Đạo
đức Phật Giáo không đặc biệt chủ ý cấm đoán bất cứ một thứ gì và cũng 
không  bắt buộc phải giữ một thái độ nhất định nào, mà đúng hơn chỉ 
khuyên chúng ta  phải tránh một số thái độ hành xử nào đó. Các 
giới luật đạo đức Phật Giáo  không phải là các phán lệnh mang tính cách 
tuyệt đối và được thiết lập dựa vào  lý trí.
Các phương thuốc của thế giới này,
 đa dạng và nhiều vô kể,
 Thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
 Vì thế, này các tỳ kheo, hãy cầm bát thuốc lên mà uống.
 Uống bát thuốc Đạo Pháp,
 sẽ không còn tuổi tác nữa, sẽ vượt sang bên kia cái chết,
 và sẽ khơi động và quán thấy được sự thật,
 Này các tỳ kheo, đấy là cách giúp cho hết khát, 
 và sẽ giải thoát khỏi cái khát.
 Đức Phật
Lời giới thiệu của người dịch: Trong một quyển sách 
nhỏ mang tựa đề "Phật  Giáo nhập môn" (ABC du Bouddhisme, nhà xuất bản 
Grancher, 2008), tác giả Fabrice  Midal đã dành một chương để trình bày 
về vấn đề Đạo Đức và các Giới Luật trong  Phật Giáo. "Tam giới" hay "ngũ
giới" là những gì khá sơ đẳng và "quen thuộc" ít  nhất là đối với những
người tu tập đang bước trên Con Đường, thế nhưng dưới ngòi  bút của 
Fabrice Midal chúng ta cũng sẽ khám phá ra một vài góc nhìn thật mới lạ.
Dưới đây là phần chuyển ngữ toàn bộ chương III (tr. 43-59) của quyển 
sách, trình  bày về chủ đề này. Người dịch cũng xin mạn phép được ghép 
thêm một vài lời ghi  chú với hy vọng nhằm giúp người đọc dễ theo dõi 
hơn ý của một vài câu trong bản  gốc. Các ghi chú này sẽ được trình bày 
bằng chữ nghiêng và được đặt trong hai  dấu ngoặc.
*****
Phật Giáo có khuyến khích đạo đức hay không, và nếu có thì các nguyên tắc của đạo đức ấy là gì?
Câu hỏi trên đây có vẻ thật đơn giản thế nhưng thực ra thì vô cùng phức tạp. Vậy  trước hết theo chúng ta thì đạo đức là gì ?
Đối với cơ sở triết học siêu hình Tây Phương cũng như đối với các tôn
giáo  dựa vào Kinh Thánh thì đạo đức là sự tùng phục các tiêu chuẩn 
mang tính cách  siêu nhiên, chẳng hạn như về cái xấu hay cái tốt do 
Thượng Đế quy định hay là do  lý trí áp đặt.
Phật Giáo không hề chủ trương một khái niệm nào tương tự như thế.
Thật ra có thể nói đấy là cách giúp chúng ta biết cư xử một cách  đúng đắn.
Các lời kinh trong Phật Giáo không phải là các giới luật được  thiết 
đặt sẵn hay các sắc luật ghi trên các tấm bảng biểu trưng cho luật pháp  (ý muốn nói đến các tấm bảng bằng đá ghi khắc luật pháp  của các tôn giáo dựa vào Kinh Thánh).
Các lời dạy của Đức Phật không  phải là những phán lệnh của một vị Trời
độc tôn, bất biến, toàn năng và sáng tạo  ra tất cả. Luân lý Phật Giáo 
hoàn toàn độc lập với bất cứ một ý chí tối thượng  hay một cách hành xử 
thiêng liêng nào. Luân lý Phật Giáo được xây dựng dựa vào  sự quan sát 
phương cách mà chúng ta đang sống, và mỗi con người trong chúng ta  đều 
có thể làm được việc ấy (có nghĩa là 
mỗi người  trong chúng ta phải tự nhìn lại mình, quán xét hành động của 
chính mình và tạo  cho mình một cách hành xử phù hợp với luân thường đạo
lý).
Theo một cách hiểu nào đó, nếu xem Phật Giáo như là một thứ giáo điều (doctrine) thì tức khắc chúng ta sẽ phải đối đầu với một sự bế tắc không lối thoát (nếu
xem Phật Giáo là một giáo thuyết với các giáo lệnh được quy định sẵn, 
thì luân  lý Phật Giáo không thể mang tính cách tự nguyện được, vì đấy 
sẽ là một sự nghịch  lý). Vậy thì có một hình thức Phật Giáo chính thống hay nguyên thủy  nào tương tự  như Ki-tô Giáo hoặc Hồi Giáo hay không?
Nhất định là không!
Điểm then chốt chính là chỗ đó. Nếu Phật Giáo trở thành một giáo 
thuyết với  các lề luật và quy tắc được quy định sẵn, thì đấy sẽ là cách
mà Phật Giáo tự  chối bỏ mình. Chúng ta (những người Phật Giáo)
không nên tìm kiếm một nền tảng đạo đức dưới hình thức giáo điều để 
theo đó mà  nhắm mắt tuân thủ. Chúng ta phải tự quán xét xem mình đang 
làm gì, đang mong ước  điều gì và đang sống như thế nào...
Đạo đức chỉ có thể phát sinh từ đáy lòng của mỗi con người nhằm giúp 
chúng ta  hòa nhập một cách tuyệt đối với một thực tại đúng như thế, 
bằng một sự mở rộng  thật kiên quyết của lòng mình.
Những lời mà Đức Phật đã nói lên sở dĩ luôn giữ được sự sinh động cho
đến  ngày nay cũng vì đấy là những lời dành cho chúng ta, bảo vệ chúng 
ta và khiến  cho chúng ta phải xúc động (những
lời khuyên bảo của  Đức Phật vang lên trong lòng mình khiến cho mình 
phải xúc động thì cũng chẳng  khác gì như Đức Phật đang dạy bảo mình, 
khuyên nhủ con tim của chính mình trong  ngày hôm nay và trong những 
giây phút này, và đấy chính là sự sống động trong  những lời giáo huấn 
của Đức Phật. Sự sống động đó chính là căn bản của Đạo Đức  Phật Giáo, 
và nhất thiết đấy không phải là một cơ cấu luân lý áp đặt, mang tính  
cách tuyệt đối và bất di dịch). Nếu nhìn theo góc cạnh đó 
thì nhất  định sẽ không có gì phi lý hơn là cách cố tình thiết lập một 
căn bản lý thuyết  nhằm dựa vào đó để tạo dựng một nền móng đạo đức Phật
Giáo.
Tất cả các vấn đề đạo đức mà thế giới Tây Phương thường mang ra tranh cãi -  chẳng hạn như các vấn đề tình dục (đồng tính luyến ái,  bao cao-su, thuốc ngừa thai, v.v...), tự tử, gây chết bằng các phương  tiện y khoa để tránh đau đớn (euthanasia),  các thái độ hành xử trong xã hội (comportement social /  social behavior)... - không mang cùng ý nghĩa với tinh thần Phật Giáo (các
xã hội Đông Phương ngày nay thật ra cũng đã bị thu  hút bởi các giá trị
vật chất của thế giới Tây Phương và cũng ôm luôn cả các vấn  đề đạo đức
không lối thoát và đôi khi rất phi lý mà không hề hay biết).
Động cơ thúc đẩy và sự cảnh giác trong tâm thức của mỗi cá nhân con 
người nhằm  ứng xử với từng bối cảnh cá biệt xảy ra vào một thời điểm 
nhất định, sẽ quan  trọng hơn nhiều so với cách chỉ biết tìm kiếm một 
giải pháp bất di dịch. Phật  Giáo không phải chỉ biết nhấn mạnh đến tính
cách tương đối của mọi hiện tượng  (tính cách vô thường và ảo giác của mọi hiện tượng biểu  trưng cho một sự thật tương đối) mà còn nêu cao giá trị cá biệt nơi  mỗi con người trong từng tình huống.
