Vấn
đề tái sinh là một vấn đề gần như là "bất khả nghị" đối với Phật giáo.
Vì vô minh dầy đặc và những thứ hiểu biết quy ước thu góp được quá
nhiều qua sáu cửa ngõ của giác cảm đã che lấp trí tuệ cho nên chúng ta
không nhìn thấy được quá khứ xa xôi của chính mình. Nếu gạt bỏ bớt
những dao động của các thứ xúc cảm bấn loạn và tinh khiết hóa tâm thức
thì chúng ta tuy không thể nhìn thấy trực tiếp được tiền kiếp của mình,
thế nhưng biết đâu cũng có thể nhận thấy đưọc những tác động và ảnh
hưởng từ những gì trong các kiếp sống quá khứ trên sự hiện hữu hiện tại
của chính mình.
Sự thu ngắn chu kỳ tái sinh và biến nó trở thành những thể dạng tâm thần
Chủ thuyết về sự "thu ngắn" (Reductionism)
Chủ thuyết này cho rằng các kiếp tái sinh và các lãnh vực hiện hữu (các cõi luân hồi) có thể đồng hoá với các thể dạng tâm thần xảy ra "tại nơi này" và ngay "trong lúc này" (có ý nói là thuộc vào sự hiện hữu hiện tại).
Theo sự hiểu biết của chúng tôi thì chính nhà sư Thái Lan gần đây là
Buddhadasa Bhikkhu (1906-1993) là người đầu tiên đã hệ thống hóa chủ
thuyết này.
Có thể Buddhadasa trước hết muốn nhắm vào chủ đích chứng minh cho thấy Phật Giáo của những người Thera (tức là Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada) không
đi ngược lại với sự duy lý của khoa học hiện đại, và sau đó là giúp
những người bình dị có thể tiếp cận dễ dàng hơn với mục đích tối thượng
của Phật Giáo, tức là Niết-bàn (thực
tế có thể là ngược lại với những gì Didier Treutenaere vừa trình bày
hay "tưởng tượng", vì những người bình dị thì ít quan tâm đến khía cạnh
duy lý của tôn giáo nói chung và đối với họ thì lòng tin quan trọng
hơn - ghi chú thêm của người dịch). Các mục tiêu đó trùng hợp với chủ trương mở cửa và hiện đại hóa xứ sở (Thái Lan)
theo các tiêu chuẩn Tây Phương và đồng thời cũng trùng hợp với sự gia
tăng các tầng lớp xã hội đô thị luôn quan tâm tìm cách hòa đồng nền
Quốc Giáo của họ với lối sống thế tục và các sinh hoạt "kinh tế - xã
hội" hiện đại, tức có nghĩa là vai trò của "Phật Giáo là giúp cho mọi
người thành công trong cuộc sống giữa thế giới mà không cần phải xa
lánh thế giới" (theo quan điểm của
người dịch thì ý nghĩ này không đúng với ý nghĩ của nhà sư Buddhadasa
bởi vì mục đích tối hậu của Phật Giáo là thoát ra khỏi thế giới hay ít
ra là vượt lên trên thế giới. Thiết nghĩ Didier Treutenaere đẩy sự suy
luận của mình quá xa và áp đặt cho nhà sư Buddhadasa những ý nghĩ và
những chủ đích không phải của ông, bởi vì một nhà sư thuộc tầm cỡ như
ông rất có thể chỉ nghĩ đến cách giúp những người chung quanh tìm lấy
sự giải thoát cho mình. Sự suy nghĩ và lý luận của D. Treutenaere mang
tính cách "Tây Phương" và phiêu lưu rõ rệt khi liên kết cách giải thích
giáo lý Phật giáo của một nhà sư với tình trạng xã hội và chính trị của
xứ sở Thái Lan).
Nhằm mục đích thực hiện chủ đích đó, Buddhadasa bình giải lại toàn
bộ giáo lý dựa vào các quan điểm chung của dư luận và nhằm đáp ứng sự
mong đợi của xã hội hiện đại. Sự bình giải trở lại giáo lý gồm có hai
đường hướng: thứ nhất là "hóa giải tính cách huyền thoại" (démythologisation)
trong toàn bộ giáo lý Phật Giáo và thứ hai là thu gọn tất cả những gì
mang tính cách "siêu nhiên" ghi chép trong Kinh sách và biến chúng trở
thành những thể dạng tâm thần.
Việc "thu gọn" giáo lý thì được dựa vào hai cách khác nhau. Cách thứ
nhất là loại bỏ những gì dư thừa trong Kinh điển và xem đấy là những
thứ không đích thật. Các tiêu chuẩn để gạn lọc những gì không đích thật
trong Đạo Pháp chỉ là một hình thức đánh lạc hướng các tiêu chuẩn
thuộc vào lãnh vực khoa học luận (épistémologie - còn gọi là triết lý về sự hiểu biết) về "lợi ích tinh thần" (tức là thể dạng tinh thần do sự giữ giới mang lại) mà Đức Phật đã đưa ra gọi là kusala (nguyên nghĩa tiếng Pa-li là điều thiện, điều tốt) tức có nghĩa là sự "lợi lạc ", để biến nó trở thành những gì ích lợi trong cuộc sống "tại nơi này" và "ngay trong lúc này" (ý
đả kích quan điểm của Buddhadasa chủ trương tu giới chỉ là cách mang
lại một mảnh đất thuận lợi để chuẩn bị cho sự phát triển trí tuệ tức là
sự quán thấy sâu xa về hiện thực). Tiện đây cũng xin nêu lên là sự "lợi ích tinh thần" mà Đức Phật xem là những gì mang tính cách cá nhân và thực dụng (sự giữ giới của mỗi người) phải được xem như là đúng khi nào nó có thể mang lại sự an vui toàn cầu và sự hòa đồng giữa các tôn giáo... (quả
thật sự lý luận của D. Treutenaere có hơi quá phong phú và gần với sự
tưởng tượng hơn là sự thật. Nếu đúng thật là nhà sư Buddhadasa có "đơn
giản hóa" giáo lý đi nữa thì đấy cũng không phải là một hình thức đánh
lạc hướng các tiêu chuẩn thuộc lãnh vực khoa học luận, mà thật ra đấy
chỉ là nhằm vào mục đích thực tiễn giúp người tu tập tìm hiểu những gì
thiết thực trong Đạo Pháp, loại trừ sự nghi ngờ và dị đoan và những gì
thuộc lý thuyết và triết học siêu hình, hầu giúp người tu tập bước
thẳng vào con đường đưa đến sự giải thoát khỏi khổ đau, và tu giới thì
chỉ là cách giúp mang lại cho người tu tập những điều kiện thuận lợi để
thực hiện sự chú tâm và quán thấy sâu xa, không phải là để "thực hiện
sự an vui toàn cầu và hoà đồng tôn giáo" như quan niệm của Didier
Treutenaere - ghi chú thêm của người dịch).
Phương cách thứ hai của sự "thu ngắn" là chấp nhận có hai cách hiểu
biết khác nhau đối với những gì được ghi chép trong Kinh sách và không
bị loại bỏ, sở dĩ có hai cách hiểu biết khác nhau là vì có một số phân
đoạn phải được hiểu và được bình giải bình thường bằng ngôn từ thông
dụng hàng ngày (phasa khon), và một số khác thì phải hiểu bằng "ngôn từ
Đạo Pháp" (phasa tham). Theo Buddhadâsa thì sự lẫn lộn sở dĩ đã xảy ra
là vì một số văn bản trong Kinh sách có thể hiểu thẳng và bình giải
một cách bình thường thế nhưng trên thực tế thì đấy lại là những cách
nói ẩn dụ bằng "ngôn từ Đạo Pháp"; chính ở điểm này Buddhadasa đã chuyển
đổi chủ thuyết về hai sự thật là sự thật quy ước (sammati-sacca) và sự
thật tuyệt đối (paramatha-sacca) theo cách đã được trình bày trong A-tì-đạt-ma Luận (Abhidhamma-pitaka),
ông cho rằng các cách định nghĩa nguyên thủy này mang tính cách thêm
thắt và dư thừa. Theo Buddhadasa thì sự duyệt xét bằng ngôn từ phasa tham (ngôn từ Đạo Pháp)
trên đây sẽ giúp khám phá trở lại Phật Giáo nguyên thủy sau khi đã loại
bỏ được những thứ vướng mắc lệch lạc trong việc thờ cúng thần linh,
những gì liên hệ đến đạo Bà-la-môn hoặc những gì mang tính cách dân
gian, và đồng thời chứng minh cho thấy là thông điệp của Phật Giáo mới
này sẽ mang tính cách toàn cầu, thích nghi với các đòi hỏi của lý trí
và xã hội tân tiến ngày nay.
Sau đây là một vài thí dụ về sự chỉnh đốn lại một số thuật ngữ và khái niệm Phật Giáo bằng "ngôn từ Đạo Pháp".
Thuật ngữ "deva" (trời, thiên, đề-bà)
không còn dùng để chỉ các chúng sinh siêu nhân dạng mà chỉ để chỉ định
những con người "thánh thiện" theo ý nghĩa bình dân, tức có nghĩa là
những con người tràn đầy hạnh phúc và sự toại nguyện:
"Trong thế giới con người, nếu có những ai không cần phải làm việc (tức phải chịu khổ nhọc),
hoặc lo âu, hoặc mang những gánh nặng nào đó, và đồng thời thì lúc nào
cũng thanh thản, vui đùa, thư giãn, thì đấy là những người có thể được
gọi "thiên nhân" ( thewada , devata). Thế nhưng, nếu như họ không giữ
được thể dạng ấy bền vững trong nhiều giờ liên tiếp thì họ sẽ bị thiêu
đốt bởi sự sợ hãi và bất hạnh sau đó, chẳng khác gì nơi chốn địa ngục.
Khi họ bận tâm với những việc thường nhật thì họ sẽ là con người, thế
nhưng khi họ cảm thấy mãn nguyện thì họ là những vị "thiên nhân ".
Do đó, các thuật ngữ như "deva-loba" [cõi của các vị "trời" hay cõi
thiên] hay "yama-loka" [cõi Diêm Vương hay cõi địa ngục] không còn chỉ
định các lãnh vực hiện hữu thực sự nữa (vì đấy chỉ là những thể dạng tâm thần theo chủ thuyết "rút ngắn"); tin vào những thứ ấy tức "có nghĩa là dị đoan":
"Thiên đường và địa ngục nào có xa xôi gì nhau. Trong một khoảnh khắc
bạn có thể vọt lên thiên đường hay là rơi xuống địa ngục. Những chuyện
như thế có thể liên tiếp xảy ra trong một ngày. Các cấp bậc hiện hữu
khác nhau thật ra chỉ là các thể dạng cảm nhận của ta trong cuộc sống
hằng ngày: những lúc cảm thấy hạnh phúc và hân hoan thì đấy là thiên
đường; những lúc thất vọng và u sầu thì đấy là địa ngục"... [...]
Thuật ngữ "jati" [sự "sinh"] cũng được định nghĩa lại:
"Chữ "sinh" có nghĩa là cách thể hiện của ý nghĩ sai lầm về cái
"Tôi", về "chính Tôi". Nó không xác định một sự sinh thân xác như người
ta vẫn tưởng. Khái niệm sai lầm cho rằng "sinh" là sự sinh thân xác là
một chướng ngại hàng đầu ngăn chận sự hiểu biết giáo lý của Đức Phật".
[...] (cũng xin mạn phép nhắc thêm
là chữ "sinh" - jati - trong Phật giáo có nghĩa là sự "hình thành" hay
mối dây trói buộc thứ mười hai trong số mười hai mối dây gọi là "thập
nhị nhân duyên", tức có nghĩa là hậu quả phát sinh từ vô minh, và còn
gọi là "vô minh nguyên thủy" tức là sự hiểu biết sai lầm về hiện thực
và bám víu vào cái tôi hay cái ngã. Trên phương diện "thực tế" thì
"sinh" là sự thụ thai, tức là khoảnh khắc xảy ra sự phối hợp giữa tinh
trùng và một noãn cầu tượng trưng cho khởi điểm của một sự hình thành
vật chất, không phải là lúc lọt lòng mẹ. Theo Buddhadasa và theo như
lời trích dẫn trên đây thì sự sinh chính là những lúc hiển hiện ra cái
"tôi" hay "cái ngã" trong tâm thức của mỗi người trong cuộc sống hằng
ngày, nói cách khác là sự sinh phát hiện liên tục trong tâm thức ta -
trong "đầu" ta - mỗi khi ta phát lộ cảm nghĩ về cái tôi hay về chính
mình. Quan điểm này rất cao thâm và uyên bác liên hệ đến sự bám víu vào
cái ngã biểu trưng cho vô minh nguyên thủy, và có thể là Didier
Treutenaere không nghĩ đến sự cao thâm này khi tìm cách đả kích
Buddhadasa - ghi chú thêm của người dịch).
Buddhadasa cũng cho thấy là ông không hoàn toàn đồng ý với cách giải thích thường thấy về sự tạo tác do điều kiện mà có (production conditionnée / conditioned co-production / lý duyên khởi) - theo như cách hiểu của Phật Âm (Buddhagosa) chẳng hạn -, đấy là cách cho rằng sự sai lầm trên đây (tức hiểu "sinh" hay "jeti" như là một sự tái sinh thân xác) sở dĩ xảy ra là vì chấp nhận sự hiện hữu tự tại của âtta (tức
cái ngã, có nghĩa là nếu chấp nhận có cái ngã thì sẽ đương nhiên phải
có một cơ sở chuyển tải cho cái ngã ấy, đấy sẽ là một cách gián tiếp
chấp nhận một sự tái sinh thân xác), hoặc tệ hơn thì đấy
cũng có thể là một âm mưu phá hoại của đạo Bà-la-môn nhằm mục đích hủy
diệt Phật Giáo từ những thời kỳ sau lần kết tập Đạo Pháp lần thứ ba (đạo
Bà-la-môn xem cái "ngã" là bất diệt, do đó nếu xem sự tái sinh hiện
hữu thật tức là một cách gián tiếp xem cái ngã trường tồn, đấy là những
gì trái ngược với Phật giáo). Buddhadasa bác bỏ quan điểm
cho rằng "sự tạo tác do điều kiện mà có" hội đủ tư cách để giải thích
về hiện tượng tái sinh; đối với ông paticcasamuppâda (hiện tượng tạo tác do điều kiện hay lý duyên khởi) chỉ dùng để giải thích sự phát hiện của khổ đau trong một khoảnh khắc thời gian nào đó (mà không hề trực tiếp liên hệ đến hiện tượng tái sinh). Do đó ông cho rằng từ trước đến nay người ta đã gán cho quy luật đó một vai trò quá đáng (tức
là xem quy luật tương liên tương kết và tương tạo - paticcasamupada -
là một quy luật chi phối tất cả mọi hiện tượng vật chất cũng như
phi-vật-chất trong vũ trụ và do đó nó cũng ảnh hưởng và chi phối cả sự
kết nối và liên kết giữa các kiếp tái sinh - ghi chú thêm của người
dịch).
Quan điểm đó của Buddhadasa cũng có thể hiểu như cách phủ nhận sự tái
sinh, hoặc nói một cách tế nhị hơn thì đấy là cách không thật sự xác
nhận sự hiện hữu của hiện tượng tái sinh, và phía sau sự kiện không xác
nhận (có sự tái sinh) ấy thì ông cũng cảnh giác nguy cơ không được rơi vào lãnh vực của chủ nghĩa vĩnh cữu (éternalisme / eternalism), (cách lập luận của Didier Treutenaere vô cùng lắc léo và khúc triết hầu tìm mọi cách để bác bỏ cách lập luận của Buddhadasa):
"Đối với vấn đề "kiếp sau" thì phải vô cùng thận trọng. Một sự sai lầm thật nhỏ sẽ làm phát sinh ra sassatadinghi, tức là chủ thuyết vĩnh cữu (vĩnh hằng, bất diệt, trường tồn)
do người Bà-la-môn chủ xướng, tức có nghĩa là tin vào một con người
sau khi chết thì cũng chính con người ấy sẽ tái sinh trở lại". [...] (một điều cảnh giác rất chính xác và hợp lý của Buddhadasa)
Chủ thuyết thu ngắn đó (réductionism) đáp ứng một cách hoàn
hảo cho những đòi hỏi tín ngưỡng của tầng lớp trung lưu đô thị mới -
luôn muốn "thu hoạch" được tối đa bằng một sự "đầu tư cá nhân" tối
thiểu - đến độ đã tạo ra những tác động trên bình diện địa phương (tức nước Thái Lan) với
một tầm ảnh hưởng thật rộng lớn; bởi vì các quan điểm đó được phát
triển ngay từ bên trong Phật Giáo Theravada bởi một nhà sư đáng kính,
và đấy chính là lý do đã mang lại cho các quan điểm này một sự chính
đáng nào đó (thật ra cách lý luận trên
đây của D. Treutenaere đã được đẩy đi quá xa, gần với sự tưởng tượng
và không kiểm chứng được, mà dụng ý là để giải thích tầm ảnh hưởng rộng
lớn của Buddhadasa tại Thái Lan - ghi chú thêm của người dịch).
Một số các học giả Phương Tây ngã theo và vay mượn ngay chủ thuyết
này nhằm loại bỏ vấn đề tái sinh và để đưa Phật Giáo hội nhập vào cái
mớ hỗn tạp của ý thức hệ Tây Phương. Chủ thuyết đó sẽ khiến cho Phật
Giáo được chấp nhận dễ dàng hơn và trở nên thu hút hơn qua tầm nhìn của
những con người sống dưới áp lực của "khoa học chủ nghĩa" và "vật chất
chủ nghĩa", một quảng đại quần chúng không hướng vào một một mục đích
tâm linh cao xa mà chỉ mưu cầu tìm cho mình một giải pháp (tạm thời)
làm giảm bớt đi sự bất hạnh của chính mình, tuy nhiên không phải vì
thế mà Phật Giáo có thể trở nên chính đáng hơn: bởi vì thật ra thì nhất
định đấy chỉ là những gì không chính thống lắm (dù
sao cũng xin ngả mũ khâm phục một người Tây Phương bảo vệ Phật Giáo
triệt để đến mức độ tôn trọng tất cả những gì ghi chép trong kinh sách
nguyên thủy - ghi chú thêm của người dịch).
Một chủ thuyết không chính thống (heterodox)
Ngay ở Thái Lan các chủ thuyết của Buddhadasa Bhikkhu cũng đã từng
gây ra nhiều sự tranh cãi hăng say và quyết liệt, không thể nêu ra hết
được. Dù sao đi nữa thì cũng phải công nhận là những sự chỉ trích trên
cũng cho thấy là chủ trương "thu ngắn" các khái niệm về cái chết, sự
tái sinh và các lãnh vực hiện hữu (tam giới)
thành ra các thể dạng tâm thần không được hoàn toàn phù hợp với Kinh
sách cổ điển. Rất nhiều đoạn trong Tam Tạng Kinh định nghĩa thật minh
bạch những gì mà Đức Phật gọi là "cái chết":
"Sự già nua, lọm khọm, yếu đuối, đầu bạc, da dẻ nhăn nheo, sức
sống suy tàn, khả năng sinh tồn suy sụp... của các thể loại chúng sinh
dù thuộc vào nhóm này hay nhóm nọ, là những gì gọi là "sự già nua". Sự
chết chóc, qua đời, tắt nghỉ, ra đi, dẫy chết, sự chết, chấm dứt đời
mình, bỏ lại các thứ cấu hợp, xa lìa thân xác, tình trạng các khả năng
sinh tồn ngưng hoạt động... của các thể loại chúng sinh, dù thuộc vào
nhóm này hay nhóm nọ, là những gì gọi là "cái chết"... [...]
Trong nhiều kinh sách nguyên thủy Đức Phật thường hay ghép sự già nua
và cái chết chung với nhau, đến mức độ gồm chung vào một thuật ngữ duy
nhất là: jaramarana (jara là già, marana là chết). Cũng thế, sự sinh cũng được định nghĩa như sau:
"Này các tỳ kheo thế "sự sinh" là gì? Sinh, nguồn gốc, sự hình
thành, tái sinh, sự hiển hiện của ngũ uẩn (sự phát triển của cơ thể và
tâm thức), đạt được các lãnh vực hiện hữu của các thể loại chúng sinh
thuộc vào nhóm này hay nhóm nọ, thì đấy gọi là "sự sinh". [...]
Đối với quá trình tái sinh thì Đức Phật lại còn nêu lên một cách rõ ràng hơn nữa, đấy là cách quay lại tử cung một lần nữa (gabbhaseyyâ còn gọi là là yoni):
"Này Sîha (tên một nhân vật trong kinh), theo
một khía cạnh nào đó thì quả đúng là Ta có thuyết giảng chống lại sự
mang thai và tập cho các đồ đệ của Ta biết chống lại sự mang thai (có nghĩa là thoát khỏi sự tái sinh).
Nếu có một đồ đệ nào quá sức thèm muốn được trải qua một thời gian
trong tử cung để tái-hình-thành, thì chính sự thèm muốn ấy phải được
loại bỏ, phải được nhổ bỏ tận rễ, giống như một gốc cây dừa [mất hết rễ]
không còn mọc lại được nữa và không còn sinh sôi được nữa. Chính vì
thế mà Như Lai bảo rằng mình là một người chống lại sự mang thai.
Này Sihâ, nơi con người Như Lai sự thèm muốn được trải qua một
thời gian trong tử cung để được tái-hình-thành, được tái-sinh trở lại
đã bị loại bỏ, nó đã bị nhổ bỏ tận rễ, giống như một gốc cây dừa [không còn rễ khiến cho nó] không còn mọc lại được nữa và không còn sinh sôi được nữa".
Tánh cách hiện thực của sự hiện hữu sau cái chết vật chất và sự tái sinh (dưới thể dạng hình tướng hay vô hình tướng) trong nhiều lãnh vực hiện hữu khác nhau (tam giới) được xác định như sau: "Sau
khi chết và thân xác đã bị hủy hoại, thì sẽ tái sinh vào một cõi thuận
lợi thuộc vào một lãnh vực cao, [hoặc] vào một cõi bất thuận lợi thuộc
một lãnh vực thấp kém, trong địa ngục..." Dù muốn hay không thì cũng không thể nào bác bỏ được cách chỉ định cái chết vật chất (tức "sự tan rã của thân xác" trong câu phát biểu trên đây)
sẽ được tiếp nối bằng một sự tái sinh vào một lãnh vực hiện hữu có
thật. Câu trích dẫn trên đây không phải là một trường hợp duy nhất và
cũng không thuộc vào bất cứ một sự bình giải mới mẻ được ghép thêm sau
này để mà có thể loại bỏ được dễ dàng: người ta có thể tìm thấy các
trích dẫn mang cùng một ý nghĩa như trên đây 78 lần trong Trường A Hàm (Dîgha-nikâya), 250 lần trong Trung A Hàm (Majjhima-nikâya), 244 lần trong Tạp A Hàm (Samyutta-nikâya), 264 lần trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara-nikâya), 23 lần trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka-nikâya), 19 lần trong Luật Tạng (Vinaya-pitaka) và 17 lần trong A-tì-đạt-ma Luận (Abhidhamma-pitaka).
Một sự hiểu biết phiến diện
Sự đơn giản hóa các lãnh vực hiện hữu để biến chúng trở thành những
thể dạng tâm thần và sự thu ngắn chu kỳ tái sinh trở thành các thể dạng
hiện hữu sẽ không mang lại một sự hiểu biết mới lạ nào cho Đạo Pháp
hay là một sự hiểu biết "đích thật" nào cả, mà chỉ đưa đến một tầm nhìn
nông cạn về giáo huấn của Đức Phật. Sở dĩ nông cạn là bởi vì mục đích
theo đuổi không phải là sự tìm kiếm sự thật mà đúng hơn là một sự thích
ứng sự thật vào một khuôn khổ khái niệm cứng nhắc. Sở dĩ nông cạn là
bởi vì chính sự suy nghĩ đã dừng lại ở nửa đường: dù Đức Phật cho biết
là tâm thức luôn giữ một vai trò ưu thế và là con đường giúp để trau dồi
các phẩm tính tinh thần, thế nhưng không phải đấy là lý do để thiết
đặt một ngành tâm lý học thuần túy, mà đúng hơn chỉ là cách cho biết
tâm thức giữ vai trò chủ động tạo ra mọi khổ đau (tức là khổ đau vì sự
tái sinh) và giúp làm dập tắt mọi khổ đau (có nghĩa là loại bỏ được sự tái sinh hay ít ra cũng giúp tái sinh trong một môi trường thuận lợi).
Quả thật hoàn toàn đúng là con người trong từng giây phút một cảm
nhận được các thể dạng tâm thần có thể xem như là "thiên đường" hay
"địa ngục"; quả thật hoàn toàn đúng là sự tiếp nối tâm thần trong mỗi
một phần triệu giây có thể biểu trưng cho cái chết và một hình thức tái
sinh nào đó (mỗi một khoảnh khắc
trên dòng tiếp nối liên tục của tâm thức có thể biểu trưng cho sự chấm
dứt và một thể dạng hình thành dính liền nhau - ghi chú thêm của người
dịch); quả thật hoàn toàn đúng là Đức Phật có khuyên dạy
phải chủ động các thể dạng tâm thần và phát huy tri thức cũng như sự
hiển hiện và tắt nghỉ của chúng. Thế nhưng Đức Phật không dừng lại ở
giữa dòng sông mà đã giảng rằng sự hiểu biết các quá trình tâm lý chỉ
có thể mang lại lợi ích khi nào nó giúp để trau dồi các thể dạng tâm
thần tích cực, mang lại sự lợi ích (kusala), đại khái như "phúc hạnh ở cõi thiên đường", các thể dạng đó sẽ giúp những Phật tử kém cỏi tái sinh một cách thực sự (bằng hình tướng hay vô-hình-tướng) trong một lãnh vực hiện hữu thuận lợi hơn, hay giúp cho các Phật tử ở các cấp bậc cao thâm đạt được niết-bàn (nibbana) hầu chấm dứt sự tái sinh.
Cách đồng hóa các thể dạng tâm thần với các thể dạng "thiên đường"
hay "địa ngục" không đi ngược lại sự xác nhận là có các lãnh vực hiển
hữu thật sự (tam giới). Trái lại là đằng khác: đấy là các thể
dạng tâm thần lập đi lập lại và được củng cố thêm - đấy là quy luật của
nghiệp - và chúng sẽ đưa đến một sự tái sinh trong một hoàn cảnh tái
sinh có thật (thể dạng tâm thần của một cá thể sẽ quy định hoàn cảnh tái sinh của cá thể ấy trong một cõi tái sinh có thật).
Kinh sách gọi các lãnh vực hiện hữu do cái chết mang lại là "các trú
xứ của tri thức" và đấy là các lãnh vực hiện hữu được quy định bởi sự
vận hành của tâm thức của các chúng sinh sống trong đó; và hầu hết các
chúng sinh trú ngụ trong các thể dạng ấy thì hoặc là không mang một
hình tướng vật chất nào cả mà chỉ đơn thuần là những thể dạng tâm thần,
hoặc mang hình tướng vật chất thật vi tế và luôn bị lấn lướt bởi một
sự sinh hoạt tâm thần tinh tế; các người tu tập khổ hạnh lúc sống có
thể đạt được sự cảm nhận về các thể dạng trên đây, đấy là những sự cảm
nhận phát hiện trong lúc đang hành thiền, tức có nghĩa là các thể dạng
hoàn toàn mang tính cách tâm thần mà họ đã thực hiện được. [...]
Thật hết sức quan trọng phải công nhận rằng các thể dạng hiện hữu đó
trên phương diện phẩm chất không khác biệt với các thể dạng tương đương
với các thể dạng trong sự hiện hữu hiện tại (tức của một cá thể đang sống).
Thiền định có nghĩa là trong lúc còn sống thực hiện được, nếu có thể,
một sự chủ động hoàn toàn một cấp bậc sinh hoạt tâm thần nào đó, và nếu
có thể giữ cho thể dạng tâm thần ấy bền vững trong lúc xảy ra cái chết
thì nó sẽ tiếp tục kéo dài sau cái chết dưới một thể dạng hiện hữu
thuộc vào một cấp bậc nào đó. [...] (cũng xin mạn phép nêu lên phép thiền định này cũng là một phép tập luyện của Kim Cương Thừa - ghi chú thêm của người dịch).
Nếu cho rằng sự tái sinh vào các lãnh vực hiện hữu khác nhau nhất
thiết là một sự kéo dài của thể dạng tâm thần ưu thế chi phối cuộc sống
trước đây của một người hấp hối và người này có thể tiếp tục cảm nhận
được thể dạng đó vào những giây phút cuối cùng, thì trong trường hợp
này cũng có thể xem các chủ thuyết "tâm lý hóa" có thể chấp nhận được
trên một số khía cạnh nào đó.
Dù sao thì đấy cũng không phải là một lý do để chấp nhận chủ thuyết
cho rằng các thể dạng tâm thần khác nhau và các lãnh vực hiện hữu khác
nhau chỉ thuộc vào một kiếp sống duy nhất trong hiện tại và sau đó sẽ
tan biến với sự sống đó (đây là một luận cứ cho thấy Didier Treutenaere không hiểu tường tận chủ thuyết thu ngắn của khuynh hướng cải tiến), bởi vì đấy là cách cho thấy chúng ta đã lọt ra ngoài giáo lý Phật Giáo của các vị Thera (các vị Trưởng lão hay Người xưa - tức nguyên thủy)
và cũng có thể nói là đi ra ngoài cả Phật Giáo nói chung. Chẳng phải
là Đức Phật đã luôn nhắc nhở chúng ta phải xem Đạo Pháp trái ngược lại
với sự tin tưởng sai lầm của chủ nghĩa đoạn diệt (hư vô) hay sao.
Bánh xe của sự sống hay bánh xe luân hồi
tìm thấy trong hang động Đại Túc (Dazu) tại tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc)
Vài lời ghi chú của người dịch
Tài liệu trên đây cho thấy một sự tranh biện giữa hai khuynh hướng
có thể tạm gọi là "bảo thủ" và "cấp tiến" đối với hiện tượng tái sinh,
được học giả và triết gia Phật Giáo là Didier Treutenaere đứng về phe
"bảo thủ" nêu lên và phân tích. Nếu chúng ta rơi vào sự tranh cãi và
nhất là để bảo vệ một vị thế hay một chính kiến nào đó thì nhất định
chúng ta sẽ không tránh khỏi các ngõ ngách lắc léo của tư duy. Hậu quả
mang lại là sự bế tắc hay lạc hướng, và đấy chính là những gì mà Đức
Phật luôn cảnh giác các đệ tử của Ngài.
Thí dụ như tất cả các người đưa ra các quan điểm liên hệ ít nhiều đến
chủ đề trên đây là Stephen Batchelor, Didier Treutenaere, vị tác giả
bài viết này của Viện Đại Học Phật Giáo Âu Châu... và kể cả người dịch,
tất cả có thể ngồi xuống với nhau để trực tiếp tham gia vào cuộc tranh
cãi thì chúng ta cũng sẽ tưởng tượng được là cuộc tranh cãi đó sẽ trở
nên bất tận và sẽ chẳng đi đến đâu cả. Riêng nhà sư Buddhadasa thì
không còn đấy nữa để mà tham gia với chúng ta, dù cho ngài còn hiện
diện đi nữa thì cũng rất có thể là ngài chỉ mỉm cười và không tranh
biện với chúng ta để làm gì.
Vài lời ghi chú dưới đây chỉ là một vài thiển kiến nêu lên để cùng với người đọc suy tư mà thôi:
1- Người ta thường cho rằng Phật Giáo rất gần với khoa học, và một
trong những khía cạnh tượng tự giữa khoa học và Phật Giáo là sự tiến
hoá hay là sự cải tiến không ngừng. Đối với khoa học thì các giả thuyết
thay nhau bị đánh đổ giúp cho khoa học đạt được những hiểu biết mới
hơn và chính xác hơn. Đối với Phật Giáo thì các học thuyết thay nhau
góp phần giúp cho Phật Giáo ngày càng trở nên phong phú hơn. Đấy cũng
là một nét đặc thù mà tất cả các tôn giáo khác không có.
Vào thế kỷ thứ II Long Thụ khai triển học thuyết Trung Quán, vào thế
kỷ thứ IV Vô Trước và người em là Thế Thân khai triển học thuyết Duy
Thức, vào các thế kỷ thứ VII và thứ VIII thì Kim Cương Thừa Phát triển
mạnh mẽ..., đấy là những biến cố lớn đã xảy ra trên dòng tiến hóa của
Phật Giáo. Đấy là chưa kể đến vô số các đại luận sư, chẳng hạn như Hộ
Pháp (thế kỷ thứ V), Trần Na (thế kỷ thứ VI), Bồ-đề Đạt -ma (thế kỷ thứ
VI), Pháp Xứng (thế kỷ thứ VII), Huệ Năng (thế kỷ thứ VII), Tịch Hộ
(thế kỷ thứ VIII), Tịch Thiên (thế kỷ thứ VIII), Đạo Nguyên (thế kỷ
XIII), v.v..., và v.v... cho đến ngày nay là Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, tất cả
đã thay nhau bình giải đạo Pháp góp phần giúp cho giáo lý nhà Phật ngày
càng trở nên phong phú hơn, tương tự như một gốc cổ thụ luôn xanh tươi
và rợp bóng, không như một gốc cây chết khô của những giáo điều cứng
nhắc.
Kim Cương Thừa không phải là một tông phái riêng biệt, cũng không
phải là một hình thức thoái hóa hay lệch lạc của Phật Giáo, mà đúng hơn
là một sự phát triển khá tự nhiên của Đại Thừa dựa vào các phép tu tập
đặc thù. Nếu muốn tìm thấy những biến đổi khác của giáo lý nhà Phật
thì cũng có thể đi ngược trở về xa hơn nữa, chẳng hạn như đại hội kết
tập Đạo Pháp vào thế kỷ thứ I sau Tây lịch đã cho thấy sự xuất hiện của
4 tông phái, mỗi tông phái lại có nhiều học phái khác nhau, gồm chung
tất cả là 18 học phái. Ngược xa hơn nữa thì vào thế ky thứ III trước
Tây lịch thì đại hội kết tập Đạo Pháp dưới triều đại vua A-dục là một
đại hội quan trọng nhất nhằm mục đích loại bỏ những thêm thắt "dị giáo"
hoặc không chính thống, và ngay vào thời kỳ xa xưa này cũng đã thấy
xuất hiện hai đường hướng Phật Giáo khác nhau là Sthaviravâdin (Thượng
Tọa Bộ) và Mahâsanghika (Đại Chủng Bộ). Ngoài ra cũng còn có một sự
kiện khác đáng để quan tâm, ấy là tất cả các kinh sách sớm nhất ghi
chép bằng chữ viết, dù đấy là của Phật Giáo Nguyên Thủy hay của Đại
Thừa thì cũng đều xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ I trước Tây lịch. Tóm
lại là rất khó để có thể khẳng định là kinh sách nào nguyên thủy hơn và
phần giáo lý nào chính thống hơn.
Tóm lại khi tạo được cho mình một tầm nhìn bao quát hơn thì chúng ta
cũng sẽ ít bị rơi vào những ngõ ngách chật hẹp của tư duy hơn. Những vị
luận sư thuộc tầm cỡ của Buddhadasa thật hết sức cần thiết cho sự phát
triển của Phật Giáo nói chung trong thời đại của chúng ta. Có thể vì
Buddhadasa là một con người quá sức khiêm tốn, giản dị và kín đáo nên
đã khiến chúng ta vì vô minh mà không nhìn thấy được chiều sâu nơi ông
và những tư tưởng "siêu-thế-tục" của ông.
Buddhadasa Bhikkhu (1906-1993)
2- Vấn đề tái sinh là một vấn đề gần như là "bất khả nghị" đối với
Phật giáo, do đó thiết nghĩ cũng không cần bàn thảo thêm trong phần ghi
chú này. Chỉ xin nhắc lại là trong đêm giác ngộ, Đức Phật đã nhìn thấy
hết tất cả các tiền kiếp của Ngài. Chúng ta vì vô minh dầy đặc và những
thứ hiểu biết quy ước thu góp được quá nhiều qua sáu cửa ngõ của giác
cảm đã che lấp trí tuệ cho nên chúng ta không nhìn thấy được quá khứ xa
xôi của chính mình. Nếu gạt bỏ bớt những dao động của các thứ xúc cảm
bấn loạn và tinh khiết hóa tâm thức thì chúng ta tuy không thể nhìn
thấy trực tiếp được tiền kiếp của mình, thế nhưng biết đâu cũng có thể
nhận thấy đưọc những tác động và ảnh hưởng từ những gì trong các kiếp
sống quá khứ trên sự hiện hữu hiện tại của chính mình. Nhờ đó chúng ta
cũng có thể tự kiểm chứng được hiện tượng tái sinh bằng chính những cảm
nhận của mình.
Buddhadasa trong "Quyển sách cho Nhân Loại" có nêu lên thật
kín đáo sự tái sinh trong nhiều đoạn, thế mà học giả Didier Treutenaere
lại không nhìn thấy. Thiết nghĩ chỉ cần nêu lên một thí dụ điển hình
như sau là cũng đủ. Buddhadasa nhìn năm thứ cấu hợp hay ngũ uẩn tạo ra
cá thể con người là thế giới, và cái thế giới đó cũng gồm chung với nó
tất cả mọi "sự vật" khác, tức có nghĩa là mọi hiện tượng trong vũ trụ
này, dù đấy là vật-chất hay phi-vật-chất. Buddhadasa lại chia cái thế
giới đó làm hai lãnh vực: thế-tục và siêu-thế-tục. Lãnh vực
siêu-thế-tục sau đó lại được phân chia thành bốn cấp bậc khác nhau:
- cấp bậc của những "Người bước vào dòng chảy" tức là những người đã
đưa chân bước lên Con Đường hướng về Niết-bàn. Thế nhưng Niết-bàn thì
vẫn còn xa ở cuối Con Đường và họ thì còn phải tiếp tục tái sinh cho
đến khi nào đạt được các cấp bậc cao hơn.
- cấp bậc của những "Người chỉ còn quay lại một lần" tức là những người chỉ còn tái sinh thêm một lần cuối cùng trên Con Đường.
- Những "Người không còn bao giờ quay lại nữa" tức là những người đã
tìm thấy tiền vị của Niết-bàn, trước khi thực hiện được Niết-bàn thật
sự.
- Sau hết là những người gọi là A-la-hán tức là những người đã đạt được thể dạng của Niết-bàn đích thật.
Trích dẫn trên đây có lẽ cũng đủ chứng minh cho quan điểm của
Buddhadasa về sự tái sinh. Hơn nữa theo Buddhadasa thì ngũ uẩn cũng
chính là thế giới và cái thế giới đó có hai lãnh vực: thế-tục và
siêu-thế-tục, do đó nếu có ai hỏi chúng ta là Niết-bàn ở đâu thì chúng
ta dù chưa nhìn thấy được Niết-bàn thế nhưng chúng ta cũng có thể lấy
ngón tay để trỏ vào Niết-bàn trong đầu của chúng ta. Đấy là thông điệp
thật tuyệt vời mà Buddhadasa đã để lại cho chúng ta.
3- Đối với vấn đề các lãnh vực của sự hiện hữu tức là tam giới (dục giới, sắc giới và vô sắc giới) hay lục đạo, hay sáu cõi luân hồi (súc sinh, địa ngục, ngạ quỷ, thiên giới và A-tu-la)
thì Buddhadasa cũng bảo đấy là các thể dạng của tâm thức của chính
chúng ta. Thí dụ như những người điên loạn chỉ thấy trong đầu toàn là
ma quỷ, đâm chém, máu me thì đấy là cõi ngạ quỷ. Những người bị ức
hiếp, tra tấn, đọa đày, nô lệ, tù tội thì đấy là cõi địa ngục. Những
người đần độn bị lường gạt, bị cưỡng bức, ngốc nghếch, khờ khạo thì cũng
chẳng khác gì như đang sống nơi cõi súc sinh. Những người may mắn hơn,
biết thế nào là đạo đức, thế nào là phải trái, ấy là những "con người
bình dị" như chúng ta, tức ý thức được cái cõi ta-bà của chính mình.
Những con người cao cả hơn, thanh cao hơn, tâm thức tinh khiết hơn và
họ biết yêu thương nhiều hơn chúng ta, thì biết đâu họ là những người
đang sống trong cõi thiên nhân và họ có thể đang ở bên cạnh chúng ta mà
chúng ta không hay biết. Những người tu tập cao thâm hơn nữa thì có
thể trú xứ của tâm thức họ là cõi sắc giới hay vô sắc giới, cõi thiên,
cõi A-tu-la mà chúng ta không nhìn thấy được.
Nếu Didier Treutenaere nhất quyết cho rằng các cõi tái sinh hay luân
hồi là có thật thì cứ hỏi xem ông có thể dùng ngón tay để trỏ vào những
cõi ấy hay không? Chúng thuộc vào hành tinh này hay một nơi nào khác
trong vũ trụ? Nếu Didier Treutenaere không lúng túng thì những người tu
tập theo các tôn giáo độc thần cũng sẽ không lúng túng, vì nếu họ được
hỏi là thiên đường ở đâu thì họ sẽ ngước mắt lên trời và chỉ cho chúng
ta biết là thiên đường của họ nhất định là ở trên ấy, hoặc tương tự
như khi hỏi một số người tu tập Đại Thừa là Tây Phương của họ ở đâu thì
họ sẽ nhìn xem là mặt trời lặn về hướng nào và sẽ trỏ cho chúng ta
biết là Tây Phương của họ ở vào hướng ấy.
3- Sau hết xin trích dẫn một đoạn ngắn trong kinh Cula-Malunkya-sutta tức
là bản kinh về những câu hỏi vô ích, để thay cho phần kết luận. Trong
kinh này một đệ tử của Đức Phật là Malunkyaputta nêu lên một số thắc
mắc của mình để hỏi Đức Phật như sau:
- Sự sống và thân xác là một thứ như nhau ?
- Sự sống và thân xác có phải là hai thứ khác nhau ?
- Một sinh linh được giải thoát có hiện hữu sau khi chết hay không ?
- Một sinh linh được giải thoát không còn hiện hữu sau khi chết ?
- Một sinh linh được giải thoát hiện hữu nhưng đồng thời cũng không hiện hữu sau khi chết ?
- Một sinh linh được giải thoát, đồng thời không hiện hữu cũng không phải là không-hiện-hữu sau khi chết ?
Đức Phật trả lời cho Malunkyaputta như sau:
"Này Malunkyaputta, mặc dù có một quan điểm theo đó một sinh
linh được giải thoát hiện hữu sau khi chết và có một quan điểm [khác]
theo đó một sinh linh được giải thoát sau khi chết không còn hiện hữu,
nhưng trước nhất phải hiểu rằng có sinh, có già, có chết, có khổ, có
than khóc, có đớn đau, xót xa và tuyệt vọng. [Đối với] Ta, Ta [chỉ]
giảng [cho con] về sự chấm dứt những thứ ấy trong thế giới này, trong
chính sự sống này. Vì thế, này Malunkyaputta, hãy giữ lấy trong tâm
những gì Ta giảng, đúng như Ta đã giảng, và những gì Ta không giảng
đúng như ta không giảng".
(theo bản dịch của Mohan Wijayaratna, trong Sermon du Bouddha, cerf, 1988)
Có lẽ cũng chính vì thế mà Buddhadasa đã không nói lên những gì vô ích.
Bures-Sur-Yvette, 25.01.12
Hoang Phong chuyển ngữ
* Bài viết của Viện Đại Học Phật Giáo Âu Châu (http://www.bouddhisme-universite.org/node/295)