Tự Lực và Tha Lực là những phương tiện để đạt được cứu cánh
NTS Nguyệt Thanh
21/03/2011 08:07 (GMT+7)


Đức Phật dạy :

"Tumhechi kiccam atappam akkhatar tathagata"

"Các con phải cố gắng, các đấng Như Lai chỉ là những vị thầy"

Trong cụm từ đầu tiên : ‘Các con phải cố gắng’, là lời Đức Phật khuyên những người tu Phật. Dựa vào tư tưởng này mà nhận xét, thì Đức Phật cho thấy chúng ta có năng lực tự mình tiếp nhận sự giáo pháp của Ngài.

Từ những lời giảng của Ngài cho chúng sanh biết, tất cả đều có Phật tính và có những khả năng để hoàn thiện cho sự triển khai Phật tính đó,đều có thể thành Phật. Nghĩa là Phật chỉ là một con người đã giác ngộ mà cái khả năng giác ngộ đó tiềm ẩn trong mọi con người, nên những ai biết xác định lại khả năng của chính mình, bằng nhận thức và ý chí hành động thực tiễn trong đời sống tu tập thường nhật, cũng có thể trở thành người tỉnh thức như Ngài.

Khái niệm về chính mình và thế giới chung quanh, là sự bắt đầu nảy sinh cho những điều kiện để phát triển trong xã hội hiện hữu của con người. Từ trong cuộc sống Đức Phật, ngày đêm trầm tư mặc niệm, gom tâm quan sát từng yếu tố vật chất và tinh thần, bằng sự thực nghiệm, thực chứng của chính Ngài, ở trong lối sống, cách ứng xử đối với bản thân, giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên vũ trụ, để giúp con người nhận thức được rằng, mỗi người là chủ của mình và có khả năng cải thiện cho đời sống, để đạt đến mục đích tối hậu, qua sự cố gắng tinh tấn của chính mình.

Những giáo pháp căn bản khác nhau của Ngài đưa ra, chính là sự đối chiếu giữa cái có và cái không của vạn vật, bằng cái nhìn thường nghiệm và sự hiểu biết am tường về chân tướng của vũ trụ nhân sinh, để nhận định rõ một cái không thật trong thế giới hiện hữu của con người. Điều này có thể chứng minh qua Tâm Kinh hay thập nhị nhân duyên của nhà Phật.

Khi hiểu rõ được mọi hiện tượng tâm lý và vật lý của vạn vật, đều nằm trong một mối liên hệ với nhau một cách tổng quát, để tạo nên đời sống, thì đó chính là trí tuệ siêu việt, mà người tu Phật cần phải đạt đến.

Đức Phật đã trình bày : Nguyên nhân của một yếu tố này được hình thành là kết quả đóng góp của một yếu tố khác, trong quá trình có định luật và trật tự. Theo Ngài thì cái gì cũng phải có nhân duyên hội đủ mới được hoàn thành. Nói một cách khác là không có cái nào thật là Nhân duyên và cái nào chính là Quả cả. Vì trong cái Nhân duyên đã có chứa cái Quả rồi và ngược lại.

Vì vậy tiến trình này nói lên sự hiện hữu của cái “Thật Tướng, thật Tánh của vạn vật. Tất cả vạn vật được tồn tại hay bị biến thái, cũng đều tùy thuộc vào các điều kiện tương trợ tổng hợp khác nhau, bằng những yếu tố chung hoặc những yếu tố riêng trong các nhóm cá thể, tụ hội lại và tác động với nhau trong từng khoảnh khắc và cứ liên tục xoay vòng không dừng.

Đây chính là lý giải nguyên nhân đi sâu vào sự hợp duyên của 5 uẩn hay luân hồi, mà Đức Phật đã kết hợp từ kinh nghiệm sống và tư duy của chính mình để tìm ra con đường giải thoát, bằng cách diệt vô minh, hầu giúp cho những ai tu theo Ngài, tự mình có thể trực tiếp thể nghiệm, bằng cách hành trì thực tế theo con đường đạo học của Ngài, mà không tạo nghiệp, thoát khỏi luân hồi, theo luật nhân quả.

Trong Kinh viên giác, Đức Phật khuyên rằng : “Theo ngón tay Ngài chỉ mà ngắm nhìn và đi đến mặt trăng” chứ đừng nên “Chấp ngón tay của Ngài”  rồi không thấy mặt trăng thì làm sao mà đi đến mặt trăng được.

Theo Kinh Kim Cang : Giáo pháp của Đức Phật là những thuyền Từ để chở người thoát ra ngoài bể khổ sinh tử; khi đã tới bến, ta cần phải bỏ bè lại.