Đối với Phật Giáo thì luân lý chỉ  mang tính cách tạm thời và chắp vá, 
luôn tìm cách để thích ứng với chuỗi dài lôi  kéo bất tận giữa hành động
và hậu quả. Thật thế, nếu tìm cách cụ thể hóa cái  chuỗi dài liên kết 
đó để biến nó trở thành một thứ gì cứng nhắc thì quả thật đấy  sẽ chỉ là
một chuyện hoài công.
Trên đây là những gì cho thấy Đức Phật khác hẳn với các vị sáng lập ra các  tôn giáo khác. Moses (vị sáng lập ra Do Thái Giáo) cho khắc Luật Pháp vào một tấm đá và dân tộc của Ngài phải theo đó mà tuân  thủ, nếu vi phạm vào đấy thì sẽ bị Trời trừng phạt (xin  ghi chú thêm là tác giả lớn lên trong một gia đình Do Thái Giáo).  Toàn bộ tập thể xã hội phải trung thành với Luật Pháp đó.
Viễn ảnh mà Đức Phật mở ra thì lại hoàn toàn khác hẳn. Đức Phật đã 
làm gương  cho chúng ta noi theo để tự nhìn lại mình và biến cải lấy 
mình.
Đạo đức Phật Giáo luôn gắn liền với thiền định như thế nào?
Muốn thấu triệt ý nghĩa của đạo đức Phật Giáo là gì thì nhất thiết 
phải ý  thức được là nền tảng đạo đức đó không thể tách rời ra khỏi 
thiền định, tức có  nghĩa là chúng ta phải hành xử như thế nào để giữ 
cho sự an bình luôn sinh động  trong con tim của mình.
Đối với chúng ta (những người Tây Phương)
thì luân lý giữ vai trò quy định các lề lối hành xử mà chúng ta phải 
noi theo.  Thế nhưng trên phương diện thực hành thì lại không hề bảo cho
chúng ta biết là  phải làm như thế nào. Chẳng hạn như dạy cho trẻ con 
và lứa tuổi vị thanh niên  phải tuân thủ một số các quy tắc nào đó, thế 
nhưng lại không giải thích cho  chúng hiểu là sự tuân thủ đó nhất thiết 
phải phát xuất từ chính nội tâm của  chúng (thí
dụ chúng ta dạy bảo trẻ con không được giết  hại thú vật, thế nhưng lại
không giải thích cho chúng hiểu đấy là cách giúp  chúng biết kính trọng
và yêu thương sự sống, và đấy cũng là cách tập cho chúng  biết phát 
động tinh thần bất bạo động).
Chúng ta (những người Tây Phương)
không  hề ý thức được là chúng ta chỉ biết quan tâm đến khía cạnh lý 
thuyết của đạo đức  để nhằm phân biệt nó với thực hành, và đối với phần 
thực hành thì chúng ta lại  chỉ xem đấy là cách ứng dụng các nguyên tắc 
đã được thiết đặt từ trước bằng lý  trí (tức là lý thuyết).
Sự tách rời đó hoàn toàn xa lạ đối với Phật Giáo. Bởi vì theo quan 
điểm của  Phật Giáo thì bất cứ một tư duy nào không phát sinh từ kinh 
nghiệm cảm nhận của  con người tại nơi này và trong giây phút này đều 
nhất thiết chỉ là một thứ tư  duy lạc hướng (rơi ra ngoài hiện thực và mất hết giá  trị thiết thực của nó).
Con đường của Đức Phật cho biết rằng chúng ta  luôn bị che khuất bởi 
các dấu vết lưu lại từ các sự tin tưởng quả quyết và các  niềm tin sẵn 
có của mình. Tìm cách thoát ra khỏi những thứ ấy - thì đấy mới là  một 
thứ tư duy sinh động! Trên phương diện ứng dụng nếu tư duy ấy không đủ 
sáng  suốt hầu giúp chúng ta đối phó với một cảnh huống xảy ra thì tư 
duy ấy cũng sẽ  chỉ là một thứ tư duy mù quáng và vô hiệu lực (thoát
ra  khỏi những sự quyết đoán và các niềm tin sẵn có mới có thể mang lại
cho mình  những tư duy sinh động - tức là sự tự do - thế nhưng các tư 
duy tự do đó nếu  không hòa nhập được với các kinh nghiệm cảm nhận của 
chúng ta trước hiện thực  nhằm giúp chúng ta ứng xử một cách thích nghi 
với mọi cảnh huống xảy ra thì các  tư duy ấy dù là tự do nhưng cũng chỉ 
là các tư duy mù quáng và rời xa hiện thực).
Đối với Đức Phật thì dù cho ta có hành động phù hợp với luân lý đi 
nữa thế  nhưng nếu trong lòng mang đầy oán hận và lo sợ thì đấy không 
phải là một hành  động đạo đức đích thật (dù
bên ngoài là một hành động  đạo đức thế nhưng sự oán hận và lo sợ trong
lòng sẽ in đậm dấu vết trên dòng tri  thức của mình để tạo ra nghiệp 
không tốt lành cho chính mình). Trái  lại, đôi khi cũng cần 
phải hành động một cách thô bạo, bất chấp các tiêu chuẩn  luân lý thông 
thuờng hầu có thể đáp ứng một cách thích đáng hơn với một cảnh  huống 
xảy ra (thí dụ như phản kháng thật 
quyết liệt  nhằm chận đứng một hành động hung bạo để bảo vệ sự công bằng
và nhân đạo, hoặc  để che chở cho một chúng sinh đang bị lâm nguy chẳng
hạn).
Vậy thì có những khác biệt nào giữa các giới luật đạo đức 
Phật Giáo và các phán lệnh bất di dịch của luân lý Tây Phương, chẳng hạn
như những gì đã được triết gia Kant nêu lên và đã ăn sâu vào đời sống 
trong xã hội phương Tây?
Đạo đức Phật Giáo gồm có năm giới luật, và trong số này thì ba giới 
luật đầu  tiên mang tầm quan trọng lớn hơn so với hai giới luật sau 
cùng.
Năm giới luật ấy như sau:
- Tránh không giết hại các sinh vật có giác cảm
- Tránh không trộm cắp
- Tránh không giao du tính dục gây ra phương hại
- Tránh không nói dối, không ăn nói ba hoa vô tích sự hay là nói những lời vu  khống
- Tránh không dùng những chất độc hại
Đạo đức Phật Giáo không đặc biệt chủ ý cấm đoán bất cứ một thứ gì và 
cũng  không bắt buộc phải giữ một thái độ nhất định nào, mà đúng hơn chỉ
khuyên chúng  ta phải tránh một số thái độ hành xử nào đó. Các
giới luật đạo đức Phật  Giáo không phải là các phán lệnh mang tính cách
tuyệt đối và được thiết lập dựa  vào lý trí, và theo quan điểm của Kant
(một triết gia  người Đức,1724-1804, sáng lập ra thuyết "lý tưởng siêu nhiên" - transcendental  idealism)
thì các phán lệnh ấy đồng thời cũng là các bổn phận mang  tính cách 
thực dụng và có giá trị toàn cầu. Trái lại các giới luật đạo đức Phật  
Giáo thì chỉ là các chuẩn mực được thiết đặt dựa vào sự quan sát về cuộc
sống  con người. Theo Đức Phật thì con người cần phải biến cải tâm thức
mình tương tự  như một nhà thể thao phải luyện tập cơ thể. Động cơ thúc
đẩy chúng ta trong  quyết tâm đó chính là lòng mong muốn sao cho mình 
ngày càng biết xử thế một cách  nhân bản hơn trước mọi cảnh huống và 
trong từng giây phút một. Sự quyết tâm đó  chỉ có thể xuất phát từ nơi 
con người của chúng ta trong sự toàn vẹn của nó -  không phải chỉ dựa 
vào các cách suy nghĩ đạo đức, vào lý trí hay luân lý là đủ.
