Tài Nguyên Phật Giáo Trước Những Vấn Đề Dân Số, Tiêu Thụ Và Môi Trường
Rita M. Gross Đỗ Kim Thêm (Dịch)
05/10/2011 11:13 (GMT+7)


Cũng giống như trong trường hợp tất cả các truyền thống quan trọng khác, những kết luận liên hệ đến vấn đề hiện đại không thể trích dẫn được từ những kinh sách cổ điển, đúng hơn, những giá trị [1]nộI tại trong truyền thống cần được áp dụng cho các khủng hoảng hiện thờI không hề lường trước về thặng dư dân số và tiêu thụ quá độ, mối đe dọa tràn ngập địa cầu mà chúng ta đang lệ thuộc. Theo quan điểm của tôi, nhiệm vụ áp dụng những giá trị truyền thống Phật Giáo trước những vấn đề này trong bối cảnh hiện nay không khó khăn,vì giá trị Phật Giáo cổ truyền đề ra những đường lối vô cùng thích hợp nhằm đáp ứng hiện tình. Trong tiểu luận này, tôi muốn trình bày trong một chừng mực nào đó như “một nhà khoa học Phật Giáo với ý hướng xây dựng”, giải thích truyền thống này bằng cách mang truyền thống cố hửu để đối thoại với những vấn đề và nhu cầu hiện nay. Phản ảnh quan điểm của cá nhân tôi, vừa là Phật tử và vừa là học giả, tôi sẽ đúc kết những tài liệu không những từ trong tư tưởng Phật Giáo cổ điển, mà còn dựa theo những quan điểm Đại Thừa và Kim Cang Thừa Phật Giáo[1]. Đồng thời, nếu có thể được, tôi sẽ cố gắng tránh tối đa không nghiêng theo một tông phái nào.

Định nghiã vấn đề: Môi Trường, Tiêu Thụ và Dân Số.

Khi chúng ta cố gắng mang những giá trị truyền thống Phật Giáo nhằm thảo luận về hiện tình, điều quan trọng là chúng ta phải hiểu rõ nội dung các tình hình đó. Nội dung của bài này nhằm đề ra những vấn đề quan hệ hổ tương cuả môi trường, sử dụng tài nguyên và phát triển dân số theo quan điểm Phật Giáo. Vì Phật Giáo luôn đề nghị rằng chúng ta cần chấp nhận sự vật như chính chúng thể hiện, không nên thêm tưởng tượng, điều thích hợp là chúng ta bắt đầu tìm hiểu khái quát về hệ thống kinh tế, tiêu thụ và dân số tác động nhau như thế nào. Khi ba vấn đề này quan hệ nhau, người ta có thể tưởng tượng ra ba giải pháp: một dân số nhỏ vừa đủ sống thoải mái dựa trên một cơ sở tài nguyên ổn định, tự tái tạo được; một dân số dư thưà sống trong những điều kiện suy thoái dựa trên tài nguyên khan hiếm, hoặc là một mô hình hiện nay với một số ít dân số sống trong trong thịnh vượng và một đại đa số đang phải sống vất vưởng. Rõ ràng là giải pháp đầu tiên đáng được chú tâm. Làm sao người ta có thể đề cao sinh sản đến độ để chọn lựa giải pháp thứ hai thay cho giải pháp thứ nhất, điều này không thể hiểu được, và mô hình hiện nay dành cho kẻ có ưu quyền đặc lợi lại không thể chấp nhận được về mặt đạo đức. Hiển nhiên, dân số là một yếu tố duy nhất có thể giải quyết trong toàn bộ vấn đề. Nói một cách khác, khi chúng ta nhìn ba yếu tố trong cuộc thảo luận -môi trường, dân số và tiêu thụ- thì có hai yếu tố không thể giải quyết và một yếu tố có thể giải quyết. Về cơ bản, không thể nào giải quyết được các sắc dân phải sống giới hạn trong biên giới và môi trường sống của mình.Tuy nhiên, điều này đã xảy ra, vì không có cách chọn lựa và không có sinh hoạt nào khác tách rời khỏi môi trường sống. Về mặt đạo đức, điều không giải quyết là sẽ có một sự phân phối công bình (công bình, nhưng không bằng nhau về số lượng) về các tài nguyên cho toàn thể con người trên thế giới. Trong phương trình này, dân số là yếu tố có thể giải quyết. Đề nghị cho rằng một dân số nhỏ vừa đủ để mọi người có thể tận hưởng mức sống thoải mái mà không phí phạm tài nguyên là điều cần thiết và mơ ước, vấn đề này khó đặt ra. Chúng ta không thể nào gia tăng diện tích của địa cầu mà chỉ gia tăng khả năng sản xuất trong một tầm mức giới hạn nào đó,nhưng chúng ta là một nhân chủng có thể kiểm soát dân số.Tất cả những gì đòi hỏi là việc thực hiện mà những theo đuổi phải ít nhất vừa hy sinh và vừa nhằm thoả mản nhu cầu sinh sản.

Những tôn giáo thuờng chỉ trích tiêu thụ quá mức nhưng cũng thường khuyến khích sinh sản. Tuy nhiên, dù tôi muốn ghi nhận những giá trị Phật Giáo trong việc đề cao tiêu thụ tiết chế, tôi muốn nhấn mạnh đến những giá trị Phật Giáo nhằm khuyến khích tiết chế và trách nhiệm đối với sinh sản nào được coi là quan trọng.Tôi nhấn mạnh rất minh bạch những yếu tố này, vì có quá ít những cuộc thảo luận về các lập luận tôn giáo biện hộ cho giới hạn sinh sản. Thí dụ một tôn giáo quan trọng có truyền thống lâu đời trên thế giới mà các tín đồ sống một cuộc đời thoả mản, không quan tâm đến sinh sản cá nhân thì thật đáng đặt thành vấn đề tìm hiểu. Phật Giáo, dựa trên những giá trị hay trên những đường hướng chính, không hề được cấu trúc hay giải thích như một tôn giáo khuyến khích sinh sản. Hai tư tưởng tôn giáo thường được diện vẩn bởi hầu hết các tôn giáo nhằm minh chứng cho khuyến khích sinh sản không nằm trong giáo lý cơ bản cuả Phật Giáo. Phật Giáo không đòi hỏi tín đồ cuả mình phải sinh sản như một bổn phận tôn giáo. Hầu hết những hình thức trong Phật Giáo không coi tình dục là một điều xấu xa hay một tội lổi cần nên tránh, trừ khi liên quan đến sinh sản, mặc dầu các nghi lể Phật Giáo bao gồm những tiêu chuẩn liên quan đến đạo đức tình dục. Tuy nhiên, kiểm soát sinh sản qua ngừa thai hay kiêng cử là điều hoàn toàn có thể chấp nhận được. Những phương cách thụ thai và sinh sản xuất phát từ những giá trị nền tảng cuả Phật Giáo nhằm cổ suý sinh sản được coi như một chọn lựa chính chắn và thoải mái hơn là tai nạn hay là bổn phận. Vì có những đường lối độc đáo mà Phật Giáo đề cao giá trị cuả cuộc sống con người, nên trong đó cần phải quan niệm trẻ con cần được săn sóc về mọi mặt từ thể xác, đến cảm xúc và tinh thần. Rất ít Phật Tử sẽ bất đồng với lời khuyên rằng người ta phải có ít con hơn, nhờ thế, tất cả các con sẽ được chăm sóc đầy đủ hơn, mà không phí phạm đến tài nguyên tinh thần, vật chất, cũng như tình cảm của bậc phụ huynh, cuả cộng đồng hay cuả địa cầu.

Ngược lại, phong trào cổ võ sinh sản được coi như một ý thức hệ có vẻ lan tràn trên địa cầu; ai mà đề nghị một cách mềm dẻo rằng sinh sản vô giới hạn không phải là một quyền của cá nhân và có thể đưa đến hủy diệt thì họ bị chế nhạo. Hãy nên đề nghị là có luật nhân quả giữa sinh sản quá mức và nghèo đói và phải kiểm soát sự việc xảy ra. Niềm tin cổ súy sinh sản có ít nhất ba tư tưởng chủ yếu mà tất cả cần được đặt thành vấn đề. Người ủng hộ sinh sản luôn nghĩ sinh sản là một cơ hội tốt, trong bất cứ trường hợp nào, kể cả trong lúc cực kỳ khó khăn. Có ý kiến khác thì khuyến khích sinh sản trong một vài trường hợp là vô trách nhiệm, cần được kiểm soát nhiều hơn hổ trợ, đề nghị này hoàn toàn không phổ cập trong giới cổ võ sinh sản. Hơn nửa, giới cổ võ đòi hỏi rằng sinh sản là cần thiết cho nhân sinh. Những người nào tự quyết định cho mình không có con là đáng trách và phải chiụ nhiều thiệt thòi kinh tế và xã hội. Cuối cùng, người biện hộ coi sinh sản là một quyền cá nhân, không bị lệ thuộc vào một chính sách cuả chính quyền, ngay cả việc họ còn lập luận sinh sản là một trách nhiệm chung, kể cả toàn cầu. Điểm bi đát trong thuyết này là mặc dầu thặng dư dân số có thể được cắt giảm nhanh chóng bởi những phương thức tự nguyện, thiếu điều này, dân chúng phải chịu những biện pháp cưởng ép, gây nhiều khổ đau- binh tật, bạo lực và nạn đói. Tuy nhiên, cũng cần phê bình để ngăn chận những giáo điều tôn giáo khuyến khích sinh sản được phổ biến lan rộng mà không suy xét, những biện pháp xã hội hoá, những áp lực, những chính sách thuế khoá, những tình cảm và những gía trị tấn công một cách vô nghiã từ khắp mọi phiá.