Phật học là cách sống thực tiễn để hướng dẫn cho người tu Phật hay đang đi tìm đạo, bằng những phương diện tìm hiểu khác nhau qua những lý giải thực hành, thực chứng của chính Đức Phật truyền lại, mà hành theo bằng nghiệm chứng và xác thực của chính mình, rồi đem thành qủa đó chỉ lại cho người khác.

Trong 45 năm thuyết Pháp, Đức Phật không từng viết một chữ. Nhưng, lời nói của Ngài chỉ là người chỉ đường, mỗi người phải tự đi đến, không ai đi thế cho ai được. Nên lấy đó làm gương mẫu cho đời sống cao cả, trong đời sống đạo tu học của mình.

Việc tu Phật là tiến trình riêng của mỗi người. Con đường tự lực tu tập cũng vậy. Trường A Hàm I có ghi Đức Phật dạy như sau: "Này các Tỳ kheo, hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc của chính mình, thắp lên với chánh pháp, đừng thắp lên với một pháp nào khác. Hãy tự mình làm chỗ nương tựa của chính mình, nương tựa với chánh pháp, đừng nương tựa với một pháp nào khác".

Tinh thần tự lực là nền tảng cho sự phát triển đạo đức bằng tâm từ, bi, hỷ, xả, được hiểu như là tâm Phật, nhằm mục đích giác ngộ và giải thoát phiền não, khổ đau, tội lỗi cho chính mình cũng như cho người.

Theo Trường Bộ I có ghi : ‘Tâm từ là khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân. Tâm bi là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt. Tâm hỷ là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới. Tâm xả là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không phân biệt.’

Sự tu tập của người học Phật giống như một cái bánh xe quay. Khi bánh xe quay, sẽ luân chuyển theo vòng quay và cần những lực tác động. Từng vòng quay của bánh xe đang chuyển động là sự tiến trình trong chu kỳ "thành, trụ, hoại, diệt" qua những hình thức biến thái khác nhau.

Thí dụ: Mỗi điểm của bánh xe đang lăn khi tiếp xúc với mặt đường, thì được hiểu như là cái đến, sự hình thành, sự có mặt… và khi những điểm tiếp xúc với mặt đường mà vòng quay của bánh xe đã vượt qua, thì được xem như là cái đi, cái mất… và cái điểm tiếp xúc của bánh xe đang lăn trên mặt đường sinh ra sau khi cái điểm tiếp xúc hiện tại kết thúc, đó là sự tái sinh theo chu kỳ, dựa vào sự tồn tại của những lực tác động bên ngoài cũng như bên trong.

Quá trình tiến tu của người học Phật là phải tự nỗ lực phát triển trí tuệ, đức hạnh của mình, bằng sự noi theo những công hạnh của Bồ Tát, mà áp dụng trong đời sống thường nhật thì mới đạt quả vị toàn giác.

Muốn cần diệt khổ để giải thoát, thì phải tìm hiểu nguồn gốc nguyên nhân gây ra khổ. Cũng từ điểm này mà người học Phật ý thức được ý nghĩa sâu sắc của lộ trình tu như vậy, thì sẽ tránh được mọi nghi vấn, hoang mang bằng cách nắm chắc tất cả những thông tin đã biết, để trả lời cho một vấn đề cụ thể.

Người ta có thể đọc xuôi những bảng chữ cái một cách rất dễ dàng, nhưng khi đọc ngược là chuyện không dễ làm. Sự thuyết giáo rộng lớn vô cùng tận chưa từng gián đoạn của Đức Phật chỉ dạy, có được là do từng sự nối tiếp cụ thể trong thời gian tu tập của chính Ngài.

Do đó, khi hiểu được quá trình hình thành và sự phát triển này, thì người học Phật phải đặt chúng vào trong từng hoàn cảnh nối tiếp cụ thể mà tu tập hành trì như Ngài.

Hiểu được sự cần thiết của sự học Phật hay tu theo Phật thì mới có động lực để học tu tập hành trì. Học Phật hay tu theo Phật không có đường tắt, cần phải có thời gian để tiếp thu được những gì Đức Phật dạy, rồi sau đó hãy dựa vào chính mình mà tiến hành thực hành tu tập, để có khả năng hội nhập trong đời sống hiện tại làm "Người có ích" cho gia đình, xã hội.

Đồng thời, cùng nhau thể nghiệm, hành trì, quán chiếu, một cách trung thực về những lời của Đức Phật nói, mà được khai tâm nhập vào pháp giới tánh, thì mới tiến đến sự giác ngộ và giải thoát khỏi luân hồi bằng một niềm tin bất diệt đối với giáo pháp của Ngài.