Hầu hết những người bước theo con đường Phật Giáo đều tự nguyện tuân 
thủ ba  giới luật đầu tiên, hoặc tất cả năm giới luật, hoặc có thể là 
nhiều hơn. Họ chọn  một thời điểm nhất định nào đó trong ngày để ôn lại 
các giới luật phải giữ (chẳng  hạn như
trước khi đi ngủ, vào buổi sáng khi thức dậy... phải dành ra vài phút 
để  nhớ đến các giới luật mà mình quyết tâm tuân thủ).
Tránh không sát sinh có nghĩa là gì?
Không sát sinh có nghĩa là không được phép tước đoạt sự sống của bất cứ một  sinh vật nào. Sát nhân tất nhiên phải bị cấm đoán (không  thể chấp nhận án tử hình trong một quốc gia thấm nhuần Phật Giáo)
thế  nhưng sự cấm đoán đó cũng phải được tôn trọng đối với tất cả sinh 
vật từ các  loài sinh vật có vú, cho đến chim chóc, cá và cả các loại 
côn trùng. Đối với  Phật Giáo, sự sống của tất cả các loài sinh vật có 
giác cảm nhận biết được khổ  đau đều phải được tôn trọng. Chúng ta không
được phép gây ra đau đớn cho bất cứ  một sinh vật nào.
Đối với Đức Phật, sát sinh có nghĩa là cố tình tước đoạt sự 
sống của  một chúng sinh. Người tu hành phải tuân thủ một số giới luật 
do chính Đức Phật  đưa ra, và hơn thế nữa Ngài còn giải thích thật rõ 
ràng thế nào là một hành động  sát sinh:
- [Trước hết] phải có một sinh vật (sự hiện hữu đích  thật của một chúng sinh bên ngoài tâm thức)
- Chúng ta nhận biết là có một sinh vật (sự xuất  hiện của một đối tượng bên trong tâm thức)
- Chúng ta phát lộ ý định sát sinh (tác ý xuất hiện  trong tâm thức)
- Chúng ta giết con vật bằng cách sử dụng một phương pháp nào đó (tác  ý chuyển thành hành động)
Sở dĩ Đức Phật phân tích quá trình trên đây là để nhấn mạnh đến vai 
trò của  xung năng bên trong tâm thức thúc đẩy chúng ta hành động. Đấy 
là cách nhắc nhở  chúng ta luôn phải gia tăng sự cảnh giác, và phải hiểu
rằng một con côn trùng  cũng là một sinh vật có giác cảm (être
sentant, être  sensible / sensitive being / một chúng sinh biết đau 
đớn. Một vài kinh sách  tiếng Việt dịch chữ này từ tiếng Hán là "chúng 
sinh hữu tình" (?), thì đấy là  một cách dịch không đúng nghĩa)
do đó chúng ta không được phép tước  đoạt sự sống của nó; và nếu ý thức
được như thế thì đấy cũng sẽ đã là một cách  tu tập. Nếu trông thấy một
con côn trùng bò đến gần mình (hay bám vào người mình)
thì  đấy cũng không phải là một lý do để mà đương nhiên giết nó. Tránh 
không giết nó  sẽ giúp chúng ta ý thức được một cách thật minh bạch là 
chúng ta vừa phát động  được cả một cơ cấu vận hành (trong tâm thức mình) giúp mình không gây ra khổ đau, và hơn nữa còn giúp mình không áp đặt uy quyền  của mình lên bất cứ một thứ gì.
Sát sinh là một hành động vô cùng hung bạo vì đấy là một hành động hủy diệt  hiện thực (sự sống của một sinh vật cũng là thành phần  của hiện thực và trong cái hiện thực đó cũng có sự sống của chính mình).  Trong khi đó con đường của Đức Phật lại là cách phải biết đón nhận hiện thực  đúng như thế (tức trong sự toàn vẹn của nó).
Tại sao lại không được trộm cắp?
Đức Phật dạy chúng ta không được lấy bất cứ gì mà người khác không cho mình.
Hành động nghe người khác nói cũng đã là một cách cho thấy chúng ta 
đang tiếp  nhận rất nhiều thứ không thuộc của mình, tuy rằng không mấy 
khi chúng ta ý thức  được điều ấy. Đấy là cách mà chúng ta thường vơ 
quàng nhiều thứ thuộc vào lãnh  vực tình cảm và xem đấy là sở hữu của 
chính mình, đấy chẳng qua cũng vì chúng ta  bị thúc đẩy bởi các thứ ham 
muốn dưới các hình thức tình cảm mà mình đang thiếu  thốn hay không có.
Con đường của Đức Phật khuyên chúng ta nên can đảm nhìn thẳng vào các
thứ cảm  tính ấy để hiểu rằng chúng phát sinh từ một sự thiếu tự tin 
thật phi lý (chúng  ta cần đến một số 
xúc cảm yêu thương chẳng hạn và chúng ta tìm cách ôm lấy những  thứ ấy 
từ bên ngoài để bù đắp cho sự thiếu thốn của mình, và sở dĩ chúng ta  
thiếu thốn chẳng qua cũng vì chúng ta đánh mất sự tự tin nơi mình).
Trên con đường tu tập thì sự viên mãn (plénitude /  fullness, fulfillment / sự phong phú và tròn đầy)
không hề lệ thuộc  vào những thứ vụn vặt mà chúng ta cứ muốn vơ vét để 
làm của riêng. Sự viên mãn  phát sinh từ cách phát lộ sự tự tin nơi nhân
phẩm của chính mình. Nên tuân theo  quy tắc ấy, đấy là một phương tiện 
giúp tái tạo lại nhân phẩm của mình và để tôn  vinh nó. (Giới
luật liên quan đến hành động trộm cắp  quả cũng không quá khó để hiểu 
nếu vật ăn cắp là một hiện vật nào đó. Có lẽ vì  thế mà tác giả không 
cần phải giải thích dông dài về sự kiện này mà chỉ nêu lên  một hình 
thức "ăn cắp" hay "vơ vét" tinh tế hơn trên phương diện tình cảm hay  
tâm lý, tức là một sự chiếm đoạt những thứ xúc cảm hay tình cảm mà mình 
cảm thấy  "thiếu thốn". Sự chiếm giữ hay ôm quàng đó sẽ hiển hiện dưới 
hình thức tác ý, và  đấy chính là những gì sẽ lưu lại các vết hằn sâu 
đậm trên dòng tri thức của mình.  Nói cách khác thì đấy là cách tạo ra 
"nghiệp" tồn lưu trên dòng chảy liên tục  của tri thức để buộc mình vào 
vòng luân hồi. Vì thế không những chỉ phải tránh  không được phát lộ các
tác ý tham lam khiến cho mình nhìn chằm chằm vào một vật  thể nào đó, 
mà còn phải cảnh giác trước những sự "vơ vét" mang hình thức xúc cảm  
hay tình cảm tức là các thể dạng tâm lý hiển lộ trong tâm thức mình. Đấy
chính  là cách tinh khiết hóa tâm thức và con tim của mình giúp cho 
mình tự tin hơn nơi  nhân phẩm của chính mình. Nhờ đó tâm thức và con 
tim mình cũng sẽ trở nên tròn  đầy và phong phú hơn, và sự giàu có đó sẽ
khiến cho mình cảm thấy sẵn sàng hiến  dâng bằng hai tay những gì mà 
mình có trong tim khi trông thấy những người khác  đang thiếu thốn. Hơn 
nữa sự tròn đầy đó trong lòng mình cũng sẽ giúp cho mình  nhận thấy là 
không còn có gì bên ngoài đáng để cho mình vơ vét nữa dù đấy là một  vật
thể hay một thứ tình cảm nào cũng thế).
Tránh không phạm vào các giao du tính dục gây ra phương hại có nghĩa là gì, và tại sao lại phải tuân thủ giới luật ấy?
Tùy theo từng học phái mà vấn đề tính dục kém đạo đức được hiểu khác 
nhau, tuy  nhiên thông thường thì đấy có nghĩa là một hành vi tính dục 
gây ra khổ đau. Hiểu  một cách bao quát hơn nữa thì tính dục kém đạo đức
có nghĩa là một hành vi tính  dục không kính trọng người khác, không 
nhằm tạo ra một mối liên hệ thật sự nào  với người ấy và cũng không cần 
biết đến các hậu quả xảy ra.  Đấy là một hành vi  làm phương hại đến sự 
hiện hữu thiêng liêng của Đức Phật trong lòng mình, và  không khơi động 
được sự chú tâm cho chính mình.
Tại sao phải luôn giữ cách hành xử đạo đức?
Một số học phái triển khai nhiều phương cách suy luận thật tinh tế 
nhằm  khuyến khích con người nên thực thi một thái độ hành xử đạo đức, 
và nếu dựa vào  cách phát biểu chung trong kinh sách Phật Giáo thì có 
thể gọi đấy là cách giữ  gìn không được gây ra khổ đau cho người khác.
Trong một xã hội Phật Giáo mối quan tâm lớn nhất là phải ý thức được 
rằng một  hành động phương hại - chẳng hạn như sát sinh, hãm hiếp, ăn 
cắp, nói dối, phỉ  báng - đương nhiên sẽ mang lại những hậu quả tiêu cực
bóp ngạt và nhận chìm  chúng ta trong khổ đau. Hận thù đưa đến hận thù.
Hung bạo kéo theo hung bạo.
Ở một cấp bậc sâu xa hơn và cũng thật hết sức dễ hiểu là nếu biết 
chọn cho  mình một thái độ hành xử đạo đức thì đấy cũng là cách giúp 
mình trở về với chính  mình. Vi phạm vào các hành động đáng hổ thẹn trái
lại chỉ khiến cho mình rời xa  khỏi chính mình, tách ra khỏi sự sống 
của chính mình. Quả cũng lạ, trong ngôn  ngữ Pháp chữ độc ác (méchant / nasty, evil.../  hung ác, biển lận, xấu xa...) mang một ý nghĩa rất là Phật Giáo tức  có nghĩa là "rơi vào sự sai lầm" (mal chu / falling  into the wrong).
Qua cách diễn đạt theo ngôn ngữ Pháp thì người ta  không cố tình độc ác
mà chỉ vì "rơi vào sự sai lầm". Vì thế độc ác là một thái  độ hành xử 
thuộc bên ngoài chúng ta và bên ngoài cả nguyện vọng của chính mình.  
Nếu không luyện tập thiền định thật kiên trì thì quả hết sức khó cho 
chúng ta  giữ cho con tim mình không vướng vào sự ganh tị, hận thù và 
oán giận. Trong khi  đó thì những gì hiển nhiên nhất mà chúng ta phải 
tạo ra cho mình lại chính là  hạnh phúc.
Người Phật Giáo nhìn vấn đề tính dục như thế nào, có sự nghi 
kỵ nào đối với vấn đề này giống như đối với các tôn giáo dựa vào Kinh 
Thánh hay không? 
Dưới nhãn quan của Phật Giáo thì vấn đề tính dục không phải là một 
tội lỗi.  Chỉ cần phải thận trọng thế thôi, đấy chẳng qua là vì nó rất 
dễ đưa đến một tình  trạng mù quáng khá lạ lùng (bị
thúc đẩy bởi xung năng  của nghiệp và bị chi phối bởi bản năng truyền 
giống khiến ta có thể rơi vào một  tình trang si mê và say đắm - giống 
như bị sét đánh - không còn đủ sáng suốt để  cân nhắc hay suy nghĩ gì 
nữa). Cảnh giác trước sự ham muốn tính dục  và không biến nó
trở thành một thứ xung năng đơn thuần chỉ nhằm để kích động  mình, 
chính là một cách tu tập lành mạnh, tươi tắn và thật cần thiết.
Phật Giáo nhìn vấn đề đồng tính luyến ái như thế nào?
Ai lại chẳng biết vấn đề đồng tính luyến ái xưa như trái đất, thế 
nhưng không  hề thấy có một trang kinh sách nào đề cập đến vấn đề này. 
Sự giao du tính dục  giữa hai người có cùng một giới tính hay không thì 
cũng không phải là một lý do  để vin vào đó mà phán đoán là hành vi tính
dục của họ có đúng đắn hay không. Xúc  cảm và sự chủ tâm của họ mới là 
các tiêu chuẩn giúp để đánh giá hành vi của họ.  Điều thiết yếu nhất là 
không được gây ra khổ đau cho người khác.
Trên dòng lịch sử Phật Giáo người ta thấy phát sinh nhiều quan điểm khá khác  biệt nhau.
Tại Nhật Bản, đồng tính luyến ái được cho phép ngay cả bên trong các 
tu viện,  đôi khi còn được tổ chức dưới hình thức nghi lễ nữa. Các nhà 
sư thường xuất thân  từ giới quý tộc hay võ biền, và trong các giới này 
thì đồng tính luyến ái được  xem là một hình thức văn hóa tao nhã và đặc
biệt được quý trọng, không như là sự  giao hợp hạ cấp giữa người nam và
nữ.
Phần đông trong các xã hội bảo thủ, chẳng hạn như Trung Quốc thì đồng
tính  luyến ái bị lên án vì đấy là một sự tuyệt tự, không sinh con đẻ 
cái để nối dõi  tông đường - tức là không có con cháu để thờ cúng ông bà
và lưu truyền dòng họ.
Đồng tính luyến ái trước đây từng bị cấm đoán thật gắt gao trong xã 
hội Tây  Tạng. Một số các vị thầy ngày nay vẫn còn tiếp tục giữ đúng 
theo quan điểm đã  được nêu lên trong rất nhiều kinh sách Tây Tạng, cho 
rằng "các cơ quan sinh dục  là để giúp vào việc sinh sản giữa hai thành 
phần nam và nữ giới; và theo quan  điểm Phật Giáo thì mọi hình thức lệch
lạc đều không thể chấp nhận được". Quả  thật hết sức ngạc nhiên khi 
thấy các lời phát biểu mang tính cách "sinh học hóa"  như trên đây lại 
được thốt ra từ miệng của các vị thầy thuộc lãnh vực tâm linh (rất
có thể quan điểm của các vị thầy trên đây đã chịu  ảnh hưởng gián tiếp 
bởi một trong các khái niệm chủ yếu nhất của Phật Giáo Tây  Tạng là sự 
kết hợp bất khả phân giữa từ bi và trí tuệ, và sự kết hợp này thì lại  
thường được biểu trưng bằng hình ảnh kết hợp giữa nam tính và nữ tính, 
do đó một  số các vị thầy "bảo thủ" luôn muốn bảo vệ hình ảnh "cổ 
truyền" này và không muốn  cho nó bị sứt mẻ).
Tuy nhiên cũng có các vị thầy Tây Tạng khác cho rằng đồng tính luyến 
ái chẳng  là vấn đề gì cả - những gì chủ yếu hơn là phải thành thật và 
biết kính trọng lẫn  nhau trong sự giao du, đấy mới đích thật là các 
tiêu chuẩn để đánh giá một hành  vi tính dục có chính đáng hay không.
Tóm lại mỗi người tự nhìn ra cửa nhà mình để xem có phải đúng giữa trưa hay  không (câu tục ngữ này của Pháp có nghĩa là xét đoán  một thứ gì hay một sự kiện nào đó tùy theo quan điểm riêng của mình).
Ở phương Tây thì lại khác, chúng ta phải tự vấn xem có nên ngả theo 
khuynh  hướng thù ghét đồng tính luyến ái (homophobie / homophobia) hay 
không, một thứ  khuynh hướng luôn đi đôi với chủ nghĩa tôn thờ nam giới 
(machisme / male  chauvinism) thật cực đoan của một vài dân tộc Á Châu (ý
của câu này vô cùng khúc triết nếu không muốn nói là rất khó để thấu 
triệt: có  thể tác giả muốn nói lên là đồng tính luyến ái chủ trương sự 
bình đẳng tuyệt đối  trên phương diện giới tính - tức nam và nam, nữ và 
nữ - trong khi đó thì sự thù  ghét đồng tính luyến ái là một hình thức 
gián tiếp chủ trương ngược lại, tức là  trọng nam khinh nữ, và đấy là 
một tình trạng lạc hậu mà người Tây Phương phải  nên tự vấn trước khi 
ngả theo khuynh hướng thù ghét đồng tính luyến ái).
Chúng ta (những người Phật Giáo)
nào có  bổn phận phải sửa đổi các giới luật đạo đức Phật Giáo và chỉ 
trích các thành  kiến lâu đời mà theo chúng ta thì ngày nay không thể 
nào còn chấp nhận được?  Phải chăng chúng ta cũng không hề có nghĩa vụ 
phải chấp nhận các điều ấy, mà  theo chúng ta thì ngày nay không còn phù
hợp với những lời giáo huấn của Đức  Phật nữa, dù cho các điều ấy được 
khẳng định bởi các cấp lãnh đạo uy tín? (ý
của câu này lại còn khúc triết hơn cả ý của câu trên đây. Trước hết 
nên ghi nhận  tác giả là người Tây Phương, viết cho người Tây Phương, 
trong bối cảnh của xã  hội Tây Phương dưới áp lực nặng nề của xu hướng 
thù ghét đồng tính luyến ái, và  áp lực đó là những gì phát sinh từ căn 
bản tín ngưỡng lâu đời của họ. Phần lớn  những người Tây Phương bảo thủ 
cảm thấy mình có bổn phận phải chống lại đồng  tính luyến ái vì "tệ nạn"
này đi ngược lại với những nguyên tắc căn bản trong  các truyền thống 
tín ngưỡng lâu đời của họ. 
Trong khi đó thì những người Phật Giáo 
có một thái độ  phóng khoáng hơn, họ không hề có trách nhiệm phải sửa 
đổi đạo đức Phật Giáo nhằm  thích ứng với bối cảnh ngày nay, họ cũng 
không có bổn phận phải chấp nhận những  điều mà theo họ thì ngày nay 
không còn phù hợp với những lời giáo huấn của Đức  Phật, dù rằng các 
điều ấy là do các "cấp lãnh đạo uy tín" buộc họ phải chấp nhận. 
Đối với Phật Giáo thì đồng tính luyến ái là một hiện tượng tương tự 
như muôn  ngàn hiện tượng khác trong vũ trụ. Nếu nhìn dưới một góc cạnh 
giới hạn hơn thì  đấy là một hiện tượng xã hội tương tự như các hiện 
tượng xã hội khác, và nếu đặt  hiện tượng đó vào một lãnh vực thu hẹp 
hơn nữa thì đấy là nghiệp của một cá thể.  Đã nói đến nghiệp thì phải 
hiểu rằng đấy không phải là một hình phạt, một định  mệnh, cũng không 
biểu trưng cho một thứ tội lỗi nào cả.
Người ta thường hiểu sai một cách máy 
móc rằng nghiệp  là một thứ hậu quả mang tính cách tiêu cực, tương tự 
như một hình phạt mà một cá  thể phải gánh chịu. Thế nhưng nghĩa từ 
chương của nghiệp là "hành động" (karma),  và ý nghĩa sâu xa nhất của nó
cũng là "hành động". Nếu đã là một "hành động" thì  nó luôn hàm chứa ý 
nghĩa của một sự tự do nào đó. Tương tự như thế thì đồng tính  luyến ái 
cũng mang một khía cạnh tự do nào đó, một cá thể "tự do" nhận lãnh hậu  
quả mang lại từ hành động của mình và đồng thời cũng "tự do" tạo ra 
nghiệp cho  mình bằng các hành động của chính mình. Tóm lại theo quan 
điểm Phật Giáo thì  không có một giới luật hay một quy tắc nào nhằm lên 
án đồng tính luyến ái như là  một sự sai lầm trầm trọng, một thứ tội lỗi
mà người vi phạm phải bị gạt ra bên  lề xã hội. 
Đồng tính luyến ái cũng xuất hiện trong
các xã hội Á  Châu tương tự như trong các quốc gia Tây Phương thế nhưng
với ít nhiều kín đáo  và có vẻ khá bình thường. Trái lại trong các quốc
gia Tây Phương thì đồng tính  luyến ái lại là một vấn đề thật gai góc, 
hàng trăm ngàn cho đến hàng triệu người  biểu tình hàng năm tại khắp các
thành phố lớn để đòi hỏi quyền sống, nhân phẩm,  cũng như sự bình đẳng 
của họ trong xã hội và trước pháp luật. 
Các xã hội Tây Phương chủ trương tự do 
cá nhân tuyệt  đối, thế nhưng trên phương diện "đạo lý" thì lại chịu ảnh
hưởng quá nặng nề bởi  các truyền thống tín ngưỡng lâu đời, luôn tìm 
cách lên án một số hành vi mang  tính cách hoàn toàn thuộc vào lãnh vực 
cá nhân (ngừa thai, đồng tính luyến ái,  bao cao-su...). Đấy chính là lý
đo đưa đến một sự mâu thuẫn và nghịch lý thật  nan giải. Thật ra thì 
cái "của ấy" là của riêng của mỗi người, sử dụng nó như  thế nào hay là 
không sử dụng nó, ấy là cái quyền tự do của từng người. Vai trò  của đạo
đức là phải tự đặt mình vào một vị thế cao hơn để hướng vào sự an vui 
và  hài hòa trong xã hội, không nên rình mò những chuyện ấy để mà lên 
án, vì đấy chỉ  là một hình thức đạo đức lạc hướng. 
Đối với người Phật Giáo thì nên nhìn 
vào vấn đề tính  dục nói chung - dưới mọi hình thức đa dạng và lệch lạc 
của nó - như là một cách  "cụ thể hóa" của bản năng truyền giống. Nếu đã
là bản năng thì đấy cũng chỉ là  một phương tiện mà nghiệp sử dụng để 
chi phối và trói buộc con người. Nếu nhìn  vào mười hai mối dây trói 
buộc - còn gọi là thập nhị nhân duyên - buộc chặt  chúng sinh vào cõi 
luân hồi, thì sẽ thấy rằng mối dây thứ nhất, tượng trưng cho  vô minh 
nguyên thủy, là nguyên nhân sâu xa nhất đưa đến sự sinh. Vì thế nếu muốn
kết án thì nên kết án sự sinh, không nên kết án một hình thức "cụ thể 
hóa" nào  cả của bản năng truyền giống, dù cho chúng có bị lệch lạc 
nhiều hay ít, vì đấy  chỉ là hậu quả tất yếu của sự sinh mà thôi).
Phải chăng đã đến lúc cần phải chống lại sự hung bạo của các tôn  
giáo, một thứ công an canh chừng tâm linh và thể xác con người mà các 
tôn giáo  ấy chỉ muốn áp đặt cho con người, kể cả đôi khi bằng sức mạnh.
Phật Giáo quan niệm thế nào về cách sử dụng đồng tiền?
Phật Giáo rất ít đề cập đến cách kiếm tiền mà trái lại chỉ quan tâm  đến thái độ đối với đồng tiền.
Thật vậy, chối bỏ của cải và phát nguyện chọn cho mình một cuộc sống nghèo  khó (xuất gia)
là một phương pháp thật sâu  sắc giúp đối phó dễ dàng hơn trước sự chi 
phối của đồng tiền. Đấy là con đường  của các vị tu hành, họ khất thực 
từng ngày để kiếm miếng ăn và  chẳng có một  chút của cải nào ngoài manh
áo cà-sa trên người cùng chiếc bình bát trên tay.
Trái lại, đối với người thế tục thì họ tự do tìm kiếm một phương tiện
mưu  sinh mang lại cho mình một cuộc sống thoải mái nhất, miễn là không
nên để cho  phương tiện mưu sinh ấy đưa mình đi quá xa để rồi phải rơi 
vào thất vọng (không  nên quá tham vọng, dự trù quá lớn, hoạch định quá xa, vượt khỏi khả năng của  mình để rồi phải gánh lấy thất bại). Phật Giáo không xem sự nghèo khó  là một lý tưởng giống như trong Thiên Chúa Giáo.
Ham muốn tiền bạc cũng chẳng khác gì ham muốn các thứ khác, nếu xem 
đấy là  một cách biểu lộ cái ngã của mình thì nó sẽ khiến cho mình dễ bị
rơi vào sự mù  quáng. Là một người Phật Giáo thì không được bám víu vào
tiền bạc, không nên để  mình nô lệ cho tiền bạc - thế nhưng không phải 
vì thế mà phải khước từ và chối  bỏ tiền bạc, không được phép đụng chạm 
vào nó.
Con đường ấy gọi là con đường trung đạo. Thế nhưng trung đạo là gì? Quả thật  đấy là  một thứ gì khá xa lạ đối với chúng ta (người  Tây Phương), bởi vì chúng ta thường có thói quen suy nghĩ dựa vào  nguyên tắc nhị nguyên (nhị
nguyên ở đây có nghĩa là một  sự tương phản hay một sự đối nghịch: tham
tiền hoặc là không tham tiền. Trung  đạo là con đường ở giữa hai cực 
đoan đó). Trung đạo có nghĩa là không  được ham muốn tiền bạc, cũng không phải là không muốn có tiền bạc (đây
là cách diễn đạt theo "tứ  đoạn luận" của Long Thụ: "không-muốn-có" 
cũng "không-phải là không-muốn-có", đấy  là hai vế trong số bốn vế của 
phép lôgic gọi là tứ đoạn luận). Tóm  lại là chúng ta phải phát động được một mối tương quan thật phóng khoáng đối với  tiền bạc.
Nói một cách khác, nếu xem việc tìm kiếm tiền bạc là mục đích của sự 
hiện hữu  con người thì đấy sẽ là một thái độ vô cùng thiển cận và phi 
lý, và đấy cũng  chẳng khác gì với thái độ ngược lại tức là chối bỏ tiền
bạc. Tóm lại điều quan  trọng hơn cả chính là động cơ thúc đẩy từ bên 
trong nội tâm của chính mình.
Chúng ta có thể chỉ muốn kiếm được ít tiền thế nhưng lúc nào cũng cứ 
để cho  đồng tiền ám ảnh mình, hoặc ngược lại thì cứ làm ra thật nhiều 
tiền thế nhưng  biết tiêu xài đồng tiền để mang lại một cuộc sống tiện 
nghi hơn, và đồng thời  chẳng những không bám víu vào đồng tiền mà biết 
đâu chúng ta lại còn biết sử  dụng nó để biến mình trở thành một con 
người hào phóng nữa.
Làm thế nào để có thể biết được là hành động của mình có đúng
hay không trong khi phải phản ứng nhanh chóng  trước một biến cố đang 
xảy ra? 
Đấy là nhờ vào cách phân tích các dấu vết lưu lại từ các hành động của mình.
Bước theo bước chân của Đức Phật có nghĩa là phải phân tích được từng
cảnh  huống xảy ra ngày càng chính xác hơn hầu tìm cách ứng xử với 
chúng một cách  thích nghi nhất. Không có một quy tắc nhất định nào được
thiết lập sẵn để chúng  ta có thể dựa theo đó mà ứng xử. Kinh sách có 
đề cập đến một trường hợp bắt buộc  phải phạm vào hành động sát nhân - 
đấy là trường hợp phải hạ sát một tên cướp  sắp ra tay giết hết cả một 
đoàn thương nhân để cướp của. (đây  là một câu chuyện về một vị Bồ-tát tiền thân của Đức Phật giết tên cướp để cứu  đoàn người trên thương thuyền).
Cách ứng xử trên đây thật hoàn toàn khác lạ khi đem so với quan điểm 
của  triết gia Kant. Đối với triết gia này thì điều khoản cấm nói dối 
chẳng hạn phải  được tôn trọng một cách tuyệt đối, không được phép vi 
phạm bất cứ trong trường  hợp nào. Nếu là như thế thì nào có khó khăn gì
để biết rằng mình có đúng hay  không, chỉ cần biết tuân hành luật pháp 
là đủ.
Phật Giáo mở ra một tầm nhìn hoàn toàn khác hẳn. Phải quán xét hành động của  mình và cả động cơ thúc đẩy hành động ấy nữa (hành
động  phát sinh từ một tác ý trong tâm thức, và tác ý thì phát sinh từ 
một vết hằn của  nghiệp tồn lưu trên dòng tiếp nối liên tục của tri 
thức. Sở dĩ vết hằn chuyển  thành tác ý là vì tri thức diễn đạt những gì
mà ngũ giác cảm nhận được khi tiếp  xúc với ngoại cảnh, và sự diễn đạt 
đó đã "đánh thức" và "kích động" vết hằn để  chuyển nó trở thành tác ý. 
Tiếp theo đó thì tác ý phát lộ ra bên ngoài bằng hành  động hay ngôn từ.
Tóm lại các phản ứng đó - tức là hành động phát lộ trên thân  xác hay 
ngôn từ - luôn phản ảnh các xung năng sâu kín tồn lưu trên dòng tri 
thức.  Một người tu tập phải quán thấy và theo dõi được quá trình diễn 
biến đó hầu giúp  mình chủ động được hành động và ngôn từ của mình, 
không cho phép các tác ý nguy  hại điều khiển mình. Người tu tập không 
nên chỉ biết nhìn vào hành động tức là  hậu quả mà còn phải nhìn vào 
nguyên nhân tức là các xung năng sâu kín trong tâm  thức mình).
Bạn có thể tự hỏi là mình hành động vì hạnh phúc của chúng sinh hay 
chỉ để  thực hiện các ý đồ và tham vọng cá nhân của mình? Nói cách khác 
thì động cơ thúc  đẩy hành động của bạn có phải là con tim thức tỉnh (bodhicitta)  - (bồ-đề tâm) - của bạn, hay đấy chỉ  là cách biểu lộ nhằm đề cao bản thân mình (narcissique  / narcissistic) hay là vì một sự lo sợ nào đó?
Nếu nhìn theo khía cạnh này thì đạo đức Phật Giáo sẽ gần với một hình thức  đạo lý (sagesse / wisdom / sự khéo léo hay khôn ngoan) hơn là một hình thức luân lý.
Hối hận và mặc cảm tội lỗi có giữ một vai trò nào trong Phật Giáo hay không? 
Không có lý do gì để phải mang nặng cảm tính tội lỗi. Chẳng những mặc
cảm tội  lỗi không có lợi ích gì mà còn có nguy cơ khiến cho chúng ta 
tự giam thân vào  chính mình. Đấy không phải là một cảm tính mang tính 
cách Phật Giáo, bởi vì đối  với Phật Giáo khái niệm về tội tổ tông hoàn 
toàn xa lạ, và hơn nữa Phật Giáo lại  luôn nhấn mạnh đến sự kiện là từ 
bên trong của tất cả mọi con người đều có tàng  ẩn một sự toàn thiện, và
chỉ cần làm cho nó hiện ra.
Trái lại hối hận có thể mang lại lợi ích. Nếu lỡ phạm một giới luật 
mà trước  đây mình đã nguyện phải tuân thủ, và nếu cảm thấy mình không 
đủ nghị lực để thực  thi lời nguyện ước đó của mình, thì điều quan trọng
hơn hết là phải ý thức được  thực trạng ấy. Không nên bó tay cam phận 
mà cũng không nên ngoảnh mặt làm ngơ  trước sự kiện đó. Cả hai thái độ 
đều chứng tỏ mình là người thiếu trách nhiệm,  không xứng đáng là một 
con người trưởng thành.
Hối tiếc đã tự buông thả (để làm một việc không nên  làm)
sẽ khiến cho con tim mình bị va chạm, đấy cũng là cách giúp mình  nhìn 
thấy minh bạch hơn cách mà mình đã phạm vào lỗi lầm và nhờ đó mình sẽ 
biết  giữ gìn đạo đức cẩn thận hơn.
Khi nào cảm giác hối hận không còn dày vò mình nữa thì cũng nên mượn 
cái đà  đó để phát động lòng quyết tâm thật vững chắc bước theo con 
đường của Đức Phật.
Tại sao đạo đức Phật Giáo lại được phát huy dựa vào thiền định?
Đạo đức Phật Giáo luôn đòi hỏi mỗi giây phút trong cuộc sống đều phải
là  những giây phút hoàn hảo. Vị thiền sư Zen Shunryu Suzuki từng phát 
biểu như sau:  "Làm bếp hay nấu ăn không nhất thiết chỉ là việc nấu 
nướng mà còn là một sự tu  tập nữa. Khi làm bếp thì bạn phải biểu lộ 
được chính mình qua các động tác của  việc làm bếp. Nấu ăn không chỉ có 
nghĩa là chế biến thức ăn cho một người nào đó  hay là cho bạn; đấy là 
một dịp để biểu lộ sự ngay thật (sincérité  / sincerity / sự đơn sơ, giản dị và chân thật)
của mình. Khi nấu ăn  thì bạn phải phát lộ được sự hiện hữu của bạn qua
các động tác liên quan đến  việc bếp núc. Bạn phải đặt tất cả sự chú 
tâm của mình vào việc làm bếp, bạn cứ  nấu nướng thế nhưng tâm thức luôn
trong một thể dạng thanh thản và không mong  cầu bất cứ điều gì. Bạn 
chỉ cần biết là mình đang nấu ăn thế thôi! Đấy là phương  cách làm hiển 
lộ thể dạng chân thật và đơn sơ của bạn và đấy cũng là một cách  góp 
phần vào việc tu tập của chính bạn".
Chúng ta sẽ bị đánh lạc hướng khi tin rằng việc tu tập tâm linh là 
một cách  tạo ra một sự nối kết nào đó với một thể dạng tuyệt đối, với 
một sự thật tối hậu,  với Trời hay với sự giác ngộ. Đấy là cách mà chúng
ta nghĩ rằng con đường tu tập  tâm linh mà chúng ta đang bước theo phải
đưa chúng ta đến một nơi không còn các  ảo giác của thế gian này. Thế 
nhưng thật ra thì đấy lại không phải là con đường  của Đức Phật. [Bước 
đi trên con đường ấy thì ] chẳng hề có một nơi nào khác (để  mà mong cầu), cũng không có gì gọi là lý tưởng (để  mà nhắm đến).
Tu tập Phật Giáo là cách trực tiếp quan tâm đến thực tại với tất cả 
sự đơn sơ  của nó. Đấy không phải là cách giúp mình tìm kiếm một lối 
thoát. Tất cả mọi cử  chỉ và hành động đều góp phần vào việc tu tập, 
chẳng hạn như cất lời để chào một  người nào đó khi gặp nhau, phát lộ 
một thái độ nào đó, mặc áo, ăn cơm... - tất  cả đều là đạo đức (phải luôn ý thức và cảnh giác trong  từng cử chỉ nhỏ nhặt của mình).
Không được phép thả lỏng tâm thức để cho nó tha hồ đi nghỉ mát.
Không-hành-động có nghĩa là gì và tại sao nó lại biểu trưng cho ý nghĩa sâu xa nhất của đạo đức Phật Giáo?
Đối với Phật Giáo, sống một cuộc sống đạo đức có nghĩa là luôn quán 
thấy được sự  đúng đắn và tốt lành trong từng cảnh huống xảy ra nhằm 
giúp mình ứng xử một cách  tự nhiên và phù hợp theo chiều hướng đó.
Đạo đức Phật Giáo được hình thành từ các kinh nghiệm cảm nhận trong 
cuộc sống  hằng ngày của con người. Ta đi ngoài đường và đang nghĩ đến 
buổi họp mà mình sắp  tham dự, bỗng dưng trông thấy một người đang đi 
phía trước gặp nạn (bị  cướp giật, hành hung hay vấp ngã...).
Vậy ta phải phản ứng như thế  nào? Một hành động đạo đức không nhất 
thiết chỉ được phát động dựa vào sự cân  nhắc hay lý luận mà thông 
thường là nhờ vào khả năng ứng xử nhanh chóng trước  một biến cố đang 
xảy ra.
Đấy là một cách đáp ứng tự nhiên trước một cảnh huống đặc biệt nào 
đó, và sau  đấy thì nó phải được tiếp tục phát huy bởi trí thông minh 
trực giác (prajna) (trí tuệ). Phật Giáo gọi một hành  động không phát sinh từ bất cứ một sự cân nhắc nào là "không-hành-động".
Không-hành-động không có nghĩa là "không làm gì cả" mà thật ra là có 
làm -  thế nhưng không phải vì thế mà hành động "làm" không phát lộ được
quyết tâm của  một chủ thể rõ rệt nhằm mục đích làm nổi bật cái chủ thể
ấy lên (thí  dụ ta bố thí thế nhưng 
lại không hề ý thức được là mình bố thí, bố thí cái gì và  bố thí cho 
ai, như thế gọi là không-bố-thí thế nhưng thật ra thì lại là bố-thí,  vì
phía sau hành động bố thí ấy vẫn tàng ẩn một sự quyết tâm của một chủ 
thể với  một con tim mở rộng và đôi bàn tay để ngửa).
Sự kiện không-hành-động bên trong hành-động (chẳng  hạn như bố thí mà không biết rằng mình là người bố thí)
có vẻ như là  một sự nghịch lý, thế nhưng cũng có thể hiểu như  một cá 
thể hành động và hành  động của cá thể ấy vượt lên trên tính cách nhị 
nguyên (không  có chủ thể và đối tượng).
Tuy cá thể ấy hành động, thế nhưng không để  cho ý niệm về cái ngã 
trong đầu mình tìm thấy một khe hở nào khả dĩ có thể quan  sát được bối 
cảnh đang diễn biến bên ngoài (liên quan  đến hành động của cá thể ấy). Kinh nghiệm cảm nhận ấy thật hết sức  đơn giản và bất cứ ai cũng có thể thực hiện được. Thí dụ như trong khi thi đấu  thể dục (phải chú tâm vào các động tác, chẳng hạn như nhảy cao, hay dùng chân  đá vào một quả bóng), đi thi (chú tâm vào đề tài  thi), nấu ăn (xem nồi nước đã sôi chưa, đã  đến lúc phải cho rau vào nồi hay chưa...) - trong những lúc đó ý niệm  về cái ngã của mình có thể sẽ bị xóa mờ đi giúp cho mình hoà nhập vào những gì  mình đang làm.
Nghệ thuật Phật Giáo nói chung và đặc biệt nhất là nghệ thuật Nhật 
Bản thường  gợi lên thật rõ rệt tính cách không-hành-động đó. Ngọn bút 
lông của một người  viết thư pháp lướt trên mặt giấy có vẻ như theo ý 
muốn của chính nó, người nghệ  sĩ không hề nghĩ đến chính mình là người 
điều khiển các chuyển động nơi đầu ngọn  bút. Một nhạc sĩ đang kéo đàn 
hồ cầm thế nhưng lại có cảm giác là không phải  mình đang chơi nhạc mà 
âm nhạc tự nó đang réo rắt. Người nhạc sĩ hoàn toàn hội  nhập với những 
gì mình đang làm, đến độ không còn ý thức được chuyển động của  các ngón
tay, cũng không ý thức được nhạc cụ mà mình đang sử dụng kể cả sự kiện 
là mình đang chơi nhạc. Người quan sát - tức cái ngã - thông thường giữ
vai trò  phẩm bình và phán đoán những gì mà chúng ta đang thực thi (diễn  đạt các hiện tượng đang xảy ra)
bỗng dưng biến mất. Chúng ta hoàn  toàn hòa nhập vào hành động mà chúng
ta đang thực thi. Thế nhưng không phải vì  vậy để có thể bảo rằng chúng
ta rơi vào một tình trạng "vô thức", trái lại là  đằng khác bởi vì ngay
chính những lúc ấy thì sự hiện diện của chúng ta trong  thực tại trở 
nên vững chắc hơn bao giờ cả (ta hội 
nhập  vào những gì đang xảy ra và theo đó cái ngã cũng sẽ tan biến đi, 
ta trở thành  hiện thực và hiện thực cũng chính là ta, không có con 
người nào cả, cũng chẳng  có cái ngã nào cả).
Tại sao trên dòng lịch sử Phật Giáo lại có những vị thầy bất 
chấp đến đạo đức, đôi khi lại còn có vẻ như khinh thường người khác nữa?
Điều ấy có phải là một sự chướng mắt hay không?
Thật thế, tại các quốc gia như Trung Quốc, Triều Tiên, Tây Tạng..., 
quả không  còn là chuyện lạ khi trông thấy một số các vị thầy thật quái 
dị, bất chấp đạo  đức và rất thích tìm cách trêu chọc những ai có khuynh
hướng suy nghĩ ngay thật  và một chiều. Thái độ bất tuân thủ (các quy ước và các  lề lối công thức)
đôi khi cũng được xem như là một phép tu tập đối  với một số học phái 
Phật Giáo - đấy cũng là một cách làm phát lộ sức mạnh và  tính cách gây 
chấn động trong các lời giảng của Đức Phật.
Đúng ra thì chẳng có một vị thầy nào chế nhạo đạo đức cả. Đấy chẳng 
qua là vì  trong số họ có một vài vị nhận thấy đạo đức rất dễ bị biến 
thể để trở thành một  thứ chủ nghĩa rập khuôn (conformism) đôi khi còn có thể xem như là một  thứ đạo đức giả trong xã hội nữa.
Đấy chỉ là cách ứng xử mà các vị thầy này đã dùng để thích ứng với các cảnh  huống xảy ra (có những cảnh huống phải ứng xử bằng sự  khiêu khích và thô bạo). Đấy cũng là một cách nhắc cho chúng ta hiểu  rằng sự giác ngộ đôi khi cũng phát hiện qua một một sự chấn động (choquant  / shocking)
nào đó. Đạo đức cũng là một phép tập luyện tuyệt vời nhất  giúp chúng 
ta trút bớt gánh nặng của cảm tính hẹp hòi luôn tự xem mình là trung  
tâm, và nhất là ý thức được là không phải chỉ biết tuân thủ đạo đức là 
đủ mà còn  phải giải thoát con người ra khỏi những gì quá đỗi tầm thường
và cả sự lo sợ  trong lòng họ (lo sợ phạm vào sai lầm hay không tuân thủ được các giới luật...).
Một thái độ hành xử thích nghi nhất đối với một cảnh huống xảy ra 
không nhất  thiết có thể nhận biết được từ một góc nhìn thuộc bên ngoài 
thái độ đó (có  nghĩa là rất khó cho chúng ta đánh giá một hành động hay một cách ứng xử khi  mình đứng vào vị trí thứ ba).
Người ta thường nói đến hiện tượng này và xem đấy như là một "sự điên rồ đầy  khôn ngoan" ("une folle sagesse" / "a mad wisdom"),
một sự khôn ngoan trở nên điên loạn khi bắt buộc phải ứng xử thật 
thích nghi với  luân lý, một sự khôn ngoan dám chấp nhận sự điên rồ để 
có thể biểu lộ được quan  điểm của mình một cách tư do hơn. Thế nhưng 
đấy lại chính là một cách biểu lộ  chân thật nhất của tình thương yêu, 
một thể dạng tối hậu của đạo đức (vị  
thiền sư Lâm Tế không ngần ngại gì khi trợn mắt và chặt phăng ngón tay 
của một  người đệ tử khi người này bắt chước ông đưa một ngón tay lên và
không trả lời  mỗi lần có ai hỏi bất cứ điều gì. Vị thiền sư không tức 
giận vì tên đệ tử dám cả  gan bắt chước ông mà ông chỉ thương cho hắn 
bám víu và bắt chước một cách ngu  xuẩn những gì người khác làm. Tên đệ 
tử quá sợ ôm bàn tay đầy máu me và phóng  chạy. Vị thiền sư chưa chịu 
tha mà còn cầm dao đuổi theo. Tên đệ tử quay lại  thấy thầy mình trợn 
mắt và đưa một ngón tay lên, trong khi ngón tay của mình thì  đã bị chặt
mất, hắn chợt bừng tỉnh và bất
thần đạt được giác ngộ. Chỉ xin mạn phép nhắc nhở những ai mà tình 
thương trong  lòng mình chưa đủ phát lộ một sức mạnh tương tự như thiền 
sư Lâm Tế thì cũng  không nên bắt chước theo cách giảng dạy ấy của ông).
Thiền định, đạo đức và sự hiểu biết trực giác
Đối với phần đông các người tu tập Phật Giáo thì toàn bộ giáo huấn 
của Đức  Phật có thể tóm lược thành ba điểm chính như sau: đạo đức (shila),  thiền định (samadhi) và sự hiểu biết trực  giác (prajna - trí  tuệ).
Đấy là ba sức mạnh góp phần giải thoát cho tâm thức của chúng  ta. Con 
đường của Đức Phật là sự kết hợp của ba phép luyện tập ấy (tu  giới, tu định và tu tuệ).
Đạo đức là chiếc áo đẹp nhất mà con người có thể khoác lên người 
mình. Chiếc  áo đó phát sinh từ con tim mình để tỏa sáng và chiếu rọi 
bên trong con người  mình, và sau đó thì tỏa rộng ra trong toàn thế 
giới. Nó giúp chúng ta bảo vệ  được thể dạng vẹn toàn và xứng đáng nhất 
của mình. Chiếc áo ấy sẽ tác động đến  từng hành động, cử chỉ và ngôn từ
của chúng ta.
Thiền định giữ chúng ta trên mặt đất này và mở ra cho chúng ta một 
bầu không  gian đầy sinh động. Nó cũng chẳng khác gì một con ngựa để 
chúng ta cưỡi hầu giúp  chúng ta có thể quay trở về với tâm thức của 
chính mình và tránh cho mình không  trở thành nạn nhân của mọi thứ lo âu
và ngờ vực.
Sự hiểu biết trực giác giúp chúng ta quán nhận được một cách minh bạch mọi sự  vật đúng như thế. Sự học hỏi đúng nghĩa của nó không
nhất thiết chỉ là  một cách gom góp sự hiểu biết hay là để trở thành 
một nhà bác học, mà hơn thế  còn giúp chúng ta nhận biết được tại sao và
bằng cách nào chúng ta lại không  thực sự là chính mình.
Người ta thường mượn hình ảnh một cái bình đựng nước và bóng của con 
trăng  phản chiếu trong bình để biểu trưng cho tầm quan trọng và mối 
tương quan giữa ba  nguồn năng lực trên đây (đạo đức, thiền định và trí tuệ).
Đạo đức là cái bình, biểu trưng cho thái độ hành xử của chúng ta và 
đấy cũng  là những gì góp phần bảo vệ con người của chính mình.
Thiền định có thể ví như nước đựng trong bình. Chúng ta phải luyện 
tập như  thế nào để giữ cho nước được yên lặng nhằm biến nó trở thảnh 
một tấm gương thật  trong sáng.
Sự hiểu biết trực giác tượng trưng bởi hình bóng rạng ngời của mặt trăng phản  chiếu trong đáy nước.
Nếu chiếc bình dơ bẩn và lắc lư thì mặt nước sẽ chòng chành và không phản  chiếu được bóng trăng của trí tuệ.
Nếu bóng trăng bị chao đảo thì làm thế nào nước trong bình và cả cái 
bình có  thể đón nhận được vẻ đẹp tròn đầy của thiên thể ấy trong vũ 
trụ.
Bures-Sur-Yvette, 25.04.12
Hoang Phong chuyển ngữ