Trước khi bắt đầu thảo luận giáo lý Phật Giáo như tài nguyên cho phát triển một nền đạo đức tiết chế liên hệ đến sinh sản và tiêu thụ, điều quan trọng là nên dừng lại ở đây để nhận chân ra hai vấn đề tranh luận. Hai điểm này không được thảo luận trong bài này, ngay cả mặc dầu những kết luận của tôi liên hệ đến những vấn đề này sẽ thể hiện trong thảo luận về đạo đức Phật Giáo, môi trường, tiêu thụ và sinh sản.

Vì ý niệm trong Phật Giáo về thuyết Duyên Khởi, được thể hiện cùng khắp muôn nơi, tạo nên ý nghiả, tôi thấy không thể là một giải pháp khi quyền cá nhân có thể mở rộng đến mức độ mà sự hành sử của họ về các quyền này đe doạ đến những khuôn mẩu hổ trợ cho cuộc sống- mà cả hai vấn đề tiêu thụ và sinh sản đã đạt tới cực điểm. Dẩu người ta có thể có cuả cải đến đâu đi nửa để giúp họ có một mức độ tiêu thụ hay sinh sản vô chừng như họ thích, thật khó lập luận rằng đây là một quyền cá nhân được hoàn toàn sử dụng, bất chấp tới ảnh hưởng môi trường sống. Lập luận về quyền và tự do cá nhân có những thu hút chống lại hệ thống xã hội độc tài và điạ phương quá mức. Nhưng ngày nay, lập luận và thái độ cố tìm cách tràn lấn nhu cầu cho sự hạn chế và tiết độ nhằm bảo vệ cộng đồng cũng như nhân chủng.

Hơn nửa, đặc biệt trong nhu cầu phải đối phó với những ý thức hệ và chính sách đề cao sinh sản, chúng ta đạt tới một điểm vượt qua luật tương đối. Trong cộng đồng nhân loại, chúng ta đã học hỏi quá chậm trể về những đặc điểm cuả luật tương đối, khi nào mà nó có thể áp dụng được. Chúng ta cũng quá nôn nóng để lên án những người khác quan điểm chúng ta. Thuyết tương đối coi thế giới quan như một điều tốt đẹp, vì sự khác biệt trong thế giới quan là một tài nguyên đáng giá. Mặt khác, thuyết tương đối về những tiêu chuẩn đạo đức căn bản đưa tới những kết quả không chấp nhận được. Có phải thật sự chúng ta muốn nói tới một nền văn hoá mà phụ nữ bị đối xử như là một món hàng riêng hoặc là trẻ con bị bóc lột đây „chính là văn hoá đích thực của họ“? Không thể có một giải pháp nào cho một phong trào đấu tranh nhân quyền quốc tế, nếu người ta thật sự tin tưởng tiêu chuẩn đạo đức chỉ tương đối và có tính cách hòa giải. Cả hai việc tiêu thụ và sinh sản là vấn đề đạo đức ở tầm mức cao nhất, vì những hướng dẩn này có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống của tất cả mọi nguời. Chúng ta không thể nào có thể để lâu hơn cho các cá nhân tin tưởng rằng họ có quyền sinh con nhiều tùy thích, cũng như chúng ta đã không chịu được nô lệ, bóc lột trẻ con và đối xử với phụ nữ như một trò chơi. Một vài giá trị tôn giáo và văn hoá có truyền thống lâu đời cũng có quan tâm đến sự chê trách này và coi cổ võ sinh sản là một quan điểm đạo đức không thích hợp và không thể chấp nhận trước hiện tình. Một vài tôn giáo cần điều chỉnh lại những lời răn của mình về sinh sản cho phù hợp thực tại do y khoa hiện đại mang lại, tử suất đã giảm đi đáng kể, trong khi sinh xuất thì chưa, điều này tạo ra gia tăng nguy hiểm về dân số, khi mà tất cả mọi người đều muốn hưởng thụ ở tiêu chuẩn cao hơn chưa từng được biết trước đây.

Bước vào Trung Đạo trong một thế giới hổ tương: những tài nguyên chính Phật Giáo cho sự tiết chế

Một trong những giáo lý chính của Phật Giáo liên quan đến thuyết Duyên Khời (pratitya-samutpada trong Sanskrit va patica-samutpada trong Pali), được xem như một trong những khám phá mà Đức Phật đã tìm ra trong kinh nghiệm giác ngộ cuả Ngài. Giáo lý này chuẩn bị cơ sở cho tất cả những bình luận sâu xa về tiêu thụ và sinh sản, vì Duyên Khởi là đường lối sâu thẩm không thể định nghiả được. Phật Giáo nhìn chúng sinh như những thực thể có quan hệ nhau trong mạng lưới liên kết, chớ không phải là những thực thể cô lập. Duyên Khởi, được thể hiện cùng khắp muôn nơi, là một phần quan trọng trong sự hiểu biết về luật nhân quả của Phật Giáo, luật này chi phối tất cả mọi xảy diển trên thế gian. Không có gì xẩy ra mà tách rời hay trái lại với luật nhân quả theo Phật Giáo, cũng không ai được phép can thiệp, dù tùy tiện hay thần thánh, vào trong trong diễn trình nhân quả. Hơn nửa, vì Phật Giáo hiểu nhân quả tương thuộc nhau, nên những hành vi của một con người có thể gây ra hậu quả cho toàn thể vũ trụ. Thật ra, những quyết định sinh sản hay tiêu thụ không hẳn là một quyết định đơn thuần cá nhân không liên quan đến thế giới rộng lớn hơn. Bất kỳ một đứa trẻ chào đời tại một nơi nào đó trên địa cầu đều có ảnh hưởng đến toàn thế giới hổ tương, điều này cũng giống như việc tiêu thụ các tài nguyên. Người ta cũng không thể lập luận tiền cuả riêng tư hay mức độ tiêu thụ thấp gây ảnh hưởng xấu đến đứa trẻ trong mạng lưới hổ tương trong vũ trụ.Ta cũng không thể lập luận ước muốn riêng tư dành cho con cái quan trọng hơn là nhu cầu phải quan tâm đến vấn đề ảnh hưỡng cuả đứa trẻ đó trong một vũ trụ hổ tương, vì luật nhân quả không chừa một trường hợp riêng nào. Cũng tương tự như vậy, sử dụng tài nguyên dù ở bất cứ nơi nào cũng gây ra những ảnh hưởng trên toàn cầu. Thường thường,tiêu thụ xa xỉ tại một nơi này sẽ có ảnh hưởng đến nghèo đói và đau khổ tại những nơi khác trên thế giới. Do đó, khi lấy luật Duyên Khởi làm nồng cốt cho Phật Giáo, điều này đòi hỏi sự tiết chế trong mọi hoạt động, đặc biệt trong sinh sản và tiêu thụ, vì nó có những ảnh hưởng tại các nơi khác trong hoàn vũ. Khi giải thích Phật Giáo về Duyên Khởi kết hợp với giải thích khoa học về hành tinh như một chiếc thuyền cấp cứu hữu hạn, điều trở nên hiển nhiên là Phật Giáo coi việc kiểm soát sinh sản một cách thích hợp nhân đạo và công bình như một điều kiện đòi hỏi. Điều đó cũng thấy rõ khi Phật Giáo xem sự sử dụng môi sinh bừa bãi trong sinh sản hay tiêu thụ như coi thường vũ trụ hữu hạn và hổ tương, sự bất chấp này bắt nguồn từ vị kỷ cá nhân.