Trong “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh (Vṛiddhastrī-sūtra)”, Đức Phật có nói : Sanh không từ đâu đến và cũng không đi về đâu. Già, bệnh, chết không từ đâu đến cũng không đi về đâu... Các pháp đều như vậy. Ví như hai thanh cây cọ xát vào nhau phát ra lửa, lửa lại đốt hai thanh cây. Cây cháy hết lửa cũng tắt.”

Các pháp không chỗ đến và không chỗ đi… mỗi thứ tùy theo sự hoạt động của nó mà thành. Như tai họa, đọa vào địa ngục, sinh lên trời hay làm người thế gian cũng thế... không phải tự nhiên mà có.

Sự phụ thuộc lẫn nhau của vạn vật hay tư duy về lẽ sinh, trụ, hoại, diệt, được Đức Phật trình bày một cách khác, được thấy trong Thập Nhị Nhân Duyên như sau :

1) Cái này có thì cái kia có

2) Cái này sinh thì cái kia sinh

3) Cái này không có thì cái kia không có

4) Cái này diệt thì cái kia diệt

Trí huệ của Phật là Chánh biến tri, là biện pháp để giải quyết cho những ai đang cần diệt khổ để giải thoát cho chính mình và những người đang sống chung quanh bằng cách tự thực hành, tự tu tập thanh lọc tâm ý, tự thấy được lợi ích qua kinh nghiệm thực tế của chính bản thân trong đời sống hằng ngày, qua bốn chữ : Từ, Bi, Hỷ Xả, của Ngài đã dạy.

Đức Phật là người Tỉnh thức, là người đã tận diệt tham sân si, đạt được giải thoát viên mãn, bằng sự thực nghiệm, thực chứng của chính mình, ở trong lối sống, cách ứng xử đối với bản thân, giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên vũ trụ. 

Vì vậy có thể nói rằng học Phật hay tu theo Phật là phương thức sống, để giúp con người chuyển hóa toàn bộ đời sống, trong tinh thần thần dắt dẫn, khuyến hóa họ biến đổi điều dữ ra điều lành, mê ra ngộ, khổ ra vui trong cảnh giải thoát. 

Qua những phần trình bày được trích trong những câu kinh Phật, thì cụm từ : "Các con phải cố gắng" mà Đức Phật đã nói, đó là kim chỉ nam cho những ai đang theo dấu chân của Ngài, phải biết tự mình tu tập hành trì dựa trên nền tảng kinh nghiệm quý báu do Ngài truyền lại, mà không ỷ lại để tiếp tục con đường dấn thân phục vụ tha nhân, làm lợi lạc, mang lại hạnh phúc cho mình và cho người, như câu mà Ngài đã từng nói : “Ta ra đời vì an lạc cho số đông, vì hạnh phúc cho chúng sanh ”.

Đức hạnh là yếu tố căn bản để làm người, cũng chính là luân lý đạo đức mà con người thường hay nói đến trong nhiều lãnh vực sống của xã hội. Luân lý đạo đức của Đức Phật dạy là một sự giáo dục cao thượng và có thể so sánh được, khi cho con người biết rằng tất cả đều có Phật tính.

Phật tính là bản chất tinh khiết thực tiễn của sự tỉnh thức hoàn toàn thực mà chúng sanh có thể hoàn thiện và vượt qua bất cứ ô nhiễm nào, bằng nhiều cách tu tập khác nhau, trong tinh thần, tự lực, tự cường, bình đẳng, không phân biệt...

Trong không gian chúng ta cảm thấy mình quá bé nhỏ, mong manh, dễ vỡ tách biệt, giữa biển lớn của cuộc đời mênh mông. Còn trong thời gian chúng ta có bao giờ tự hỏi mình :‘Cuộc sống vẫn lặng lẽ trôi qua và Tôi sẽ đi về đâu ?’.

Sự tồn tại thường ngày của tính thường xuyên biến đổi trong đời sống và ngay chính cả bản thân mình, là chính Bạn đang đối diện với một vấn đề rất thường tình của đời sống tâm linh. Những nguyên nhân này do đâu mà có?

Nếu có giây phút nào mà dừng lại suy nghĩ, thì mới thấy vạn vật, cái ngã chỉ do duyên hợp và sẽ biến hoại, luôn luôn thay đổi. Đó là luật tự nhiên đã có trong bản chất của sự vật. Vì vậy, " Cái ngã " chỉ là một sự giả hợp do sự kết hợp của nhiều nhân duyên tạo thành, chính nó không có tự tánh, không có chủ thể hay vô ngã, cho nên sự thật là không thể tìm ra tự Ngã ở đâu được hết và không cái gì trên thế gian nầy thoát ra khỏi định luật “thành, trụ, hoại, không”. Theo định nghĩa : Tự Ngã là bản chất để tự nó có thể phát triển mà không cần đến sự giúp đỡ bởi những nhân duyên khác.

Qua những cách lý giải trên, thì Tự Lực và Tha Lực cũng chỉ là những giả danh đặc trưng cho sự một tổng hợp bắt nguồn từ nhiều nhân duyên của một hoặc nhiều động cơ kết hợp lại. Vì vậy, bản thân của Tự Lực và Tha Lực cũng không có tự tánh, không là trường tồn, không là vĩnh cửu mà luôn chuyển hóa không dừng.


Lực là gì?  Tự Lực là gì?  Tha Lực là gì?

Khi nói đến Lực là nói về bản năng có thể thay đổi, trong tiến trình : ‘Thành, Trụ, Hoại, Không’, thông qua những điều kiện hội tụ thuận hay nghịch của những yếu tố chung hoặc riêng trong các nhóm cá thể và cũng tùy thuộc và sự chọn lựa cá nhân.

Điều này được thấy trên thực tiễn thường ngày, mà người ta hay nói : Khi mình muốn biến đổi một cái gì, thì chính mình phải bõ công, tìm ra cái bản năng để thay đổi nó. Như vậy cái chính mình phải bõ công, tìm ra cái gì để thay đổi, thường được hiểu như là Lực.

Qua sự kết cấu từ nguyên lý hoạt động khác nhau của Lực, mà nó đã được ứng dụng vào tất cả các lĩnh vực của đời sống con người. Thiên nhiên đã ưu đãi con người rất nhiều nguồn tài nguyên quý giá, qua các hình dạng khác nhau được phát triển từ nguyên lý cơ bản của vũ trụ, theo quy luật biến thiên vĩnh cửu, hay loại bỏ mọi biến hóa có chu kỳ của nó.

Những lực tự nhiên trong thiên nhiên đã được biểu lộ qua những hình ảnh mà cuộc sống của con người cũng chịu những tác động bất thường như : Sét gầm, động đất, sóng thần, bão tuyết, lũ lụt, hạn hán…

Từ những tác động bất thường của những lực tự nhiên trong thiên nhiên đã biểu lộ, khi xét chi tiết qua những quan sát, thì các lực mà chúng ta hay bắt gặp trong cuộc sống hằng ngày, được thấy lực ở các dạng cơ bản như sau : Lực hút, Lực đẩy, Lực cản, Phản lực, Áp lực.

Trong thế giới vật lý học, có lẽ chúng ta ai cũng biết sơ hoặc nghe nói qua về chữ Trọng Lực. Thật ra Trọng Lực là tên gọi của Lực hấp dẫn của Trái đất.

Đây là một cách đặc trưng cơ bản trong vật lý để hiểu sự tồn tại của các lực giữ vật chất lại với nhau. Bởi vì, Lực hấp dẫn là lực hút giữa mọi vật chất và có độ lớn tỷ lệ thuận với khối lượng của chúng và tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách của hai vật.

Tác dụng về Lực hấp dẫn của Trái Đất :

- Do khối lượng của Trái Đất tác động lên các vật thể có khối lượng, ở gần bề mặt của nó và làm chúng rơi xuốngtự do tại một điểm đó bằng cường độ hút của nó.

- Sự gắn kết các vật chất để hình thành.

Thí dụ : Hình ảnh của một trái mít trên cây chín, rồi lại rơi xuống đất, mà không bay ra khoảng không trong vũ trụ. Điều đơn giãn dễ hiểu là do khối lượng tác động của trái mít quá nhỏ so với khối lượng hút của trái đất, cho nên người ta chỉ thấy hình ảnh của trái mít rơi, mà không thấy được sự chuyển động của trái đất, khi bị sự rơi của trái mít tác động vào nó.

Một thí dụ khác :

Sự hình thành của thủy triều trong biển và đại dương hay sông ngòi, là những chuyển động phức tạp, chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, đều phụ thuộc vào sức hút của mặt trăng và mặt trời đối với trái đất. Sự ảnh hưởng tự nhiên của mặt trăng và hiện tượng thủy triều trong thiên nhiên, là một tác động rất lớn tới việc làm ăn và sinh sản trong cuộc sống con người.

Chu kỳ con nước lên, xuống hay lớn, ròng, trong nghành : Nông nghiệp, thủy sản, và hệ thống giao thông nội thủy của người dân ở miền đồng bằng sông ngòi hay miền ven biển là những điều kiện thuận lợi rất quan trọng để phát triển cho việc nâng cao lợi ích sản xuất kinh tế của họ.

Các tin đã đăng: