng vaò một đất nước, một vùng, một dân tộc,
hay một cá nhân, nhấât là những trường hợp đột tử xảy ra cho một người hay một
số người… con người không thể tin đó là ngẫu nhiên mà tin là có sự tác động của
những nguyên nhân sâu xa, có thể là siêu nhiên, mà trình độ hiểu biết hiện nay
của con người không giải thích được.
Tôi có người bạn cũ là anh Vũ
Thơ, một lần, anh tâm sự: Có chuyện xảy ra ngay trong tỉnh mà tôi phụ trách,
khiến tôi nghi rằng có một cái gì đó không phải là vật chất đứng đằng sau những
chuyện đó. Chuyện như sau:
"Tại một xã gần Quốc lộ số
1 nối liền Hà Nội với tỉnh lỵ Ninh Bình, có một cô gái xưa nay vẫn lười biếng,
không hay đi làm. Thế mà một hôm, mặc dù trời mưa lớt phớt, cô lại ra đồng làm
cỏ sớm hơn mọi người. Một chiếc ô tô con chạy nhanh trên đường quốc lộ, không
hiểu sao trượt bánh, băng ngang qua đường rơi vào đúng chỗ cô gái đang làm cỏ,
nhận cô ta xuống bùn chết liền. Tôi đích thân đến xem nơi xảy ra tai nạn. Từ
chỗ cô gái làm cỏ đến vệ đường cũng phải đo được gần chục thước, chiếc ô tô
phải chạy nhanh lắm mới có thể băng qua gần 10 mét được. Tại sao lại xảy ra
chuyện như vậy nhỉ, một cô gái hằng ngày vẫn lười không đi làm, tại sao đúng
hôm nay lại đi làm trước mọi người ngay trong khi trời đang mưa lớt phớt…"
Còn bao nhiêu chuyện nữa, cũng
vô lý tương tự như chuyện cô gái làm cỏ, xảy ra trong và sau thời gian chién
tranh của thập niên 60 và 70, làm mọi người dù là duy vật cũng phải tin vào số
phận hay số mệnh.
Cơ quan thủy sản của Hải Phòng
trước đây là một ngôi nhà bốn tầng, tôi đã từng đến thăm trong thời gian có
chiến dịch máy bay Mỹ dội bom miền Bắc. Một quả bom xuyên đã rơi trúng cơ quan
thủy sản, vì là quả bom xuyên, nên nó xuống tận hầm mới nổ, khiến cho những
người nào nhanh chân chạy xuống hầm trước thì đều chết. Trái lại những người
còn chậm chân ở tầng ba, tầng hai thì lại không can gì, mặc dù ai cũng đều hú
vía.
Tôi có một anh bạn tên Sự,
nguyên là Vụ trưởng Vụ Tài vụ của Bộ Công nghiệp nặng, khi Bộ này chưa tách
thành nhiều Bộ anh có một cái hầm bê tông ở gần nhà, có thể nói là an toàn 100%
để tránh máy bay. Không may cho anh bạn tôi là hôm ấy anh có xuống hầm khi máy
bay đến, nhưng lại ngồi ở cửa không chịu vào sâu bên trong hầm như vợ và các
con của anh. Máy bay Mỹ thả một quả bom tạ vào nhà máy điện Yên Phụ nhưng không
trúng, bom nổ gây một chấn động dữ dội, anh Sự ngồi ở cửa hầm đầu đập vào thành
bê tông, bị vỡ sọ chết ngay tức khắc. Anh đã chết ở nơi an toàn nhất, làm sao
hiểu được?
Vì vậy mà ở miền Bắc, trong
thời kỳ máy bay Mỹ ném bom dữ dội đã lưu hành câu nói ở cửa miệng nhiều người:
"Nhanh cũng chết, chậm cũng chết, chỉ có may thì sống".
Cái may đó phải chăng là số
mệnh hay số phận? Các triết gia các tôn giáo cổ kim nhận thức vấn đề số mệnh và
số phận như thế nào?
1. Các thuyết túc mệnh luận,
định mệnh luận, thiên mệnh luận:
Nói chung, tất cả mọi thuyết
dẫn tới thái độ yên phận và tiêu cực của con người đều thiếu giá trị nhân bản,
dù chúng mang bất cứ nhãn hiệu nào.
Túc mệnh luận là
thuyết cho rằng số phận con người là do quá khứ an bài, xếp đặt tất cả, mọi cố
gắng hay nỗ lực của con người đều vô ích, như dân gian từng nói:
Con vua
rồi lại làm vua,
Con sãi
ở chùa lại quét lá đa…
Những người ở Trung Quốc xưa hay nói câu:
"Nhất ẩm nhất trác, mặc phi tiền định", nghĩa là ăn một miếng, uống
một chén, không gì là không do quá khứ quyết định trước. Có thể nói, đó là
những người theo túc mệnh luận cực đoan.
Định mệnh luận cũng
là túc mệnh luận, nhưng cường điệu tính chất bất khả kháng của số mệnh. Ý nói,
số mệnh là quyết định, mọi cố gắng của con người đều vô ích.
Thiên mệnh luận có
nhiều nghĩa, không phải nghĩa nào cũng sai. Nếu hiểu thiên mệnh là thiên đạo,
tức là đạo Trời, là luật tắc tự nhiên, áp dụng vào thế giới của nhân sinh thì
không có gì sai. Phải chăng, đó là ý tứ của Khổng tử trong Luận ngữ:
"Ngô… ngũ thập nhi tri thiên mệnh" – "Ta… năm mươi tuổi thì biết
mệnh Trời". Nếu hiểu mệnh Trời là số mệnh mà ông Trời quy định cho mình
thì đó là số mệnh luận, hay đúng hơn là thiên mệnh luận, và tất nhiên là Phật
giáo sẽ bác bỏ thuyết đó. Nhưng Tống Nho Chu Hy lại giải thiên mệnh như là
"nguyên lý vận hành và biến hóa của tự nhiên", thì đây không phải là
số mệnh luận. Nhưng vấn đề còn tùy thuộc ở phái Tống Nho hiểu luật tắc tự nhiên
như thế nào.
Ở chương XVI cuốn "Đạo
đức kinh", Lão Tử cũng nói "Phục mệnh", nhưng trong văn cảnh
của chương này, thì mệnh ở đây rõ ràng chỉ có nghĩa là đạo, chứ không phải là
số mệnh.
"Phù vật vân vân, các phục
kỳ căn, quy căn viết tĩnh, thị vị phục mệnh" – "Muôn vật phồn thịnh,
mỗi vật đều trở về cội gốc của mình, trở về cội gốc thì gọi là tĩnh, tức là trở
về với mệnh".
Rõ ràng, Lão Tử dùng từ mệnh ở
đây không phải với nghĩa số mệnh, mà với nghĩa đạo,tức là cội nguồn của trời
đất, muôn vật.
Trong Thần hệ của Hy Lạp
cổ đại có thần số mệnh gọi là Fate, mà cả đến Zeus, vị thần tối cao đứng đầu
các vị thần, cũng phải e dè, nể sợ. Như vậy người Hy Lạp cổ đại tin rằng tất cả
các vị thần, kể cả Zeus cũng phải phục tùng số mệnh.
Niềm tin ở số mệnh phổ biến như
vậy, lan tràn như vậy, từ xưa tới nay, từ Tây sang Đông, thì phải chăng niềm
tin đó có đạo lý của nó, cơ sở khoa học khách quan của nó?
Người Pháp có câu:
"L’homme propose, Dieu dispose" (Người kiến nghị nhưng Thượng đế bác
đi).
Đây cũng là một biểu hiện rõ
nét của thuyết mà Phật giáo thường gọi là Thần ý luận, khẳng định mọi sự việc
diễn biến trong thế gian này đều do ý muốn của Thượng đế, và ý muốn đó là siêu
việt, vượt trên tầm hiểu biết của con người, cho nên con người chỉ nên phục
tùng, không những không được chống đối mà còn phải cảm tạ và tri ân Thượng đế.
Thiên mệnh luận cũng là số
mệnh, nhưng số mệnh được nhân cách hóa thành Thượng đế hay là số mệnh do một
nhân cách siêu nhiên an bài, xếp đặt. Cái nguy của thuyết này là một mặt khiến
cho con người ta an phận thủ thường, mất hết ý chí phấn đấu, mặt khác lại khiến
cho con người trốn tránh trách nhiệm của mình, thậm chí mình giết người, đoạt
của, nhưng lại tự an ủi: đó là do Thượng đế muốn như vậy, đó là ý chí huyền
nhiệm của Thượng đế.
Phật giáo tôn trọng tất cả các
tôn giáo bạn, kể cả những tôn giáo công nhận có Thượng đế tạo thế. Đó là đường
lối thủy chung như nhất của Phật giáo từ xưa đến nay, ở nước ta cũng như ở các
nước Phật giáo khác. Tính bao dung về mặt tư tưởng vốn là một đặc tính của Phật
giáo mà các nhà tôn giáo học trên thế giới đều công nhận, nhưng điều này không
có nghĩa là Phật giáo chấp nhận, không phản đối một số quan điểm của những tôn
giáo đó về vũ trụ và nhân sinh.
II. Một số tôn giáo và vấn đề
số phận, hay số mệnh:
Tôn giáo Hy Lạp cổ đại:
Trong tư tưởng của Hy Lạp cổ
đại, vấn đề số phận (fate) chiếm vị trí quan trọng và được biểu trưng bằng ba
nữ thần ngồi dưới một gốc cây ở trung tâm trái đất và quyết định số phận của
mỗi người. Vị nữ thần thứ nhất có tên Clotho, làm nhiệm vụ kéo sợi đan thành số
phận cho mỗi người. Vị nữ thần thứ hai có tên là Lachesie làm nhiệm vụ phân
phối số phận cho mỗi người. Vị nữ thần thứ ba có tên là Atropos, làm nhiệm vụ
cắt đứt số phận của mỗi người, tức là quyết định người nào phải chết và chết
lúc nào.
Tư tưởng số phận đóng vai trò
quan trọng trong nghệ thuật kịch Hy Lạp cổ đại. Trong các bi kịch của Sophocle,
thầy bói (Oracle) làm chức năng thông tin cho con người biết số phận của mình,
như là một cái gì đã được quyết định trước rồi. Đặc biệt là hoàn cảnh chết của
mỗi người là do số phận đã được quyết định như nội dung vở kịch Oedipe cho
thấy.
Trên đây đã nói về tư tưởng số
phận hay số mệnh trong tư tường Hy Lạp cổ đại, như trong các tác phẩm của Homer
cho thấy, qua ba nữ thần số mệnh nói trên đây, tuy Homer thường dùng từ số phận
hay số mệnh theo số ít, nhằm biểu trưng cho một sức mạnh siêu nhiên, siêu việt
lên trên ý chí con người.
2. An Độ giáo và vấn đề
số mệnh:
An Độ giáo như là tôn giáo
thường nói tới một số thần linh như Vishnu, Siva, Kali có khả năng quyết định
số phận của mỗi cá nhân tín đồ, thậm chí đôi khi ngược lại với hướng của nghiệp
do cá nhân đó tạo ra.
Nhưng Ấn Độ giáo còn nói tới
hai yếu tố khác, cũng quyết định đời sống của con người là nghiệp (Karma) và
thời. Yếu tố nghiệp cũng tương tự như khái niệm nghiệp của đạo Phật, nhưng
không triệt để và nhất quán bằng đạo Phật. Vấn đề này sẽ được bàn kỹ trong phần
"đạo Phật thay thuyết số mệnh bằng thuyết nghiệp".
Còn yếu tố thời của An Độ giáo
cũng tương đương như yếu tố thời trong Dịch học của Trung Quốc vậy.
Nói chung, trong văn chương của
An Độ giáo, cả ba yếu tố thần linh, nghiệp (Karma) và thời đều được nhắc tới.
Thí dụ, trong cuốn thánh ca nổi tiếng "Bhagavad Gita", khi
hoàng tử Arjuna do dự không muốn xung trận vì kẻ thù không ai khác mà chính đều
là bà con, họ hàng thân thưộc, thì thần Krishna đóng vai trò người lái binh xa
cho Arjuna, đã hiện nguyên hình và giảng giải cho Arjuna là phải xung trận, vì
số phận của kẻ thù là bị tiêu diệt. Nội dung của tập thánh ca "Bhagavad
Gita" cho thấy, chi phối sự diễn biến của tình hình là ý chí của thần
Vishnu cộng với sức mạnh của nghiệp (karma).
Nói chung, phần lớn những người
theo Ấn Độ giáo đều tin những sự kiện chủ yếu của cuộc đời, như thân phận tái
sanh, sức khỏe nói chung, người vợ tương lai hay chồng tương lai, số con và
giới tính của con, thời điểm chết đều là những sự kiện được xác định trước bởi
nghiệp (karma), hình thành từ trong đời sống quá khứ.
Một số tín đồ Ấn Độ giáo tin
rằng, sự cố hay là tác động của một thần linh, có thể đem lại cái chết đột tử
cho một người nhất định, và trái lại, việc xuất gia, sống lánh ở một thánh địa
rất có thể thay đổi số phận của một con người.
Ở Nam Ấn, trong vùng cư trú của người
Tamils người ta tin rằng số phận một con người đã được an bài sẵn khi mới sanh
và được ghi trên trán bằng những dấu hiệu đặc biệt mà chỉ có những thầy xem
tướng giỏi mới giải mã và biết được.
3. Do Thái giáo và vấn
đề số mệnh:
Người Do Thái cổ đại tin là
những sự kiện lớn của lịch sử dân tộc Do Thái đều do Thượng đế an bài sẵn, mà
dân tộc Do Thái phải phục tùng. Quân đội ngoại quốc xâm lặng Israel, chiếm cứ
Israel, đày biệt xứ dân Do Thái đi nơi khác, như là đế quốc Assiri, và Babylone
và sau này đế quốc La Mã từng làm, tất cả những tai họa đó giáng xuống đầu dân
Do Thái đều không phải ngẫu nhiên mà là do dân Do Thái đã không trung thành với
liên minh mà tổ tiên họ là tiên tri Moise, đã thay mặt họ, ký kết với Yahve
trên núi Sinai… Như vậy là số phận của một dân tộc Do Thái, do hai yếu tố quyết
định: một là những việc làm của bản thân dân tộc đó, phản bội lại liên minh với
Thượng đế. Yếu tố thứ hai là sự trừng phạt của Thượng đế để đối với dân tộc Do
Thái. Đó là sự can thiệp của một lực lượng siêu nhiên, siêu việt lên ý chí của
con người. Có thể nói, đây là số phận hay số mệnh của dân tộc Do Thái đã được
Thượng đế Yahve lựa chọn để truyền bá chân lý của đạo Do Thái cho loài người.
4. Đạo Hồi và vấn đề số
phận:
Từ Ả Rập maniyab là số
phận hay số mệnh xuất hiện trong thơ ca Ả Rập ngay trước thời Mahomad. Con
người có thể chết vì sự cố, trong chiến tranh hay là vì bệnh tật, nguyên nhân
sâu xa của cái chết đó là do tiền định. Nhưng sức mạnh gì quyết định sự kiện
cái chết của một con người? Là Thượng đế Allah chăng hay là số phận, như là một
sức mạnh không bị nhân cách hóa. Điều này không rõ trong văn chương Ả Rập, bởi
lẽ không phải thi sỹ Ả Rập nào cũng tin đạo Hồi, vì đạo Hồi mãi tới thế kỷ VII
sau dương lịch mới xuất hiện.
Thế nhưng trong phạm vi đạo
Hồi, nhất là trong kinh Coran, thì mọi sự kiện, thậm chí mọi hoạt động trong
đời sống của một tín đồ đạo Hồi đều do Thượng đế Allah an bài, chứ không phải
do số phận hay là số mệnh. Ngày tận thế cũng do Thượng đế Allah quyết định, ý
chí loài người không dự phần trong việc này.
Tuy nhiên các nhà Thần học Hồi
giáo về sau có xu hướng giảm bớt tính tuyệt đối của sự can thiệp của Thượng đế
vào đời sống con người, và dành một phạm vi nhất định cho hoạt động của ý chí
tự do.
Hình như các tôn giáo thần
quyền, ngày càng thiên về thuyết không phải Thượng đế an bài và quyết định tất
cả, và con người dù là sản phẩm do Thượng đế tạo ra, nhưng vẫn có một phạm vi ý
chí tự do nào đó, khiến nó có thể phạm sai lầm và chịu sự trừng phạt của Thượng
đế, điển hình là nhân vật Adam của đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa, tuy do Thượng
đế tạo ra nhưng vẫn ăn trái cấm, ngược với lời dạy của Thượng đế… Do đó mà phạm
tội gốc, tức là nguyên tội.
Có thể nói, trong các thuyết
của các tôn giaó lớn, chỉ có thuyết Karma (nghiệp) của Ấn Độ giáo là tương đối
gần gũi (chứ không phải đồng nhất) với thuyết nghiệp của Phật giáo. Tuy nhiên,
cần nhớ rằng Phật giáo nói nghiệp, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh tính bất
điïnh của nghiệp, nghiệp là có thể chuyển được. Người là chủ nhân đồng thời
cũng là thừa tự của nghiệp (trung bộ
III, Kinh "Tiểu nghiệp
phân biệt).
5. Dịch học và số mệnh:
Phật giáo có phản đối các
chuyện như là xem tướng số, bói toán hay không?
Xin trả lời rằng, vấn đề cơ bản
của Phật giáo là giác ngộ và giải thoát, không phải là tướng số vá bói toán. Vì
vậy mà trong kinh Di Giáo, ngay trước khi nhập Niết bàn, đưc Phật từng khuyên
học trò mình là Tăng sĩ, không nên bói toán và xem tướng số. Trong năm môn học
được giảng dạy ở các trường đại học Phật giáo trước đây ở Ấn Độ không có môn
tướng số và bói toán, tuy có dạy các môn thể học như là thanh minh (ngôn ngữ),
Công xảo minh (tiểu thủ công nghệ), Y phương minh (chữa bệnh) Nhân minh (logic
học)…
Về Dịch học Phật giáo cũng
không phản đối dịch học như là một bộ môn Triết học của Trung Hoa, do các bậc
thánh Trung Hoa thời xưa là Phục Hy, Văn Vương, Chu Công, và Khổng Tử sáng lập
và hoàn chỉnh. Nhưng Dịch học, theo bản ý của các bậc thánh, đó không phải là
môn học bói toán, mà là một môn triết học bàn về đạo lý thịnh suy, lành dữ,
hạnh và bất hạnh của cá nhân và xã hội, đất nước; và tinh thần của Dịch học là
đức năng thắng số chứ không phải là con người phục tùng số mệnh. Tôi tuy không
phải là người nghiên cứu chuyên môn về Dịch học, nhưng cũng có nghiên cứu qua
sách dịch, không phải là để xem chơi như vua Trần Nhân Tôn nói trong chương I,
bài phú Cư Trần lạc đạo (1) mà vì có giảng về triết phương
Đông ở một số trường đại học và ở học viện Phật giáo. Tuy chỉ có biết đôi chút
về Dịch học, nhưng với cái sở học của mình, cũng thấy được bản ý của các bậc
Thánh lập ra môn Dịch học không phải là bói toán. Trái lại, bói toán chỉ làm
dung tục hóa môn Dịch học mà thôi. học giả Trung Hoa Phó Lệ Pháp trong cuốn
"Quốc học khái luận" (Đài bắc xuất bản, trang 40) viết rất
đúng: "Bản ý của Văn Vương làm Chu Dịch là để dạy người cái đạo lý trị
loạn, thịnh suy, được mất. Người đời sau dùng để bói toán, thực không phải là
bản ý của Văn Vương" (2).
Hơn nữa, nếu chúng ta xem kỹ
một số lời giải các quẻ của Văn Vương hay các lời giải các hào của Chu Công thì
chúng ta sẽ thấy các bậc thánh này nhấn mạnh vai trò của đức, của nỗ lực đạo
đức cá nhân hơn là số. Nghĩa là dù gặp phải cảnh ngộ khó khăn, gian khổ, nhưng
nếu biết giữ đức hạnh, sống chính đáng thì dữ biến thành lành, hung biến thành
cát. Rõ ràng, đó là quan điểm đức năng thắng số tuy các bậc Thánh không nói rõ
như vậy.
Để minh họa, có thể dẫn chứng
câu sau đây trong Văn Ngôn truyện một cuốn sách chủ yếu giaỉ thích hai
quẻ Càn và Khôn: "Tích hiện chi gia tất hữu dư hương, tích bất thiện chi
gia tất hữu dư ương…" Nghĩa là nhà tích chứa nhiều điều thiện thì sẽ có
thừa điều lành, nhà tích chứa nhiều điều ác thì sẽ gặp nhiều chuyện dữ…
Gia đình như vậy, cá nhân cho
tới đất nước, xã hội đều như vậy. Trị nước mà tàn bạo, hà hiếp, bóc lột dân quá
đáng thì dân sẽ làm loạn. Cá nhân sống ác, thì gặp nhiều bất hạnh, nếu làm
thiện thì sẽ gặp may mắn, đó là đạo Trời, là luật tắc tự nhiên. Dịch học tuy
bàn chuyện hưng vong, thịnh suy và đắc thất nhưng cuối cùng vẫn khẳng định con
người sống phải có đức, trị nước cũng phải có đức, thì mọi việc mới thông suốt,
hài hòa (sách dịch dùng các từ hanh thông) chính đáng, bền vững (sách dịch dùng
các từ lợi, trinh).
III. Phật giáo dùng thuyết
nghiệp thay cho thuyết số mệnh:
1. Nghiệp là gì?
Nghiệp là hành động có dụng tâm, hành động mà không
có dụng tâm thì không phải là nghiệp theo đúng nghĩa của từ này. Một người lái
xe không cẩn thận cán chết người. Người đó có thể mang tội ngộ sát, phải trả
tiền bồi thường và ngồi tù. Nhưng thật ra, anh ta không có tạo nghiệp sát sinh,
anh ta chỉ là một cái duyên, hay là một điều kiện trong kết cuộc như vậy. Lạnh
lùng mà nói, tình hình đích thực là như thế, nếu chúng ta có một nhận thức sâu
sắc về thuyết nghiệp.
Trong đời này, không có gì xảy
ra một cách ngẫu nhiên hết, mọi sự việc, quá trình xảy ra đều có nhân duyên của
nó. Có đủ nhân, đủ duyên và đúng thời, từ sự việc xảy ra tốt hay xấu, lành hay
dữ, may mắn hay bất hạnh. Mọi sự việc xảy ra đều tương ứng với nhân duyên đã
tạo ra nó từ trước. Và đây là nghiệp, chứ không phải là số mệnh.
2. Dẫn nghiệp và mãn
nghiệp – hai loại nghiệp quan trọng nhất:
Nghiệp có nhiều loại nhưng Phật
giáo thường chú ý hai loại chính là dẫn nghiệp và mãn nghiệp. Dẫn nghiệp là
nghiệp dắt chúng sanh đi vào một trong sáu cõi, trong số này có ba cõi thiện là
cõi loài Trời, cõi loài A Tu la và cõi loài người. Ba cõi ác là cõi súc sanh,
cõi quỷ đói, và cõi địa ngục. Mắt trần chúng ta không thấy được loài Trời và
loài A tu la. Chỉ biết rằng hai loài naỳ có quyền năng và thọ mạng nhiều hơn,
dài hơn loài người rất nhiều. Mắt ta không thấy họ, nhưng không phải là họ
không tồn tại. Dân gian không biết, gọi họ bằng đủ các thứ tên như thần, tiên,
quỷ… Trong các loại chúng sanh sống ở cõi ác, có hai loại mắt người cũng không
thấy được là chúng sanh trong loại quỷ đói và chúng sanh trong loài địa ngục.
Loài quỷ đói là loài chúng sanh bụng rất to, nhưng cổ họng rất bé cho nên luôn
luôn bị đói. Chúng sanh ở địa ngục thì bị khổ triền miên, khổ ở mức loài người
không thể tưởng tượng nổi. Còn súc sanh thì rất nhiều loại, không thể kể xuể
được, nhưng chúng có đặc tính chung là hay cấu xé lẫn nhau, trừ một số trường
hợp ngoại lệ. Loại súc sanh quen thuộc nhất là gia súc như chó, mèo, gà, lợn,
ngựa, trâu. Chúng nó sống khổ thế nào, chúng ta cũng đều biết. Nhưng có điều
nhiều người không biết là nếu không sống thiện, không tu tập và sống lối sống
ngu si như súc vật thì sau khi chết chúng ta có thể tái sanh vào làm súc vật.
Rất có khả năng đó, chúng ta không thể xem thường.
Cho nên, ít nhất chúng ta phải
biết cơ chế vận hành của nghiệp, đặc biệt là loại nghiệp gọi là dẫn nghiệp. Mục
đích là dùng cơ chế vận hành của nghiệp để cuộc sống chúng ta có ý nghĩa, để
cho chúng ta chủ động tạo ra những nghiệp có cường độ mạnh để cho ở đời này,
cũng như ở các đời sống sau, chúng ta không bị đọa vào các cõi ác, khổ, mà luôn
tái sanh vào các cõi lành, cõi thiện, dẫn chúng ta đến mục đích cao nhất là
giác ngộ và giải thoát.
Vì dẫn nghiệp quyết định hướng
tái sanh, cho nên cũng có tên gọi là tái sanh nghiệp, với tiếng anh tương đương
là Reproductive Kamma. Kamma là tiếng Pàli, nghĩa là nghiệp, còn tiếng Sanskrit
tương đương là Karma, một từ mà sách Tây phương rất hay dùng để chỉ nghiệp.
Tái sanh nghiệp hay dẫn nghiệp
là những hành động tạo nghiệp có cường độ mạnh hay thiện hoặc bất thiện, quyết
định hướng tái sanh của một chúng sanh, cũng như những sự kiện chủ yếu ở đời
sau của chúng sanh đó. Sau đây tôi xin đưa vài ví dụ minh hoạ trước hết những
hành động tạo nghiệp cực ác, quyết định không tránh khỏi hướng tái sanh của một
chúng sanh vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói và súc sanh. Đó là các
hành động cố ý giết cha, mẹ, bậc thánh Ala
hán,làm chảy máu Phật và phá sự hoà hợp của tăng chúng. Nếu phạm một trong năm
nghiệp ác nói trên, thì nhất định phải tái sanh vào cõi sống ác, khổ. Năm
trường hợp nói trên là những trường hợp cực đoan, còn nói chung sống buông thả,
không giữ năm giới, không làm mười thiện thành thói quen, với tâm ác không biết
sửa chữa đều có nguy cơ sanh vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói, và
súc sanh, và dù có may mắn được tái sanh làm người thì sẽ là người sống bất
hạnh như chết yểu, tật nguyền, hay ốm đau, bị người đời khinh rẻ…
3. Cường độ của nghiệp
quyết định ở chỗ dụng tâm:
Yếu tố gì tạo ra cường độ mạnh
của nghiệp, khiến cho nghiệp đó quyết định hướng tái sanh của chúng sanh đó.
Chủ yếu là dụng tâm khi tạo nghiệp. Thí dụ tạo nghiệp sát với tâm tham, tâm
sân. Gần đây báo chí đăng vụ giết người ở cửa hàng vàng Kim Sinh (Hà nội). Kẻ
cướp đã giết bốn mạng người một lúc để cướp vàng, đó là ví dụ sát sanh vì lòng
tham. Trên báo hằng ngày cũng từng đăng tin một cô gái, chỉ vì ghen tức đối với
người con riêng của chồng mình – một cháu bé năm tuổi – đã nhẫn tâm quẳng cháu
bé đó xuống sông Hồng. Sát sanh với tâm sân hận và ghen tức là loại nghiệp rất
mạnh, có thể khiến kẻ phạm tội đọa vào cõi ác không tránh khỏi.
Đối với thiện nghiệp cũng vậy,
cường độ của nghiệp thiện chủ yếu do ở chỗ dụng tâm chứ không phải do ở quy mô
và hình thức của sự việc. Trong đạo Phật có câu: Làm việc đạo với cái tâm đời,
tức là tâm danh lợi, thì việc đạo biến thành việc đời; còn làm việc đời với tâm
đạo, tức là cái tâm vì lợi ích của đạo và của chúng sanh, thì việc đời cũng
biến thành việc đạo.
Quan điểm trên về nghiệp giải
phóng những người nghèo hèn khỏi nỗi bức xúc của mình quá nghèo hèn, quá túng
thiếu, muốn làm việc thiện, muốn giúp người nhưng không biết xoay xở thế nào.
Trong kinh 42 Chương có nói tới
hạnh tùy hỷ bố thí. Đó là hạnh chia xẻ niềm vui với người khác. Nếu sự chia xẻ
niềm vui đó là thật lòng, không chút ganh ghét thì công đức của hạnh bố thí tùy
hỷ đó cũng là vô lượng, cũng như một ngọn đuốc có thể giúp cho bao nhiêu nhà
được thắp sáng, nấu chín cơm, sưởi ấm v.v… mà để bố thí tùy hỷ có cần phải có
gì đâu, mà chỉ cần có tấm lòng biết chia xẻ niềm vui của người khác mà thôi.
Đại sư Trung Hoa Trí Khải,
trong bài tựa cuốn "Đồng mông chỉ quán" kể trường hợp một Sadi trẻ, ở
cùng chùa một vị trụ trì đã chứng quả A la hán. Vị trụ trì chùa xem tướng học
trò, biết trong vòng một tuần nữa học trò mình sẽ chết bệnh không thể tránh
khỏi, bèn lẳng lặng cho học trò mình về thăm nhà. Anh học trò trên đường về nhà
thấy một ổ kiến trên bờ đê đang bị một dòng nước xoáy thốc vào bờ đê, đe dọa
cuốn trôi đi. Thầy Sadi trẻ động lòng thương lũ kiến đang nháo nhác, bèn nhảy
xuống sông, ra sức hàn lại chỗ đê có thể bị vỡ để cứu ổ kiến. Cứu được ổ kiến,
thầy Sadi về nhà. Và sau một tuần trở lại chùa, vị A la hán thấy học trò mình
trở lại chùa an toàn, khí sắc lại còn hồng hào hơn xưa, rất lấy làm lạ, hỏi cặn
kẽ đầu đuôi chuyện cứu ổ kiến. Vị trụ trì kết luận là do thầy Sadi phát tâm từ
bi rộng lớn, cứu ổ kiến cho nên đã chuyển nghiệp, đáng lẽ phải chết trong vòng
một tuần lại vẫn sống an toàn và còn tiếp tục sống thọ trong nhiều năm nữa.
Câu chuyện trên cũng tương tự
chuyện một bà già ăn mày, sống trong thời Phật, muốn cúng dường Phật một ngọn
đèn mà không đủ tiền để mua dầu. Đi ăn xin, ky cóp mãi mới được một đồng. Nhưng
khi đến cửa hàng thì chủ tiệm lại nói một đồng không đủ để mua dầu thắp đèn.
Nhưng vì chủ tiệm cảm lòng thành của bà già cho nên vẫn bán. Cuối cùng bà già
cũng có được một ngọn đèn cúng dường Phật, không phải đặt trong tịnh xá nơi
Phật thuyết pháp, mà chỉ được đặt ở ngoài vườn. Ấy thế mà sau buổi thuyết pháp
của Phật, người ta đi dập tắt tất cả ngọn đèn ở trong nhà tịnh xá cũng như
ngoài vườn, mọi ngọn đèn đều dập tắt dễ dàng, chỉ riêng ngọn đèn của bà già ăn
mày cúng Phật thì người ta thổi mãi, dập mãi mà không làm sao tắt được, cả đến
Ngài Mục Kiền Liên, học trò thần thông đệ nhất của Phật cũng bất lực. Được hỏi
về sự kiện lạ lùng này, Phật nói đó là sức mạnh lớn lao của lòng chí thành cúng
dường Phật của bà già. Với tâm thành lớn như vậy,thì dù là cúng dường một ngọn
đèn nhỏ, cũng đem lại cho bà ấy công đức vô lượng, khiến cho chư Thiên cũng cảm
ứng, che cho ngọn đèn không bị dập tắt.
Trong lịch sử truyền đạo của
đức Phật cũng không hiếm những chuyện minh chứng cho khả năng chuyển nghiệp của
những người tuy từng phạm nhiều tội ác trong quá khứ, nhưng sau khi được gặp
Phật, được nghe pháp và thành thật ăn năn hối lỗi, cải tà quy chánh, một lòng
tin đạo và hành đạo, thì ngay trong đời này cũng chứng được quả Thánh. Đó là
trường hợp nổi tiếng của Angulimala, vốn là một tên cướp tàn bạo ở vương quốc
Kosala, trường hợp của dâm nữ Ambanali ở Vaisali, cả hai đều xuất gia theo
Phật, tu hành không bao lâu đều chứng quả Thánh A La Hán.
Tóm lại dụng tâm là yếu tố
quyết định tính chất và cường độ của nghiệp. Dụng tâm trong kinh tạng Pàli còn
gọi là tác ý, cho nên Phật giáo định nghĩa nghiệp là tác ý. Khi đã tác ý,theo
hướng thiện hay ác, tức là ta đã tạo nghiệp thiện hay ác rồi. Người bình thường
không hiểu cơ chế vận hành của nghiệp, cho nên rất hay xem thường, thậm chí
ngay đối với lời nói,họ cũng nói một cách vô tâm: Lời nói bay đi, lời nói vô
bằng; không biết rằng ngay những ý nghĩ thoáng qua đầu chúng ta còn là nghiệp,
huống hồ là lời nói. Có lẽ, vì để răn dạy người ta đừng nên coi thường sự bất
thiện nơi lời nói là đạo Phật phân tích có tới bốn điều bất thiện nơi lời nói
là nói dối, nói ác, nói chia rẽ, và nói vô nghĩa; còn đối với sự bất thiện nơi
thân thì có ba là sát sanh, lấy của không cho và tà dâm; còn sự bất thiện nơi
tâm cũng có ba là tham, sân, và si hay tà kiến.
4. Không được coi thường
việc nhỏ:
Đức Phật luôn răn dạy con người
không nên coi thường những nghiệp thiện hay ác dù là nhỏ, cũng như một đốm lửa
nhỏ có thể đốt cháy đống rơm cao như núi, như giọt nước nhỏ mãi rồi cũng làm
bình lớn đầy tràn.
Kinh Pháp Cú có các bài kệ:
"Chớ
chê khinh điều thiện,
Cho
rằng chưa đến mình,
Như
nước nhỏ từng giọt,
Rồi
bình cũng đầy tràn.
Người
chí chứa đầy thiện,
Do chất
chứa dần dần"
(Kệ 122, HT. Thích Minh Châu dịch)
Lại viết:
"Chớ
chê khinh điều ác,
Cho
rằng chưa đến mình,
Như
nước nhỏ từng giọt
Rồi
bình cũng đầy tràn,
Người
ngu chứa đầy ác,
Do chất
chứa dần dần"
(121)
5. Lợi ích của việc tu
tập tâm:
Tuy nhiên, cần chú ý là theo
đạo Phật, dù là nghiệp nơi ý, nơi lời nói hay nơi thân, căn bản vẫn là ở chỗ
dụng tâm, ở chỗ chúng ta tu tập tâm hàng ngày, khiến cho tâm ta trở thành thuần
thiện, không nghĩ việc ác, chỉ nghĩ điều lành. Một người biết tu tập tâm như
vậy, tuy rằng chưa đạt tới đích giác ngộ và giải thoát như các bậc Thánh, Phật
hay A la hán, nhưng có thể nói là đã trên con đường thẳng dẫn tới đích giác ngộ
và giải thoát tối hậu rồi. Hơn nữa, trên bước đường dài dẫn tới mục đích tối
hậu đó, con ngườii thiện nhất định sẽ không bị đọa vào cõi ác.
Kinh Pháp Cú ví người như thế,
như bàn tay không thương tích mà cầm thuốc độc vậy, không can gì hết:
Bàn tay
không thương tích,
Có thể
cầm thuốc độc…
(Kệ 124)
Người ác làm hại người hiền
cũng như kẻ ngu ngược gió, mà tung buị, bụi chỉ rơi vào mình mà không dính
người:
Hại
người không ác tâm
Người
thanh tịnh không uế,
Tội ác
đến kẻ ngu
Như
ngược gió tung bụi….
(Kệ 125, kinh đã dẫn ở
trang 75)
Vậy nên, quyết định tính chất
và cường độ của nghiệp là cái tâm của mình, là ở trong lòng mình, như thi hào
Nguyễn Du đã viết: "Thiện căn bởi tại lòng ta". Tu Phật trước
hết và chủ yếu là tu tâm, không phải chỉ vì "Chữ tâm kia mới bằng ba
chữ tài" mà vì đức Phật cũng đã từng khuyến cáo chúng ta:
Kẻ thù
hại kẻ thu,
Oan gia
hại oan gia,
Không
bằng tâm hướng tà,
Gây ác
cho tự thân.
(Kệ 42)
và:
Điều mẹ
cha, bà con
Không
thể làm được,
Tâm
hướng chánh làm được
Làm
được tốt đẹp hơn.
(Kệ 43)
6. Vấn đề cộng nghiệp:
Nghiệp là sức mạnh lớn, khi nó
là cộng nghiệp của một số người, vì không phải là một mà là một số đông người
tạo ra nó, và số đông ấy có thể là cả loài người, cả một quốc gia, dân tộc hay
một vùng, một địa phương.
Cộng nghiệp của cả một dân tộc
đan xen với biệt nghiệp của từng cá nhân, khiến cho cơ chế vận hành của nghiệp
khá phức tạp, mà chỉ có bậc Thánh như Phật mới hiểu được tất cả ngọn ngành chi
tiết.
Trong kinh Chép lời Phật:"Với
thiên nhãn thuần tịnh, vượt xa tầm nhìn loài người, Ta thấy các chúng sanh chết
và tái sanh như thế nào, Ta thấy những người cao quý và kẻ nghèo hèn, kẻ xuất
sắc và người bần tiện, mỗi người đều theo nghiệp của mình tạo ra mà có được
thân phận hạnh phúc hay bất hạnh".
(Chuyển dịch từ bản tiếng Anh
"The Tibetan book of living and dying" của Sogyal Rinpoche,
trang 92).
Chúng ta không có được thiên
nhãn thanh tịnh để có thể được như Phật nắm bắt được tất cả cơ chế vận hành
phức tạp của nghiệp, nhưng tối thiểu chúng ta cũng biết được đại khái, nhưng
rất là đúng đắn, rằng: "Ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão". Đó
là sự minh triết của nhân dân Việt Nam mà tổ tiên, cha ông đã tin theo đạo Phật
gần 20 thế kỷ nay rồi, khiến cho một thuyết quan trọng và phức tạp như thuyết
nghiệp ảnh hưởng đến tâm lý của dân ta đến nỗi, mỗi lần có sự cố bất hạnh xảy
ra cho một người, một gia đình hay thậm chí cả một vùng, chúng ta buột mồm nói:
"Tội nghiệp!". Đó là tội của nghiệp, nghiệp báo của từng người
và là nghiệp báo chung, gọi là cộng nghiệp, nghiệp của số đông…
Nghiệp chính là quy luật nhân
quả tác động trong phạm vi của nhân sinh. Đạo Phật nói quả nào nhân ấy. Một khi
quả chín muồi và xảy ra thì chúng ta biết đó không phải là ngẫu nhiên mà là kết
quả hợp thành của những nhân duyên đã từng được tạo ra và nay chín muồi.
Nhưng đạo Phật không nói một
cách máy móc: nhân nào quả ấy. Vì sao? Vì hằng ngày chúng ta không ngừng tạo
nghiệp bằng ý nghĩ, lời và thân hành động. Nghiệp này tiếp nối nghiệp kia,
nghiệp sau tác động trở lại nghiệp trước v.v…
Chính vì vậy mà đạo Phật không
nói số mệnh hay số phận, mà nói bất định nghiệp và chuyển nghiệp. Đó là ranh
giới phân biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác, kể cả với Ấn Độ giáo, khá
gần gũi với Phật giáo, vì Ấn Độ giáo cũng nói nghiệp Karma.
Dẫn nghiệp hay cũng gọi là năng
sanh nghiệp chỉ là những loại nghiệp có cường độ mạnh, quyết định hướng tái
sanh của một chúng sanh. Thí dụ tất cả chúng ta ở đây đều là người. Chúng ta
biết chắc là trong đời trước, chúng ta đã tạo ra dẫn nghiệp (hay tái sanh
nghiệp) khiến chúng ta có được thân phận người,nhưng giữa chúng ta đã có bao
nhiêu sai biệt như già và trẻ, khỏe và yếu, nam và nữ, đẹp và xấu, và mỗi người
đều là thành viên những gia đình khác nhau với những cảnh ngộ khác nhau. Do vậy
mà ngoài dẫn nghiệp quyết định thân phận là người của chúng ta, chúng ta còn
tạo ra một loại nghiệp nữa, có cường độ yếu hơn dẫn nghiệp mà sách Phật gọi là
mãn nghiệp (sách tiếng anh dịch là Supportive Karma), cũng có sách khác dịch là
năng trì nghiệp.
7. Khái niệm mãn nghiệp:
Mãn nghiệp hay năng trì nghiệp
giải thích vì sao cũng là một thân phận người mà có người hạnh phúc, người bất
hạnh, người sang, kẻ nghèo hèn; người thì có uy tín nói ai cũng theo, trái lại
có người nói rất giỏi nhưng không ai tin; người đẹp, kẻ xấu xí, có cô gái đẹp
lại lấy phải ông chồng xấu xí, lại có anh chồng xấu xí lại được người vợ đẹp
sánh Hằng Nga tái thế v.v… sao lại có những chuyện như vậy? tất cả những chuyện
sai biệt như vậy, đều là quả báo của mãn nghiệp hay là năng trì nghiệp.
Một câu hỏi đặt ra là: loại mãn
nghiệp này là bất khả kháng hay có thể chuyển được? Xin trả lời, thuyết nghiệp
của Phật giáo là bất định nghiệp là nghiệp có thể chuyển. Đã có bao nhiêu người
sinh ra với sức khỏe rất yếu nhưng nhờ dày công luyện tập mà trở thành lực sĩ.
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chỉ có 1/3 lá phổi mà sống đến tuổi hơn 80. Triết gia
Đức nói tiếng là Kant, vốn lúc bé rất ốm yếu nhưng nhờ sinh hoạt, làm việc rất
đều đặn và có giờ giấc mà sống rất thọ v.v..
8. Khái niệm năng tiêu
nghiệp:
Trong Phật giáo có khái niệm
gọi là năng tiêu nghiệp, sách Anh ngữ có khi dịch là countereactive karma hay
là impeding karma. Loại nghiệp này tùy thuộc vào tình hình mà có thể là tốt hay
xấu.
Có thể đưa ra những ví dụ sau
đây để minh họa: Một người sinh ra có tư chất thông minh, nói theo danh từ khoa
học hiện nay là có gien thông minh. Nhưng người đó lại sinh ra trong một gia
đình giàu có, được cha mẹ nuông chìu cho nên không chịu học hành, chỉ suốt ngày
chơi bời khiến cho tính chất thông minh bẩm sinh của mình bị thui chột đi, và
cuối cùng anh ta trở thành một gã bất tài, vô dụng ở đời. Những loại nghiệp anh
ta đã tạo ra đều thuộc loại năng tiêu nghiệp, xâú và tiêu cực, hủy hoại bẩm
sinh tính thông minh của anh. Bẩm tính thông minh đó cũng không phải ngẫu nhiên
mà chính do anh ta nuôi dưỡng, hun đúc trong một đời trước.
Còn những ví dụ minh chứng các
loại năng tiêu nghiệp tích cực thì rất nhiều. Chỉ cần dẫn chứng trường hợp của
bác sĩ Nguyễn Khắc Viện hay bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng là đủ, vì ai cũng biết đều
là chuyện người thật việc thật và gần gũi với mọi người.
9. Dẫn nghiệp có thể
chuyển được không?
Có người thắc mắc, "mãn
nghiệp có cường độ yếu nên có thể chuyển được, nhưng dẫn nghiệp có thể chuyển
được không?"
Xin trả lời rằng, dẫn nghiệp
cũng có thể chuyển, trong những trường hợp như sau:
Đúng là sau khi đã sanh ra làm
người, có thân phận người, thì không thể chuyển được thân phận người thành một
thân phận không phải người. Thí dụ như các đạo gia mơ tưởng uống thuốc trường
sanh bất lão và bất tử, trở thành thần, thành tiên ngay trong cõi thế này.
Tôi nghĩ rằng bàn những chuyện
như thế này là vô ích, vì nếu có một người như Từ Thức chăng thì cũng chỉ là
một người. Nên miễn bàn là hơn.
Nhưng đạo Phật có khái niệm
"năng hủy nghiệp" để giải thích những trường hợp tuy có người thọ
mạng vẫn còn, nghiệp lực của tái sanh nghiệp vẫn còn, nhưng vì những người này
trong một đời sống trước hay thậm chí trong đời sống này có tạo ra những nghiệp
cực mạnh,có khả năng tiêu hủy thân phận người của họ, thì họ vẫn có thể mất
thân phận người như thường. Đó là những trường hợp chết đột tử hay bất đắc kỳ
tử, như là trong các trường hợp chết vì thiên tai, chết vì tai nạn máy bay hay
xe cộ. Người bình thường gọi đó là những trường hợp ngẫu nhiên bất hạnh, hay là
số mệnh. Nhưng theo đạo Phật, đó là nghiệp, là tác động của một loại nghiệp gọi
là năng hủy nghiệp, nó tiêu hủy thân phận người ngay khi người đó đang sống
bình thường. Người đó, trong một đời sống quá khứ hay thậm chí ngay cả trong
đời này, đã tạo ra một loại nghiệp có cường độ mạnh, đủ sức tiêu hủy một dẫn
nghiệp được tạo ra trước đó, quyết định thân phận người. Sách Phật thường ví dụ
tác động của loại nghiệp này như một cơn gió thổi tắt ngọn đèn, tuy rằng ngọn
đèn đó có thừa dầu và bấc.
IV. Con người là chủ nhân của
nghiệp:
Xin dẫn chứng lời của Đức Phật
trong kinh "Tiểu nghiệp phân biệt" (Trung Bộ III): "Người
là chủ nhân của nghiệp, cũng là thừa tự của nghiệp…" Nghiệp do chính mình
tạo ra và nghiệp trở lại chi phối mình. Cũng như Nguyễn Du nói rất đúng trong
"Truyện Kiều"
Đã mang
lấy nghiệp vào thân,
Xin
đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Chính chúng ta chứ không phải
một thần linh nào khác quyết định đời sống chúng ta, và chúng ta quyết định nó
bằng hoạt động hàng ngày, hàng giờ, phút trong cuộc sống. Nếu tâm chúng ta
hướng thiện thì chúng ta tạo nghiệp thiện, hưởng quả báo thiện trong đời này và
đời sau. Quy luật nghiệp báo là quy luật nhân quả, giản dị, không có gì khó
hiểu, không cần phải mượn tới sức mạnh của thần linh hay sức mạnh mù quáng của
số phận để giải thích. Thuyết nghiệp của đạo Phật không những là khoa học và
công bằng nó còn tôn vinh trách nhiệm và giá trị con người. Nó thúc đẩy con
người luôn hoàn thiện mình, sống đạo đức, có lý trí và theo lẽ phải. Nó nâng
cao giá trị con người chứ không hạ thấp giá trị con người. Nó khích lệ con
người hành động và tiến bộ. Nó không dạy con người sống tiêu cực và yếm thế.
Thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu được lý giải đúng đắn và mọi người hiểu thấu và
thực hành sẽ đem lại bao nhiêu tốt đẹp cho xã hội và đất nước chúng ta, trong
thiên niên kỷ mới sắp đến này.
Quá khứ đã qua rồi, tương lai
lại chưa đến, mọi người chúng ta hãy tỉnh giác và có ý thức sống trong hiện tại
từng giờ, từng phút nghĩ lành, nói lành, làm thiện. Đó chính là nghiệp, là
thuyết nghiệp không phải trên bình diện lý thuyết mà là trong cuộc sống, trong
thực hành.
Triết gia Mỹ William James,
chắc là có chịu ảnh hưởng của thuyết nghiệp của đạo Phật, đã nói câu:"Chúng
ta đang dệt đời chúng ta bằng một sợi chỉ không tháo gỡ ra được " (Nous
tissons notre vie d’un fil qui ne se défera pas).
Câu nói của Nguyễn Du và của
William James sẽ hoàn toàn đúng với tinh thần thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu
thêm đôi điều như sau:
Tuy nghiệp đã mang vào thân
rồi, nhưng vẫn gỡ ra được, nếu chúng ta biết ăn năn sửa chữa lỗi lầm, từ nay
tránh mọi điều ác, làm mọi điều lành, giữ tâm ý luôn luôn trong sạch, hướng
thiện. Với câu của William James, chúng ta cũng thêm, chúng ta dệt đời chúng ta
với sợi chỉ, không phải không tháo gỡ được, mà vẫn có thể tháo gỡ và dệt lại
được.
Và theo lời khuyên của hai vị,
chúng ta hãy mang trên thân mình toàn là nghiệp lành, hãy dệt đời chúng ta toàn
bằng nghiệp lành, nghiệp thiện, trong mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm hàng
ngày. Và nhất định, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta trong cả đời này và đời sau.
Source:
Nguyệt san Giác Ngộ số 48
* Chú thích:
Trần Nhân Tông viết:"Sách
Dịch xem chơi, yêu tinh sáng, yêu hơn châu báu, kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng
rỗi, trọng nhữ hoàng kim". Trần Nhân Tông nói là xem chơi, nghĩa là Ngài
không lấy sách dịch làm chuẩn.
Văn Vương tác Chu
Dịch đích bản chỉ nãi giáo nhân dĩ trị loạn, thịnh suy, đắc thất chi lý, hậu
thế dụng dĩ chiêm phệ, thực phi Văn Vương bản ý.