Viễn kiến về mối tương thuộc trong vũ trụ bày ra một bức tranh to lớn về sinh sản và tiêu thụ. Viễn kiến này càng trở nên chi tiết hơn khi chúng ta quan sát cặn kẻ về phạm vi của con người nằm trong vũ trụ tương thuộc. Một mặt, Phật Giáo đề cao rất mực điều may mắn khi được tái sinh làm kiếp người, và một mặt khác, Phật Giáo thấy tất cả mọi sinh vật hữu tình về cơ bản đều giống nhau ở chổ cùng có thúc đẩy chung tìm đường thoát khổ và tu tập an lạc. Thật vậy, sinh ra làm người là quý giá và vừa lại được thấy sinh trong một mạng lưới vũ trụ liên hệ nhau, mà trong đó liên đới cuả con người với nhau là cốt yếu hơn là phân chia thành chủng loại khác nhau. Trong hai cụm từ “nhân thân quý báo’’ và “sinh vật hữu tình’’ cần được luôn đề cập chung khi thảo luận về quan điểm Phật Giáo qua vấn đề vị trí con người trong vũ trụ liên đới. Sự quý giá của kiếp nhân sinh tuyệt nhiên không phải vì nhân quyền đứng trên các hình thái khác của cuộc sống, vì kiếp nhân sinh đã và có thể sẽ đổi lại thành những hình thái khác của kiếp sống- dù phương thức tu tập của Phật Giáo được nghĩ là nhằm đề cao cho sự tái sinh liên tục trong kiếp người. Một mặt khác, tất cả chúng sinh được nối kết nhau trong một thế giới theo mạng lưới rộng lớn trong vũ trụ theo luật Duyên Khởi và Tính Không, và điều này không có ngoại lệ. Mạng luới này là mối quan hệ và chia sẽ kinh nghiệm gần gủi cho đến độ mà những biểu tượng cổ truyền cho là chúng sinh đôi khi là mẹ sinh sản ra chúng ta và ngược lại. Tuy nhiên, thay vì chúng ta có cảm tưởng rằng mình là người trên trước hay có ưu quyền hơn các hình thái khác của cuộc sống, điều được luôn nhắc nhở là vì chúng ta biết chúng ta không muốn chiụ đựng thiệt hại hay đau khổ như thế nào, và vì mọi chúng sinh đều là những thân thuộc của chúng ta, nên chúng ta cố gắng tối đa không làm hại hay gây đau khổ cho chúng sinh như thế ấy

Như ai cũng biết, Phật Giáo cổ truyền tin có tái sinh và cho rằng tái sinh không luôn luôn nhất thiết là sinh làm kiếp người, mà hoàn toàn tùy thuộc vào công đức và kiến thức từ tiền kiếp. Trong tất cả tái sinh có thể được, thì tái sinh làm kiếp người được coi là may mắn và thuận lợi nhất, thuận lợi hơn cả tái sinh trong thánh điạ đầy hoan lạc. Niềm tin này dường như thúc đẩy sinh sản không hạn chế. Nhưng khi chúng ta hiểu tại sao kiếp nhân sinh lại được quá tôn sùng, điều rõ ràng nhất là sinh sản quá mức sẽ phá hủy những điều kiện làm cho tái sinh được đề cao như thế. Tái sinh làm người được đề cao, hơn cả mọi sinh vật hữu tình khác, vì con người có khả năng phát triển tâm linh, điều này có thể đưa đến viên mãn và giác ngộ. Mặc dầu, mọi chúng sinh đều có tiềm năng bẩm sinh nội tại cho việc thực hiện này, nhưng thành tựu này được hổ trợ bởi một vài nguyên nhân và điều kiện nào đó cũng như bị ngăn trở bởi các lý do khác. Tuy nhiên, niềm vui được tái sinh làm người còn tùy thuộc vào khả năng con người trong mức độ sáng tạo văn hoá và tâm linh nhằm dẫn đường đến giác ngộ, một khả năng chỉ đạt được khi mà tài nguyên đầy đủ đuợc có sẳn.Chỉ sinh ra làm người cho nhiều không phải là nguyên nhân cho một sự vui sướng về nhân thân quý giá, vì kiếp nhân sinh là điều kiện cần thiết, nhưng không đủ cho tiềm năng nội tại con người tương lai thụ hưởng. Thật là vừa hửu ích và ngay cả cần thiết khi một con người sống trong một môi trường thích hợp, được nuôi dạy đầy đủ từ thể xác, tình cảm và tinh thần. Đó là lý do chính tại sao tình trạng ít dân số để lo lắng chu đáo được ưa chuộng hơn là đông dân mà phải đang tranh đấu sống còn.

Những điều kiện nhằm tạo cuộc sống như mơ ước và đáng sống có thể được đúc kết từ một trong những giá trị chính của Phật Giáo, đó là giá trị Trung Đạo. Trung Đạo được thảo luận như một nổ lực đúng đắn, không quá nhiều, không quá ít, không quá cứng ngắc và cũng không quá lỏng lẻo. Sử dụng một cách thích hợp nhất cơ hội biểu hiện “kiếp nhân sinh qúy giá’’, người ta cần đi theo Trung Đạo và tìm cách có thể đi theo con đường ấy. Tránh cực đoan trong mọi vấn đề là một trong những điểm son trong Phật Giáo, mà Đức Thích Ca học tập được trước khi Ngài thành đạo và là một điều kiện tiên quyết cần thiết cho sự đạt đạo. Đầu tiên, Ngài học tập được rằng sống một đời xa xỉ là vô nghiã, nhưng Ngài cũng tìm ra rằng cuộc đời nghèo khó cũng sẽ chẳng đưa đi đến đâu. Ngài kết luận để sống một kiếp người toàn vẹn, người ta cần phải sống trọn một đời trong tiết chế, tránh mọi thứ đam mê thái quá hay tận cùng trong đói nghèo hay tự khắc kỷ.

Đường lối chỉ dẩn của Trung Đạo nhấn mạnh giàu sang hay tiện nghi quá mức có thể làm phản tác dụng về mặt tâm linh, vì nó dể đưa đến tự mản và hoang phí nhiều tài sản khác- những thái độ này không giúp ích cho tâm linh. Thật vậy, ý niệm về Trung Đạo đem lại những phê bình hợp lý và điều chỉnh cho thuyết tiêu thụ quá mức đang lan tràn mà điều này dẩn đến thặng dư dân số.Tuy nhiên, Trung Đạo cũng tạo nên điểm chủ yếu cho rằng nên có vật chất tối thiểu và tiêu chuẩn tâm lý cần thiết cho kiếp sống có ý nghĩa. Phật Giáo không hề lý tưởng hoá nghèo đói và khổ đau, hay coi đây là một ưu điểm về tinh thần. Những người sống trong tận cùng nghèo khổ hay nguy hiểm sẽ không có đủ thì giờ hay khuynh hướng để tự nuôi mình tiến tới giác ngộ, thật sự tận hưởng đầy đủ việc tái sinh làm kiếp người, thật quả đây là một điều không may mắn. Phật Giáo cổ võ tiết chế, nhưng không ca ngợi nghèo đói, vì nghèo đói không thể thúc đẩy người ta đạt được giác ngộ- hoặc cho phép người ta đủ thời giờ thở mà làm việc ấy.

Thật vậy, nhiều Phật Tử công nhận từ lâu trước khi lời Phật dạy có thể áp dụng đạt kết quả, đầu tiên cần phải có một cơ sở vật chất và tâm lý bình an. Phật Giáo luôn luôn công nhận rằng người ta không thể nào thiền định hay suy niệm trong một bao tử rổng tuếch, hoặc tạo một môi trường cho thăng tiến và giác ngộ trong một hoàn cảnh tụt hậu, mất mát hoặc sợ hải. Phật Tử cũng nhận ra từ lâu thiền định được coi có thể như nhằm đưa tới niềm vui to lớn và viên mãn cho con người, điều này chỉ có sau khi người ta đạt đuợc một trình độ cơ bản trong Trung Đạo.Trước đó, người ta phải thật sự nghĩ rằng một khi người ta có đủ điều kiện vật chất, người ta sẽ không còn chịu đau khổ. Người ta phải đạt đến một mức độ thoả mãn tối thiểu nào đó về những nhu cầu cơ bản trước khi bắt đầu nhận chân rằng ham muốn và những đau khổ lệ thuộc là hảo huyền hơn. Đến một điểm mà sau khi những nhu cầu cơ bản đã thoả mãn, người ta nghiệm thấy ham muốn và đau khổ không hề dập tắt dể dàng, thì giáo lý cơ bản cuả Phật Giáo bắt đầu tạo nên ý nghiã.

Điều này hoàn toàn phù hợp với luận điểm cuả một số người cổ võ rằng cắt giảm dân số là có thể làm được, nếu người ta có một mức sống phù hợp. Đó là một lập luận tổng quát hoá rất quen thuộc hiện nay: một phương thức hữu hiệu nhất nhằm cắt giảm dân số là cải thiện đời sống kinh tế dân chúng, người ta khi có đủ cơ sở vật chất có thể thấy sự vững chắc của lập luận giới hạn sinh sản này, trong khi người đang gặp tận cùng khó khăn sẽ không thấy điều đó. Tư tưởng Phật Giáo đề cao sự nghiệm xét về luật nhân quả, vì toàn thể thế giới hổ tương bị chi phối bởi luật này. Thặng dư dân số không đột nhiên mà xảy ra, đó là kết quả cuả một nguyên nhân, một trong những nguyên nhân đó là vì quá đói nghèo, không thể nào tu tập theo Trung Đạo ở giửa xa xỉ quá độ và tận cùng nghèo khó.

Tuy nhiên, củng rõ ràng là sinh sản quá mức sẽ dẩn đến ngăn trở tất cả mọi nỗ lực giãm bớt nghèo khó, vì điạ cầu chỉ có tài nguyên giới hạn. Chúng ta cần nhận ra có quan hệ giữa tiêu thụ quá mức, thặng dư dân số và nghèo khó. Nếu một trong những yếu tố chủ yếu này bỏ sót đi, khi những hệ thống tôn giáo và văn hoá lại không đề ra một đường hướng nào để giới hạn sinh sản, thì vũ trụ liên đới sẽ bị căng thẳng cực độ. Một lần nửa, điều quan trọng là cần nhận ra tất cả mọi tôn giáo và hầu hết các nền văn hoá đều có những hướng dẩn đạo đức về giới hạn tiêu thụ. Thực ra, những lời khuyên này có đề ra, nhưng thường không được áp dụng. Tuy nhiên, có vài tôn giáo đề cao giới hạn sinh sản. Phần lớn các tôn giáo khuyến khích hay đòi hỏi tín đồ của mình nên sinh sản mà không hề đưa ra những hướng dẫn về giới hạn hay công nhận nào về thặng dư dân số. Dầu sao, những mẩu mực của những hệ thống tôn giáo có thể được dẩn chứng nhằm đề ra những lập luận tôn giáo để giớí hạn sinh sản, đây là điểm quan trọng đáng phê bình.

Thuyết Duyên Khởi, khi kết hợp với lời khuyên nên tu theo Trung Đạo trong mọi phương thức theo đuổi, đem đến cho ta một sự soi đường. Khi tổng hợp các ý niệm về Duyên Khởi cùng với giá trị về sinh sản con người trong một điều kiện thích hợp và giáo lý Trung Đạo sẽ cho ta một vài sự dẩn dắt rõ ràng và nhạy bén về sinh sản và tiêu thụ. Nhìn vấn đề tiêu thụ, ta thấy đáng phê bình khi lời kêu gọi của Trung Đạo chỉ ra hai đường hướng. Hiển nhiên là tiêu thụ quá mức là sai phạm giáo lý Trung Đạo. Nhưng như thế là phủ nhận quá đáng. Lời khuyên áp dụng Trung Đạo không khuyên thắt lưng buộc bụng hay nhường chổ cho người khác, vì quyền sinh sản là bất khả xâm phạm. Nếu lời khuyên giới hạn sinh sản và tiêu thụ, cả hai có quan hệ nhau, nhờ như thế sẽ tạo một lối sống có lợi cho sự giác ngộ của mọi người.Thật vậy, sinh sản quá nhiều trên quả đất nhằm duy trì giống nòi, và đối với những cộng đồng phải tạo ra sự nuôi dạy thích nghi về mặt thể xác hay tâm lý, đây chính là điều tương phản với Trung Đạo. Điểm chủ yếu là sinh sản không vượt qua khỏi khả năng của gia đình, của cộng đồng hay của trái đất, nhằm tạo nên một cuộc sống phù hợp trong phạm vi Trung Đạo cho tất cả mọi người.

Chỉ đơn thuần cung cấp một chổ ở cho sự sống còn là không đủ, và lập luận cho rằng trái đất còn cung ứng cho nhiều người nửa là không thuyết phục, bởi vì phẩm chất của cuộc sống quan trọng hơn là chỉ thuần gia tăng nhân số. Ngoài việc thêm dinh dưởng cho thích hợp một cách tối thiểu, đủ chổ sống làm tránh sự chen chúc quá mức có thể đưa tới gây hấn và bạo lực là quan trọng. Những tài sản sẳn có thuộc về kỷ thuật, văn hoá và tâm linh có thể làm cho đời sống con người thực sự nhân bản hơn, đó chính là chủ yếu. Tuy nhiên, nhìn trên khía cạnh toàn cầu, địa phương hay cá nhân, việc quan trọng là phải giới hạn sinh sản, để trẻ con sinh ra được chăm sóc chu đáo về mặt vật chất cũng như tinh thần. Nếu không làm như vậy, thì chỉ cố tình bất chấp tới sự an lạc tâm linh cho những ai được sinh ra làm kiếp con người. Không phải đói nghèo mà cũng không phải kiệt quệ cảm xúc do cố gắng nuôi dạy quá nhiều con là hữu ích cho bất cứ ai- ít nhất là những trẻ từ sự sinh sản vô giới hạn. Trong thuật ngừ Phật học, sự kiện chính yếu này vượt qua khỏi mọi mơ uớc riêng tư (muốn có con tùy thích) hoặc là quy luật hay áp lực nhằm cổ võ cho sinh sản theo xã hội hay tôn giáo.

Những đường hướng này gây cho tôi một ấn tượng như một kim chỉ nam hoàn hảo để làm thế nào giải quyết vấn để áp lực dân số và sử dụng tài nguyên. Dầu thế, điều rõ rệt là người có suy luận và lương tâm có thể đồng ý các đường hướng trên lý thuyết, nhưng không đồng ý trên cách thực hành. Hiển nhiên, Trung Đạo không có nghiã là tiêu thụ không ý thức của thế giới thứ nhất, nhưng cũng không có nghĩa là cổ võ sinh sản không cân nhắc về sự dư thừa của thế giới còn lại, kể cả cuả thế giới thứ nhất. Theo quan điểm cuả tôi, điều này bao gồm vài cơ sở kỷ thuật thực sự làm tăng gia phẩm chất của cuộc sống- vườn hoa, thú tiêu khiển, máy điện toán, dàn máy âm thanh nổi, du lịch quốc tế, điện tử, tủ lạnh, giải trí văn hoá và giáo dục nhân bản- những thứ ấy không thể nào đáp ứng cho tình trạng dân số vô giới hạn mà không có cực kỳ suy thoái về môi trường. Vì có nhiều thứ trong cuộc đời phải hy sinh và cần thỏa mản nhiều hơn là sinh sản, thì thật là lố bịch khi phải từ bỏ những di sản văn hoá như thế để có nhiều dân số hơn mà thiếu đi những di sản này.

Lưu truyền “Chủng Tử Giác Ngộ’’: con đường Bổ Đề Tâm theo Đại Thừa và động lực thúc đẩy sinh sản

Vài tôn giáo, kể cả các truyền thống chính tại Á Châu mà Phật giáo cùng chung sống, đều khuyên răn nối dỏi tông đường là một bổn phận tôn giáo. Đối với Phật Tử việc có con không phải là một đòi hỏi tôn giáo chút nào.Theo quan điểm Phật Giáo, người ta không cần phải sinh con để hoàn thành một điều cao cả trong mạng lưới hổ tương cuả các sinh vật hữu tình hoặc là thực hiện được những điều đáng ca ngợi trong cuộc sống. Thật ra, mặc dầu qua các lập luận, trong hình thức bảo thủ, đề cao độc thân tốt hơn là lối sống có gia đình, không có con tốt hơn là sinh con, phần lớn truyền thống Phật Giáo đề nghị sinh sản có thể làm trở ngại cho việc giúp đở thế giới hay là thực hiện những tiềm năng cao nhất của con người. Bởi vì cũng giống như những con người khác, điều quan trọng và thích thú cho Phật Tử là khi khám phá ra cái gì tạo cảm hứng cho họ giử gìn những lý tưởng tôn giáo mà không cần sinh sản và cũng tìm cách thảo luận xem cách sinh sản nào thích hợp.

Lời khuyên sinh con để nối dỏi ảnh hưởng khá mạnh trong một vài truyền thống và tác động thêm thái độ của người khuyến khích sinh sản. Lời khuyên này luôn bao gồm cả những lý thuyết và thực hành, kể cả chê trách là bất hiếu và sai phạm nặng nề bổn phận đạo đức, khi người ta không có con trai, vì mọi người phải lập gia đình và sinh con và phụ nữ có ít hoặc là không có quyền chọn lựa nào hoặc theo một thiên hướng nào ngoài việc sinh con. Những truyền thống này lập luận rằng người ta phải sinh con để hoàn thành một nhiệm vụ hiếm quý, nếu được, còn bao gồm những mệnh lệnh tất yếu không nên sinh sản quá mức, điều này có thể mang đến một vài thái độ thích hợp hơn dựa từ những hình thái cực đoan đến biến dạng cuả Trung Đạo.Thật vậy, những truyền thống này làm nản lòng những nổ lực giới hạn sinh sản và làm cho những người muốn theo đuổi công việc này có cảm tưởng không đáng công nếu họ giới hạn sinh sản, kể cả người đã có con kế tự rồi. Phật Giáo coi việc quan tâm đến thừa tự như là một mở rộng lòng ích kỷ, việc coi mình là trung tâm gây ra đau khổ, nên không hề buộc tín đồ mình nên làm như thế. Và Phật Giáo đã là mục tiêu của nhiều sự chỉ trích từ những tôn giáo khác ở Á Châu, vì không đòi hỏi tín đồ phải sinh sản.

Sự chỉ trích tại Á châu, khi cho Phật Tử là ích kỷ vì không đòi hỏi sinh sản, gây cho họ những cảm tưởng khó chiụ. Phật Tử có hai cách trả lời. Thứ nhất, cách đóng góp quý giá nhất trong mạng lưới liên đới thuộc thế giới hữu tình không hoàn toàn tùy thuộc vào sinh sản. Hơn nửa, sinh sản thường bị thúc đẩy bởi động lực ích kỷ cá nhân. Ta hãy thử nghiệm xét hai lập luận này kỷ lưởng hơn, vì tôi nghĩ rằng cả hai là tài nguyên quan trọng trong việc chống đối tinh thần cho rằng mình là luôn có lý trong lối suy nghĩ đề cao sinh sản.

Những kết luận này về sinh sản không là những giới hạn tiêu cực đòi hỏi bởi những người không tự nguyện. Đúng hơn, trong quan điểm Phật Giáo, những kết luận này bắt nguồn từ những kiến thức sâu xa của người biết mình trong tận cùng muốn gì và cái gì thỏa mãn những ước mơ thầm kín cuả mình. Phật Tử có thể nói rằng trong việc theo đuổi cùng lúc vừa tri thức và vừa từ bi, để đạt tới giác ngộ và ngay cả vượt qua nó, đó chính là điều làm thoả mản những mơ ước sâu xa nhất của chúng ta, vì nó nói lên nhân tính cốt yếu của chúng ta. Trái với suy nghĩ thông thường, cả Á Châu và Tây Phương, Phật Tử không sống theo một lối sống ưu tiên cho tiết chế, thiền định do những mục tiêu tự kỷ nhằm tránh mọi khổ đau. Phật Tử không từ bỏ nối dỏi tông đường như một giá trị tối hậu thay vì để tìm kiếm thoả mản cá nhân. Phật Tử cho là ta không thể nào thỏa mản qua sinh sản, hoặc quan trọng hơn, qua sản xuất kinh tế và tiêu thụ, còn việc những theo đuổi này có thể phổ cập hay không hoặc là những truyền thống xã hội hay tôn giáo có đòi hỏi họ quá cứng rắn hay không là điều không quan trọng.Thay vào đó, chúng ta cần thực hiện tìềm năng tinh thần của chúng ta. Tìm kiếm mục tiêu của cuộc sống qua tiêu thụ hay sinh sản chỉ khuyến khích điều mà Phật Tử gọi là ái ngã, một khuynh hướng có cội rể sâu xa trong con người, chỉ coi mình là chủ yếu, mà cuối cùng chỉ gây khổ đau cho chúng ta.

Đúng hơn, Phật Tử nhìn vấn đề nối dỏi là bình thường so với vun bồi và lưu truyền di sản chung của nhân loại và quyền sinh sản - sự tĩnh lặng và niềm vui của giác ngộ. Thay vì tìm kiếm tự lưu truyền nòi giống qua sinh sản, Phật Tử nổ lực khơi động Bồ Đề Tâm, một hơi ấm quan trọng và lòng từ bi vốn có sẳn trong mọi chúng sinh. Theo cách nói đầy những ẩn dụ của Phật Giáo cổ truyền, chúng ta đã cưu mang Phật Tính (tathagata-garbha= Như Lai Mẩu). Chúng ta nguyện phát triển Bồ Đề Tâm với lòng từ bi nhằm theo đuổi buông xả toàn diện. Thay vì nhìn vấn đề chọn lựa này như một mất mát cá nhân, thì hãy coi đây như là một tìm thấy bản sắc và mục đích cuả riêng mình đầy vui thú trong những lang thang và tìm kiếm lưu truyền không định hướng. ẦHôm nay cuộc sống của tôi trở nên có giá trịỀ được đọc trong những nghi thức cầu nguyện tuân giử Bồ Đề Tâm, lời nguyện quan trọng trong Phật Giáo Đại Thừa. Làm theo lời nguyện này người ta được ca ngợi là đã đi vào trong con đường thuộc về gia đình và giòng dỏi của giác ngộ

Cứ cho rằng Bồ Đề Tâm được coi như thừa kế chính và là tiềm năng cuả mọi sinh vật hữu tình, kể cả con người, thì việc đánh thức và nuôi dưởng Bồ Đề Tâm trong từng cá thể cũng như khuyến khích phát triển nó trong mọi chúng sinh hiện đang nuôi dưỡng liên tục truyền thống gia đình với tất cả những ý nghĩa sâu xa của nó, một ý nghĩa vượt qua mọi giới hạn chật hẹp của nòi giống gia đình, bộ lạc, đất nước hay chủng tộc. Những giá trị như thế nuôi dưởng đích thực sự trường tồn những đặc điểm cao quý nhất của chúng ta mà phương cách được thể hiện qua cách diển dịch hiện đại thuật ngữ Bồ Đề Tâm. Bồ Đề Tâm luôn được dịch là ”Tâm Thân tỉnh thức’’, sư phụ tôi đôi khi dịch là ’“Chủng Tử Giác Ngộ’’, một cách dịch nhằm nhấn mạnh đến Bồ Để Tâm như một trong những đường nét cố hửu căn cơ nhất trong con người và là một di sản cho mọi sinh vật hữu tình. Ai có thể lo âu về sự di truyền nòi giống gia đình khi người ta có thể đánh thức, nuôi dưởng và lưu truyền các chủng tử giác ngộ.

Ngược lại, những động lực thúc đẩy sinh sản thường hoàn toàn chật hẹp và thiếu sáng suốt. Một vài truyền thống tôn giáo đã phê bình tiêu thụ vật chất như phản tác dụng tâm linh: Vài truyền thống khác lại cho sinh sản chỉ nhắm tập trung ích kỷ và cuối cùng là không thoả mản, hoặc sinh sản quá mức sẽ tạo nên nghèo đói tinh thần hay tâm lý cũng giống như tiêu thụ quá mức.Tuy nhiên, Phật Giáo chỉ rõ rằng sinh sản được thúc đẩy từ những động lực vị kỷ, đặc biệt do những mơ uớc di truyền nòi giống và bành trướng tộc họ. Và mơ ước vị kỷ luôn tạo nên đau khổ, đó là điều theo giáo lý cơ bản nhất của Phật Giáo. Phơi bày chổ yếu về sự đa cảm của mình, thèm muốn được sinh sôi nẩy nở, đặt tên cho nó một cách chính xác hay dẹp bỏ những lý tưởng hóa sai lạc về sinh sản quá mức là một điều quá trể. Lý tưởng hoá này thuộc về quan điểm cổ võ sinh sản, nó thúc đẩy nhiều người sinh sản mà trách nhiệm làm cha mẹ không hẳn là một thiên hướng quan trọng. Cho rằng tất cả mọi sinh sản đều có lợi luôn luôn là một ảo tưởng, kể cả ngay trong thờI kỳ mà mật độ dân số ổn định và không hại đến môi sinh; tiếp tục thúc đẩy hay đòi hỏi mọi người sinh sản để di truyền nòi giống trong điều kiện hiện nay là vô trách nhiệm.

Được thúc đẩy bởi mơ uớc duy trì nòi giống, thường các bậc cha mẹ cố gắng sinh con như một bản sao chép lại hình ảnh cuả mình, hơn là sinh con và cho phép nó tự tìm ra một lối sống cá nhân độc đáo trong thế giới. Niềm đau khổ bắt nguồn từ trong những động lực thúc đẩy sinh sản như vậy thường không được để ý và kéo dài qua nhiều thế hệ. Khi người nào đó được cha mẹ dạy nên có con để thay thế cha mẹ và tạo nên những giá trị và lối sống cho con, đó là điều mà tôi không làm được, tôi đã quá quen thuộc vớí những cơn thịnh nộ giáng xuống cho con cái khi nhận ra rằng con cái không còn ràng buộc và làm tròn điều cha mẹ đặt ra. Kinh sách Phật Giáo viết quá nhiều về đề tài này. Thông thường, hiếm muộn là cảm xúc nung nấu cho ham muốn sinh sản.Thật ra, tâm trạng của một số người muốn sinh con hoàn toàn xa rời sự tĩnh lặng được Phật Giáo đề cao.Tôi hoàn toàn nghi ngờ đối với một số người về sự quân bình tâm lý và trong sạch trong những động lực cuả họ khi mà họ cần và mong muốn có con. Theo kinh nghiệm của tôi, hầu hết giới trẻ có học ở thành phố nghĩ rằng kiểm soát sinh sản là vấn đề sinh tử - cả đối với một vài thành phần dân số - nhưng những động lực của họ cho sinh sản càng nhiều càng tốt là điều không thể nào kiềm chế được. Mức chống đối và ngăn ngừa do đề nghị cho rằng có lẽ họ bị thúc đẩy bởi mơ ước di truyền nòi giống hơn là tu tập Bồ Đề Tâm, điều này thuyết phục tôi rằng những nghi ngờ của tôi là đúng.Tôi càng đào sâu mối nghi ngờ của mình hơn nửa, khi những người này chịu bỏ ra chi phí to lớn và chịu những biện pháp khó khăn để được sinh con, thay vì nhận một đứa con nuôi trong những đứa trẻ hiện nay cần được nuôi dưởng trên thế giớí. Cuối cùng, một số người chỉ bị đè nặng bởi những áp lực từ tôn giáo, gia đình hay bộ lạc để sinh con và cũng không hề có những quyết định riêng mình về việc sinh con. Thay vào đó, họ bị thúc đẩy bởi những vị kỷ tập thể, mà hoàn toàn không khác gì vị kỷ cá nhân. Giống như mọi hình thức của vị kỷ, vị kỷ tập thể cũng gây ra đau khổ.

Hàm chứa trong lời kêu gọi này nhằm công nhận sự yếu đuối của động lực thúc đẩy sinh sản là lời kêu gọi đề cao và công nhận giá trị một lối sống không sinh sản. Một trong những vũ khí tâm lý mạnh nhất cuả phe cổ võ sinh sản là không khoan dung cho sự dị biệt trong các lối sống và dèm pha những ngưòi nào có lối sống không giống ai. Những người không có con cũng cần được đề cao là có đóng góp to lớn vào sự lưu truyền cho những tiếp nối tinh thần giác ngộ, thay vì khai trừ và chỉ trích. Là một phụ nữ luôn thực hiện điều cho rằng để đóng góp những tài năng của tôi trong sinh vật hữu tình như một người mẹ, tôi có lẽ không cần phải có con, tôi đã quen với thành kiến nhằm chống lại những người đàn bà không muốn con do chính họ tự chọn lựa. Khởi đầu là sự cào nhào từ bố mẹ chồng cho rằng họ mong muốn biết bao việc có con để nối dỏi và cảm tưởng thất vọng vô chừng khi không đạt được.Tiếp đến là những phản ứng liên tục cho rằng con cái lơ là không theo đuổi ý định có con, và cuối cùng tiếc nuối cho là con cái chỉ vì lòng vị kỷ. Rồi thì sự cô đơn, cảm giác bị ruồng bỏ bắt nguồn từ bạn bè, vì quá bận rộn với đời sống gia đình riêng tư. Cuối cùng, đặc biệt nhất là hầu hết những người đàn ông trung niên ích kỷ, bê tha mà mục tiêu của họ trong mối giao tiếp là lập một gia đình thứ hai với những người đàn bà trẻ, lối sống này được một số người chấp nhận. Thuyết cổ võ sinh sản theo phụ hệ dể dàng đưa tới những định kiến như thế.

Dĩ nhiên, không cần phải nói, sinh sản có thể là một việc làm thích hợp trong việc tu tập của Phật Tử và nhiều tư tưởng tranh đấu cho phụ nử cuả Phật Tử hiện đaị đang khám phá ra những giới hạn của sinh sản như là vấn đề và phương thưc tu tập của Phật Tử. Theo quan điểm của tôi, sinh sản là một chọn lựa có giá trị của Phật Tử và có thể là một lối sống chấp nhận được, nó được thúc đẩy bởi những nguyên lý Phật Giáo trong việc tu tập vị tha, buông xả, từ bi và Bồ Đề Tâm, không phải bởi những đòi hỏi của xã hội và tôn giáo, những quy ước hay phong tục, những mơ ước bị ép buộc, những ngăn trở sinh lý hay là những ước mơ vị kỷ di truyền nòi giống.Tôi tin tưởng rằng những động lực thúc đẩy buông xã và từ bi cho bậc làm cha mẹ là điều hoàn toàn có thể đạt được, mặc dầu không phải bất cứ ở đâu, các bậc cha mẹ nào cũng đều giống nhau.Trong công việc của tôi là một nhà khoa học tôn giáo và Phật Tử tranh đấu nữ quyền, tôi luôn nhấn mạnh đến nhu cầu giới hạn sự sinh sản và sản xuất kinh tế, cũng như chia sẽ gánh nặng này và trách nhiệm đồng đều giửa nam và nữ giới để việc tu tập đầy ý nghiã cuả cư sĩ Phật giáo có thể thực hiện được.

Một lối sống nhằm đề cao sự buông xả theo Trung Đạo, tri thức, từ bi và phát triển Bồ Đề Tâm là đáng khích lệ và được đề cao bởi Phật Tử. Tuy nhiên, trong một vài quốc gia Phật Giáo lối sống tu độc thân trong các tu viện đuợc ưa chuộng hơn là các lối sống khác. Mặc dầu thành tích của Phật Giáo không hoàn hảo, không phải trong tất cả, mà trong một vài xã hội Phật Giáo, phụ nữ đã theo sự chọn lựa lối tu sẳn có này, khi họ không còn coi việc sinh con như là làm tròn bổn phận nửa, trong khi đàn ông lại coi việc các bà mang bầu là điều toại nguyện. Rất nhiều trong thế giới Phật Giáo hiện đại lối sống tu trọn đời nơi tu viện ít phổ biến và ít bền bỉ hơn, nhưng phong trào tu thiền cuả các cư sĩ Phật Giáo hiện đang lan rộng mạnh mẻ, không phải chỉ trong Phật Tử Tây Phương mà ngay tại Á Châu, không phải chỉ nam mà cả nử cư sĩ.Tu tập thiền định nghiêm chỉnh rất là khó khăn và mất nhiều thì giờ. Khi các cư sĩ dấn thân vào đường tu tập, họ phải giới hạn một cách thích hợp mọi hoạt động khác vừa kinh tế và sản xuất. Cả hai việc tiêu thụ quá mức và thặng dư dân số, hai thành tố tác hại đang lan tràn trên thế giới có thể được kiềm chế lại cùng lúc khi nhận đề cao giá trị của tiềm năng con người hướng về thức giác,từ bi và nổ lực thực hiện.

Tri thức gíác ngộ giúp ta thấy được sự tương thuộc của chúng sinh và vượt qua ảo tưởng về sự chọn lựa cá nhân mà không va chạm gì đến phần còn lại trong ma trận cuả cuộc đời.Từ bi giác ngộ giúp ta yêu thương chúng sinh, mà không hẳn là những người trong gia đình, bộ lạc, đất nước hay nòi giống, mà chính vì họ đáng được chăm sóc và quan tâm. Phần lớn nổi khổ đau trong thế giới sẽ giảm đi nhiều nếu cách tu tập buông xả theo Trung Đạo phổ biến sâu rộng những chọn lựa giúp cho con người hiểu phải làm gì về tiêu thụ và sinh sản. Theo quan điểm nhà Phật, Bồ Đề Tâm là một chủng tử giác ngộ không thể hủy diệt, do kế thừa hoặc di truyền từ người mẹ, điều làm cuộc đời có ý nghĩa sung mãn là phát triển từ bi và trở nên hữu ích, - không phải vì di truyền trong ích kỷ, đù đó là ích kỷ cá nhân hay là di truyền gia đinh, bộ lạc hay đất nước.Trong trường hợp này, điều không rõ ràng khi lòng từ bi không được coi như một cái gì đó mà người ta có bổn phận phát huy, hay đúng hơn, như một kế thừa, một khám phá làm cho cuộc đời có giá trị và vui thú hơn. Cổ võ sinh sản khi được coi như một bổn phận tôn giáo hay một nghiả vụ có thể không hề liên hệ gì đến với việc một tín đồ lo gìn giử giác ngộ. Buông bỏ mọi định kiến cổ võ sinh sản và đánh giá cao những đóng góp của họ cho lưu truyền giác ngộ, không phải chỉ di truyền thừa tự, con người có đủ mọi tài năng và buông xả để trỡ thành bậc cha mẹ có thể làm việc ấy một cách tự do, thoát rời mọi động lực bắt nguồn chỉ từ những ràng buộc, bổn phận hay truyền tự trong ích kỷ- và những người nào có những đóng góp khác hơn quan trọng không kém như những bà mẹ thì cũng cần được vinh danh tương tự như vậy.

Tình dục và cảm thông: vài phê bình theo Kim Cang Thừa

Lời khuyên nối dỏi kết hợp với lời phê bình của những chủ trương giới hạn hay từ bỏ sinh sản chỉ là một trong nguồn gốc quan trọng nằm trong tôn giáo của phong trào cổ võ sinh sản. Những nguồn gốc khác thì ít nhất cũng ngấm ngầm. Lập luận tôn giáo chống tình dục thì quá quen thuộc trong tôn giáo, kể cả trong giới cư sĩ Phật Giáo. Thông thường, những sinh hoạt tình dục bị chê trách là một cái gì đó có vấn đề, xấu xa hoặc làm tổn hại tâm linh con người. Những xấu xa, sợ hải hay ngờ vực xoay quanh hoạt động và kinh nghiệm tình dục, dựa trên những lập luận hay quy luật tôn giáo, đưa tới những biểu thức hay kết hợp tượng trưng, mà tất cả đều nhằm cổ võ cho sinh sản, và trong đó có một vài tác dụng tiêu cực khác. Coi những kinh nghiệm tình dục như là một điều cấm đoán thì sẽ không thể nào phát triển tình dục trong ý thức và trách nhiệm.

Điều tiên khởi của những biểu thức chủ yếu do từ sợ hải tình dục nằm trong tôn giáo là có sự đồng nhất giửa tình dục và sinh sản. Niềm tin này quá mạnh trong một vài truyền thống tôn gíáo. Một vài tôn giáo tán thành quan điểm cho rằng mục đích chủ yếu, nếu không nói là giá trị duy nhất, cuả tình dục là sinh sản. Quan hệ tình dục mà không nhắm tới sinh sản chỉ sinh ra những hậu quả đồi bại đạo đức hay tinh thần cho những người đam mê tình dục.Tuy nhiên, những liên hệ tiềm tàng giửa hoạt động tình dục và sinh sản không thể hoặc không nên đặt thành vấn đề hoặc đóng kín. Những hoạt động tình dục như thủ dâm hay đồng tình luyến ái hoặc luyến ái với người khác giới mà không sinh sản không được khuyến khích hoặc lên án.Tuy nhiên, hậu quả cuả những quan điểm này thường là lập luận hổ trợ giới cổ võ sinh sản. Khuyến khích người ta nghĩ xấu về tình dục dường như không ngăn trở được những hoạt động tình dục một cách đáng kể. Nhưng vì người ta được học tập là luôn có quan hệ giữa tính dục và sinh sản, hoặc vì người ta bị cấm đoán tiến thêm một bước để tách biệt hai vấn đề này ra, những quan hệ tình dục đưa đến kết quả sinh suất cao độ, khi cộng thêm với tình trạng tử suất xuống thấp, sẽ tạo nên một tình trạng gia tăng dân số quá mức.

Phá vở biểu thức đạo đức giữa hoạt động tình dục và sinh sản là một công việc cốt yếu nhất, cho đến chừng nào mà chuyện quan hệ tình dục không sinh sản gây nản lòng hay bị kết án, tỷ lệ sinh suất cao còn tiếp tục. Biểu thức này dể bị phá vở khi ta tự hỏi vấn đề nền tảng đâu là chức năng chủ yếu của tình dục trong xã hội con người. Điều này rất rỏ, khi ta so sánh thái độ tình dục của con người với hầu hết các thú vật. Nhiệm vụ chủ yếu của tình dục trong xã hội con người là cảm thông và gắn bó. Không giống như chủng loài khác, hoạt động tình dục giửa con người với nhau có thể và thừơng xảy ra, kể cả khi thai nghén không đạt được, dù là họ muốn, vì phụ nữ không có khả năng thụ thai. Những kinh nghiệm tình dục không sinh sản rất quan trọng trong sự gắn bó và cảm thông giữa những cặp vợ chồng và cho xã hội con người. Thêm vào đó, tình dục, khi đã được hiểu biết và kinh qua, là một trong những phương thức mạnh nhất trong cảm thông của con người. Thật vậy, sinh sản ít quan trọng hơn và thường ít là kết quả của hoạt động tình dục. Như vậy, khi đề ra quy luật quan hệ tình dục phải đưa tới tiềm năng sinh sản, nếu không hoạt động tình dục dẩn đến vẩn đục đạo đức hay tâm linh, thì thật là điều không thích hợp. Thay vào đó, tình dục với ý thức phải được coi là tình dục có đạo đức, được khích lệ bởi các tôn giáo, như khi sử dụng biện pháp kiểm soát sinh sản, trừ khi có ý định mang thai trong điều kiện thích hợp và trách nhiệm.

Quan điểm tình dục có quan hệ chặt chẻ với sinh sản gắn liền đến những biểu thức khác mà trong cách hàm ý này cũng coi như là cổ võ sinh sản. Khi tình dục không thể tách rời ra được sinh sản, và khi người đàn bà không có bản sắc giá trị và cần được đề cao hay một vai trò văn hoá nào khác hơn là làm mẹ, thì hầu hết những người đàn bà đều muốn được làm mẹ. Thật vậy, đặc điểm biểu trưng và quen thuộc giửa phụ nữ và người mẹ được công nhận là như vậy. Cách đây vài năm, mổi người đều cho rằng tính cách thần thánh của người mẹ hẳn nhiên là làm cho ngưòi mẹ là Thánh Nử. Tôi nhớ rất rõ thái độ này khá lan rộng khi tôi bắt đầu học cao học về lịch sử các tôn giáo. Tuy nhiên, sự giả định tất cả mọi bà mẹ là thần thánh này chứng tỏ cho thấy là ngây thơ và ràng buộc với văn hóa. Khi tìm hiểu huyền thoại và biểu tượng về một người mẹ thần thánh, nhất là thoát ra khỏi những tiêu biểu đặc trưng văn hoá về mục đích của phụ nữ, người ta khám phá tính cách thần thánh của phụ nữ có nhiều yếu tố đóng góp trong đó, đôi khi thay vì là người mẹ. Người mẹ là người bạn đời, bảo vệ, người thầy, người hướng dẩn văn hoá, thầy về các loại nghệ thuật, bảo trợ tài sản... Không phải chỉ trong huyền thoại những ràng buộc của họ về các hoạt động văn hoá khác tùy thuộc vào những sinh vật không dục tính. Trong huyền thoại người ta bắt gặp một vài phụ nử thần thánh có những quan hệ tình dục, nhưng không là những người mẹ hoặc là sinh sản không được đề cập. Hiển nhiên, những biểu tượng tôn giáo và huyền thoại về những phụ nữ có quan hệ tình dục mà không có con không hổ trợ cho cổ võ sinh sản. Tuy nhiên, chú ý về cứu cánh là cần thiết. Cần phải cực kỳ thận trọng trong việc tái tạo tượng trưng tình mẩu tử trong tranh đấu cho nữ quyền hiện đại, vì e rằng nhiều biểu tượng lại cũng cố thêm những đặc trưng cho là nguời đàn bà luôn là người mẹ, hiểu theo nghĩa đen.

Biểu thức thứ ba quan hệ đến sự nuôi nấng trong tình mẩu tử, một đặc trưng quá quen thuộc trong tôn giáo cổ truyền và trong văn hoá dân gian và tâm lý học. Hậu quả tiêu cực và giới hạn cuả biểu thức này rất đa dạng, không phải vì ít nhất nó là đường lối mà biểu thức này giử vai trò trong chương trình hành động của giới cổ võ sinh sàn. Nếu nuôi nấng được định nghĩa một cách hạn hẹp, thì người nào muốn nuôi duởng sẽ thấy là không có cách nào khác hơn là chon lựa con đường làm bậc cha mẹ. Phương thức giửa nuôi dưởng con và làm cha mẹ hổ trợ cho định kiến chống lại những người không con đã được thảo luận, bởi vì thật dể dàng cáo buộc rằng họ là ích kỷ và không nuôi nấng. Tuy nhiên, điều hàm chứa quan trọng nhất trong phương thức này là sự giới hạn hiểu biết về cách nuôi dưởng. Nếu nuôi dưởng quan hệ chặt chẻ với tình mẩu tử, thì các sự chăm sóc khác đều không được coi là nuôi dạy và cũng không còn khích lệ nửa, đặc biệt là ở những bậc nam giới. Giả đoán rằng nuôi nấng là một công việc chuyên môn hay một độc quyền và trọng trách cuả bà mẹ, đây là một di sản nguy hiểm nhất của những đặc trưng theo chế độ phụ hệ. Vì sức mạnh của khuôn mẩu này, người ta thường cho rằng khi các bà theo các phong trào tranh đấu nữ quyền không muốn lệ thuộc khuôn mẩu phụ hệ, cũng sẽ không nuôi dạy con cái. Nhưng hiển nhiên, những phê phán về các bà theo phong trào này không hẳn là chỉ trích vấn đề nuôi dạy. Đó là một phê phán về những cung cách mà nam giới bị cáo buộc là không lo gì đến dạy dổ, mà chỉ giới hạn công việc này cho nữ giới, và rồi nữ giới coi nuôi dưởng như ngục tù giam hảm với vai trò trong khuôn mẩu phụ hệ. Tranh đấu nữ quyền không hẳn chỉ là giới hạn nuôi dạy hay ngay cả làm nản lòng cho công việc ấy, nhưng là phải công nhận tính đa dạng của mọi hình thái nuôi dưởng và kỳ vọng điều ấy là của mọi người trong xã hội. Vì nuôi dạy là quý báo và thiết yếu cho sinh tồn con người, điều chỉ trích là những tư tưởng của chúng ta về những gì có nghiã là nuôi nấng phải vượt qua hình ảnh của tình mẹ chăm lo thể xác, mà hướng tới những hoạt động khác như dạy dổ, chửa trị, chăm sóc môi trường, dấn thân vào những hoạt động xã hội.. Tất cả con người, kể cả nam giới, đều được định nghiã là những người trực tiếp nuôi dạy và hướng dẩn những kỷ thuật nuôi dưởng, hơn là giao khoán công việc này cho các bà mẹ, đây cũng là điều quan trọng không kém.

Vì một vài nguồn gốc của sự sợ hải, nghi ngờ và tội lổi xoay quanh tình dục nằm trong tôn giáo, một loại giải pháp tôn giáo, mà đúng hơn là giải pháp thế tục và tâm lý. Quan điểm tình dục phải có ý nghiã đối vớí việc thảo luận về đạo đức tôn giáo, dân số, tiêu thụ và môi trường. Đánh giá tình dục theo tôn giáo như một biểu tượng thiêng liêng và kinh nghiệm này sẽ giúp nhiều hơn là gây tổn haị đến phát triển tâm linh, điều này cần nên đưa vào trong những nhận xét liên quan trong diễn đàn này. Kim Cang Thứa Phật Giáo, một hình thái cuối cùng cuả Phật Giáo Ấn Độ được phát triển, mà ngày nay rất quan trọng tại Tây Tạng và càng trở nên có ý nghiã tại Tây Phương, bao gồm như cả một tài nguyên... Không cần phải nói, điều chủ yếu là thảo luận về Kim Cang Thừa Phật Giáo phải tách rời ra khỏi những chuyện khêu gợi dục tình mà thật sự làm căn gốc cho sợ hải và tội lổi về tình dục.

Biểu tượng và thực hành về tình dục thanh cao, như đã được tìm thấy trong Kim Cang Thừa Phật Giáo Tây Tạng là điều hoàn toàn xa lạ trong các truyền thống tôn giáo, kể cả những truyền thống đã quen thuộc với quần chúng phương Tây. Trong Kim Cang Thừa Phật Giáo có một ưu điểm quen được sánh đôi, trí thức và từ bi được nhân cách hoá như là đàn ông và đàn bà. Không những cả hai được nhân cách hóa, cả hai được tô vẻ và tạc tượng khi họ yêu nhau, thường được gọi là những hình tượng yab-yum. Hình tượng này thường được sử dụng làm cơ bản cho tu tập suy niệm và thiền định, kể cả tự tưởng tượng khi cặp này đang yêu nhau. Sau một vài năm làm việc với những hình tượng này cá nhân tôi hoàn toàn bị thu hút bởi sức mạnh khai phóng và an lạc trong các biểu tượng này. Thay vì coi tình dục là một chuyện riêng tư và một cái gì đó bối rối, có lẽ là sự xoá tội, tình dục cần phải được mô tả công khai như một biểu tượng của chân lý tôn giáo thâm sâu nhất và như một thực tập thiền định cho việc phát triển sự giác ngộ bẩm sinh của con người.

Một trong những hàm ý xâu xa nhất cuả hình tượng yab-yum và chủ điểm của nó là sự giao tiếp chủ yếu của con người thường được biểu tượng hoá thực tại là mối quan hệ chồng vợ bình đẳng, nam và nữ được coi như hai người bạn đời, cùng hợp tác và cùng chung vui với nhau. Điều này tương phản khá sâu đậm với khuynh hướng nhằm giới hạn biểu tượng tôn giáo trong mối quan hệ cha mẹ với con cái hoặc là như giửa Đức Chúa Cha và Con hay Đức Mẹ va Con. Đây là điểm quen thuộc trong các truyền thống tôn giáo. Nó cũng tương phản mạnh mẻ với sự ghê tởm của tình dục thần thánh, mà cũng là một vấn đề trong các tôn giáo này. Ngườì ta đành phải suy đoán rằng ca ngợi công khai tình dục như là kinh nghiệm thiêng liêng và tạo thông cảm và chuyển hoá sâu xa giữa đôi bạn tâm linh, nó sẽ làm suy giảm đáng kể thuyết cổ võ sinh sản, mà thuyết này dựa trên niềm tin tình dục mà không sinh sản là sai lầm.

Trong phạm vi những quan hệ nhân sinh hơn là những biểu tượng tôn giáo- tới một chừng mực mà cả hai có thể tách ra được-, biểu tượng này, theo Kim Cang Thừa Phật Giáo, đã dẩn nam và nữ đến một khà năng kết hợp thành đôi vợ chồng cùng trong tâm linh và cùng theo một pháp môn. (Vấn đề đồng tình luyến ái có thể được không là một câu hỏi khó trả lời). Mối quan hệ như thế không phải là một sự sắp xếp riêng tư theo quy ước hoặc một dự phóng lãng mạn và ràng buộc, mà là một tình bạn, một sự giúp đở lẩn nhau trên con đường tu tập tâm linh. Tình dục được coi như một yếu tố nội tại, nhưng không phải là mấu chốt của một mối quan hệ như thế. Dầu tương đối bí truyền, mối quan hệ này đã và đang được công nhận và đề cao trong Kim Cang Thừa Phật Giáo Bắc Ấn Độ cũng như Phật Giáo Tây Tạng. Phật Tử Tây Phương bắt đầu khám phá hoặc khám phá lại tiềm năng này, một khả năng kết hợp vợ chồng như một mối quan hệ bằng hửu giữa hai con người cùng tìm kiếm một con đường và cũng là một phương cách tìm hiểu và cảm thông với “tha nhân’’ sâu thẩm trong thế giới hiện tượng. Đề cao, làm bình ổn và xưng tụng mối quan hệ này sẽ làm giảm đi đáng kể những thành kiến cuả giới đề cao sinh sản liên quan vai trò tình dục trong đời sống con người, cũng như đóng góp quan trọng vào việc tạo lập một khuôn mẩu trong tình tương quan đầy lành mạnh,trân trọng và bình đẳng giữa nam nữ.

Đỗ Kim Thêm chuyển ngữ

Nguyên bản Anh ngữ: Buddhist Resources of Issues of Population, Consumption and the Environment được đăng trong Mary Evelyn Tucker and Dunncan Ryuken Williams (eds.): - Buddhism and ecology: the interconnection of dharma and deeds, Harvard University, Center for the Study of World Religions, Cambridge Mass: Harvard Uni Press, 1997 pp. 291- 311.

Rita M. Gross, Giáo Sư Khoa Học Tôn Giáo Đối Chiếu Đại Học Wisconsin, Eau Claire, tác giả các cuốn sách

- Buddhism after Patriarchy: A Feminist History, Analysis and Reconstruction of Buddhism (State University of New York Press, 1993) và

- Feminism and Religion: An Introduction (Beacon Press 1996). (Chú thích của người dịch)

Những chữ in nghiêng trong nguyên bản (Chú thích của người dịch)

Kim Cang Thừa còn được gọi là Chân ngôn tông, xuất phát từ Bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 5, du nhập

và phát triển mạnh tại Tây Tạng, giáo pháp mang tính Mật Giáo, phương pháp tu học huyền bí, bao gồm tôn giáo thiên nhiên cuả Ấn Độ và Phật Giáo, đặc biệt có tôn thờ giới tính và hình tượng nam nữ yêu nhau. (Chú thích của người dịch)

Các tin đã đăng: