Ðức
Phật thường diễn tả Niết Bàn qua thí dụ về lửa củi : Lửa từ củi bắt
cháy, khi củi cháy hết, thì lửa tắt "diệt". Chúng ta không nên hỏi ngọn
lửa ấy ra sao, đi về đâu, sau khi củi tiêu hết. Ngọn lửa ấy tận diệt
hoàn toàn, không còn chút dư sót lại, nó "tịch diệt". Mặt khác, Niết Bàn
thường được coi như là sự "giải thoát" khỏi tất cả mọi khổ đau, đồng
thời cũng là một sự an lạc cứu cánh vĩnh viễn, thế nên "giải thoát" và
"an lạc" cũng là hai ý nghĩa chính yếu nữa của Niết Bàn. Trong ba ý
nghĩa này, "tịch diệt" vẫn là ý nghĩa lạ lùng khó hiểu hơn hết. Tại sao
tịch diệt lại là an lạc, lại là giải thoát ? Ðể giải tỏa nghi vấn này,
chúng ta cần phải hiểu rõ cho tận cùng hết về mọi ý nghĩa sướng và khổ,
từ trong thế giới vật chất lên cho đến thế giới tâm linh. Dưới đây là
các nhận định sơ lược cốt gợi ý cho chúng ta tìm hiểu vào sâu hơn nữa.
1. Bản chất hay ý nghĩa của sự sống hữu tình là tìm sướng tránh khổ
Bản chất
của hữu tình nói chung, và của con người nói riêng, luôn luôn là tìm đủ
mọi cách để đạt được sự sung sướng như ý, và tránh đi tất cả những gì
khó chịu không như ý. Ai cũng sợ khổ đau, cũng sợ mọi thứ khuấy động não
phiền, ai cũng sợ bệnh, sợ già và sợ chết. Và ai cũng ham muốn được
sung sướng, được an lành, muốn khỏe mạnh, giầu sang phú quý, muốn danh
vọng quyền thế, và muốn mãi mãi được thụ hưởng. Sự phát triển không
ngừng của đời sống, sự không ngớt tìm tòi và hoạt động không ngơi của
con người, là để làm gì vậy ? Rõ ràng là để nâng cao đời sống lên. Và
nâng cao chỉ có nghĩa là làm sao cho sống sướng ra và bớt khổ đi, an lạc
ra và bớt lo âu sợ hãi đi. Ngay cho đến các tội ác hay chiến tranh thật
sự cũng chỉ là để đạt được sự sung sướng cho chính mình, hay để dẹp trừ
đi một mối đe dọa âu lo nào đó. Con người tạo ra đủ thứ, kể cả thiện
lẫn ác, giúp người hay hại người gì đi nữa, thì cũng chỉ là để đạt được
sự thỏa mãn cho các ý muốn của chính mình, và khi ý muốn được thỏa mãn,
con người cảm thấy sung sướng. Ngay cho đến một cử động nhỏ thôi của cơ
thể hay của tâm ý cũng là để tránh cái khổ tìm cái sướng, như khi ngồi
lâu tê chân khó chịu, chúng ta động đậy duỗi chân ra để được thoải mái
hơn, khi tâm trí làm việc nhiều đâm căng thẳng, chúng ta phải tác ý đến
một việc gì khác như giải trí vậy, để tâm thức được thoải mái hơn. Tóm
lại, hữu tình có nghĩa là "sống", và sống có nghĩa là một hoạt động
tránh khổ để được sướng.
2. Ý nghĩa sướng của hữu tình
Sướng
hay khổ đều là các cảm giác, Phật pháp gọi là "thọ". Theo Phật pháp
thời thọ này thường được phân làm ba loại, và nếu phân theo thân và tâm,
thì sẽ thành đến sáu loại. Ba loại thuộc thân là khổ, sướng (lạc), và
không khổ không sướng. Ba loại thuộc tâm là lo âu (ưu), mừng vui (hỉ),
và không lo không mừng. Bản chất tự nhiên của cảm thọ vốn là loại không
khổ không sướng. Như Câu Xá Luận giải thích, tác dụng tự nhiên của nó
chỉ là "lãnh nạp", có nghĩa là "thâu nhận vào" : Thọ là ngưỡng cửa đầu
tiên để thâu nhận các cảnh bên ngoài vào trong tâm thức. Nơi giai đoạn
này thọ chỉ thâu nhận chứ không biết gì là sướng hay khổ. Vậy thì do đâu
mà thọ ấy lại trở thành sướng hay khổ ? Phật pháp phân tâm thức thành
ra bốn lãnh vực là thọ, tưởng, hành, và thức. Trong đó thọ, tưởng chỉ là
công cụ chuyển đem đối tượng ngoại cảnh vào trong tâm thức. Thức chỉ là
chủ tể để nhận biết đối tượng ấy. Ngoài các công năng ấy ra, thọ, tưởng
và thức hoàn toàn thụ động đối với đối tượng. Ðối tượng ấy ra sao ?
Ðáng ghét hay đáng thương, dễ ưa hay đáng sợ ...v...v... đều là do công
năng "tạo tác" của hành. Thọ trở thành sướng hay khổ thật sự đều do công
năng của hành mà ra.
Hành này là gì ? Tất cả mọi hoạt động của tâm
thức, mọi "thái độ" của tâm thức, đối với các cảnh đối tượng, trừ thọ,
tưởng và thức ra, đều được gọi chung là hành. Có thể nói hành là hoạt
động tạo tác của tâm thức. Nó đưa ra danh từ tên gọi và đem lại ý nghĩa
cho tất cả mọi vật, nó khởi lên thái độ phán xét và thẩm định của tâm
thức đối với tất cả mọi giá trị, phẩm tính của vạn vật, nó khơi động lên
các hoạt động của tâm ý và của thân khẩu. Nó là năng lực của tâm thức,
là năng lực chủ đng của sự sống. Nó còn thường được Phật pháp gọi là
"tư", nghĩa thông thường là "ý muốn".
Do ý muốn phát sinh mà sướng
mới được thành lập. Tại sao vậy ? Bởi bao giờ cũng vậy, tâm thức chỉ
hoạt động, hay nói đúng hơn chỉ phát lực hoạt động, là khi nào nó thấy
khao khát, thấy ham muốn một đối tượng đáng ham muốn nào đó. Lúc ấy nó
khởi lên một "ý muốn" sở hữu hay sở đắc đối tượng ấy. Và khi nó đạt được
đối tượng ấy rồi, tâm thức cảm thấy thỏa mãn, có nghĩa là mt cảm giác
"hài lòng, mãn nguyện" phát sinh. Cảm giác hài lòng, mãn nguyện này
chính là ý nghĩa sung sướng, hạnh phúc của tất cả mọi loài hữu tình. Nếu
tâm thức không có một ý muốn gì hết, không có một mong mỏi, ước ao gì
hết, thì tuy nó vẫn có một cảm giác "tối thiểu" là không khổ không
sướng, song tâm thức ấy sẽ bị chúng ta coi như là không còn cảm giác gì
nữa, chỉ là bởi vì nó không tạo nên được một cảm trạng buồn vui, sướng
khổ gì cả. Ðiều đó chứng tỏ "ý muốn" làm nên sự sung sướng.
3. Ý nghĩa khổ của hữu tình
Một
điều nữa mà làm cho chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa này, đó là một khi ý
muốn không thành, tâm thức cảm thấy thất vọng, sầu não, nghĩa là nó thấy
"khổ". Khi định nghĩa về khổ, Phật pháp thường đưa ra bốn nghĩa như
"thương nhau mà phải xa nhau", "ghét nhau mà phải gần nhau", "cầu mong
mà không thành tựu" (cầu bất đắc khổ), và "phải chịu cưu mang mt thân
tâm sống động" (ngũ ấm xí thịnh khổ). Hai ý nghĩa đầu, trên căn bản,
không khác gì với ý nghĩa thứ ba. Bởi khi thương nhau người ta luôn cầu
mong được ở gần nhau, nay phải xa nhau tức cầu mong không thành tựu, thế
nên cảm thấy khổ. Ghét nhau cũng thế, đã ghét thì "muốn" là đừng gặp gỡ
nhau, nay phải chịu chung đụng, nghĩa là điều mong muốn xa cách không
thành, thế nên cảm thấy khổ. Ngay cả ý nghĩa thứ tư đi nữa cũng không ra
ngoài ý nghĩa "cầu bất đắc khổ". Tại sao vậy ? Tất cả các sự thể mà tâm
thức sợ hãi không ưa muốn như già, bệnh, chết, phiền não, âu lo v.v...
đều từ thân tâm này mà ra. Tâm thức mong muốn trẻ mãi, không bệnh, không
chết, không âu lo, không phiền não, song một khi đã mang lấy một thân
tâm như thế, là chắc chắn các mong muốn kia sẽ không bao giờ thành tựu
được, thế nên có thân có tâm tức là có khổ rồi. Ngay cả các nghĩa khổ
khác như "chuyển biến" (hành khổ), "tiêu tán hoại mất" (hoại khổ), cũng
đều là do chúng đi ngược lại với ý muốn thường có mãi, vĩnh viễn. Tóm
lại, tất cả mọi ý nghĩa của khổ đều dựa vào chỗ "không toại ý", "không
mãn nguyện" mà lập nên. Nên ngược lại, điều ấy chứng tỏ rằng toại ý, mãn
nguyện, là sướng.
4. Ðạo đức, một chiều sâu hơn nữa của ý nghĩa sướng khổ
Mong
muốn, khao khát, ước ao ...v...v... như thế chính là đầu mối của cả
sướng lẫn khổ. Và hữu tình sống là để đạt được sung sướng, nghĩa là để
được như ý, được mãn nguyện. Và vì sống là để đạt được như ý muốn, nên
sống cũng có nghĩa là bằng mọi cách phải tránh đi những gì không như ý,
tức phải tránh khổ cho bằng được. Nhận xét sâu hơn nữa chúng ta sẽ thấy
rằng ý muốn là một hoạt động của tâm thức, muốn luôn luôn là muốn một
cái, một điều gì đó, và tìm cách liên hệ với đối tượng mong muốn kia qua
hai cách hoạt động hoặc làm lợi hoặc làm hại cho chính đối tượng ấy.
Thí dụ như chúng ta muốn bố thí, là muốn thân mình hoạt động đưa tiền
của ra, và là muốn bố thí cho một người nghèo, và là muốn làm lợi ích
cho người đó. Hoặc như chúng ta muốn sát sinh, là muốn thân mình hoạt
động ra tay giết, và là muốn giết ai đó, và là muốn làm hại mạng người
đó. Ðến đây chúng ta nhận rõ ra được ý nghĩa sướng khổ của thế gian dựa
trên ý muốn như sau : Như do muốn bố thí, nếu bố thí thành đạt, ý muốn
thấy toại nguyện và sung sướng. Muốn giết người cũng thế, nếu giết được,
ý muốn toại nguyện, chúng ta thấy sung sướng. Bằng ngược lại, thí không
xong, giết không thành, chúng ta thấy thất vọng, khó chịu và bực tức,
chúng ta thấy khổ.
Qua các ý nghĩa và các thí dụ trên, chúng ta thấy
ngay là có điều gì bất ổn trong ý nghĩa sướng khổ này của thế gian. Nếu
sướng chỉ là thỏa mãn ý muốn, thời sướng không chắc gì là lý tưởng chút
nào, và còn là rất nguy hiểm nữa. Bởi người ta có thể làm ác để được
thỏa mãn một ý muốn, cho dù đó là một ý muốn tốt, cũng như người ta có
thể có những ý muốn rất ác khiến người ta sẵn sàng làm ác để được thỏa
mãn. Mà một khi đã làm ác, thì dù lúc đó có được mãn nguyện đi nữa,
nhưng rồi sau đó lại phải chịu hậu quả của việc làm ác này, như muốn
giết người mà giết được thì rất thỏa mãn sung suớng, song sau đó lại
phải chịu tù ti biết bao là khổ sở. Và vì ý muốn luôn luôn là muốn được
sướng và tránh đi khổ, thế nên ý muốn được sướng và thoát khổ này sẽ
thúc đẩy tâm thức suy xét, liệu lường cho kỹ lưỡng, không phải cứ muốn
gì là làm nấy, và đôi khi dù muốn mà vẫn phải cưỡng chế lại ý muốn của
chính mình. Dĩ nhiên khi cưỡng chế ý muốn như thế, chúng ta cảm thấy khổ
sở và khó chịu, song để tránh cái khổ phải chịu sau đó còn nặng nề hơn,
nên chúng ta đành phải chịu cái khổ không như ý trong hiện tại này.
Ðạo đức với ý nghĩa tiêu cực : tránh khổ.
Chính
từ đó mà nhẫn nại, chịu đựng, cũng như đạo đức thế gian được phát sinh.
Cho dù thế, ý nghĩa của sướng khổ vẫn không có gì thay đổi, vẫn là được
như ý muốn là sướng, không như ý muốn là khổ, chỉ có điều là nếu tính
chất của ý muốn là xấu hay ác, thì có được thỏa mãn như ý đi nữa, cái
sướng này vẫn là một cái sướng chất chứa đầy âu lo và sợ hãi, do đó nó
không còn đúng nghĩa gì là sướng nữa, nếu không nói là hoàn toàn khổ. Vì
thế, để tránh được khổ và đạt được sướng, ý muốn của chúng ta cần phải
có tính chất thiện và tốt. Ðạo đức và luân lý thế gian nhằm dạy dỗ cho
chúng ta về vấn đề này. Lại nữa dù có ý muốn tốt rồi, chúng ta cũng
không được làm ác để thỏa mãn ý muốn tốt này, như vì muốn bố thí mà
chúng ta đi ăn cắp ...v...v..., đạo đức và luân lý thế gian cũng đều
không cho phép như vậy.
Ðến đây, chúng ta thấy rõ là ý muốn của
chúng ta bị đạo đức và luân lý xen vào. Ðôi khi suốt một cuộc sống,
chúng ta luôn luôn phải thúc ép và kềm chế mọi ý muốn của mình theo
"giáo lệnh" của đạo đức và luân lý, trọn đời ý muốn của chúng ta không
bao giờ được toại nguyện. Cả đời không được toại nguyện thì không phải
là cả đời khổ đau, thì còn là gì nữa ? Nhất là khi đạo đức và luân lý
trở thành truyền thống "cấm chế" khắt khe, và thành giáo điều độc đoán
đè nặng mãi trên "ý muốn" của con người. Sống là năng lực của ý muốn,
sung sướng là ý muốn được thỏa mãn. Nay lực sống ấy và sự sung sướng ấy
hoàn toàn bị kềm kẹp bởi truyền thống đạo đức luân lý kia, mà để làm gì
vậy ? Ðôi khi cũng không ai biết trả lời là tại sao nữa, và điều này đưa
lại sự bất mãn và phản kháng của ý muốn, của lực sống của hữu tình.
Thật
ra luân lý và đạo đức không hề có tính cách đc đoán hay áp chế dã man
phi lý, mà như trên đã cho thấy, luân lý đạo đức nhằm "tránh khổ" cho
con người. Quả thật luân lý đạo đức không hề nhằm thỏa mãn ý muốn, mà
ngược lại còn là những quy tắc chuyên kiểm soát ý muốn và việc làm của ý
muốn. Chúng không đưa lại sự sung sướng một cách tích cực là làm thỏa
mãn ý muốn, song chúng hoàn toàn tích cực trên mặt tránh khổ đau. Bởi ý
muốn của con người phần nhiều là không tốt đẹp, nó dễ nông nổi tạo nên
các hành động xấu, điều này đưa lại các kết quả khổ đau sau đó, để tránh
các khổ đau này, nên luân lý đạo đức được áp dụng. Vì thế đúng hơn, con
người nên tự trách lấy ý muốn xấu của mình chứ không nên chống đối lại
luân lý và đạo đức.
Tuy nhiên, một vấn đề khác vô cùng tế nhị và hết
sức nan giải, đó là chính chúng ta thường xử dụng luân lý đạo đức như
là một truyền thống độc đoán để áp đặt ý muốn của mình lên trên người
khác, như trường hợp cha mẹ muốn con cái làm theo ý muốn mình, thì
thường hay xử dụng đến cái đạo đức "có hiếu" để ép buộc con cái phải
vâng lời. Thật ra luân lý đạo đức là các nguyên tắc làm "đẹp" tinh thần,
mục đích là giúp cho người ta tránh khổ hay để bảo vệ cho người ta
thoát khổ, nó để cho cá nhân áp dụng, chứ không phải là một công cụ làm
"khó dễ" người khác. Nhưng bản chất của con người vốn đầy tình cảm
thương ghét, đầy phân biệt phải trái, đúng sai, lại với bản ngã ích kỷ
cứng cỏi, nên con người không bao giờ áp dụng luân lý đạo đức cho đúng
tinh thần của chúng, mà trái lại luân lý đạo đức thường vẫn bị lạm dụng
để con người làm khổ lẫn nhau. Nơi đâu có thù ghét nhau là nơi đó có
luân lý đạo đức được xử dụng để bôi lọ tàn hại nhau. Luân lý đạo đức trở
thành một công cụ độc ác nguy hiểm. Ðiều này hoàn toàn lệch lạc.
Ðạo đức với ý nghĩa tích cực : hưởng sướng.
Nhận
xét cho đúng lại, chúng ta thấy rõ đạo đức luân lý là một phương tiện
tránh khổ "tận gốc". Bởi gốc của khổ đau, nhìn theo đạo đức, không phải
là không được toại ý nữa, mà là các ý muốn xấu ác. Và dần dà đạo đức và
luân lý trở thành các "kỷ luật" kềm chế các ý muốn và hành động xấu ác
này, ai tuân giữ các kỷ luật ấy, người ấy là người tốt, người đạo đức và
được mọi người khác ngợi khen. Ðạo đức và luân lý đưa lại một sự thụ
hưởng "danh thơm" cao quý như thế, để đền bù lại cho những "khổ đau" khi
phải kềm chế các ý muốn của mình. Do đó, tuy trên phương diện ý nghĩa,
đạo đức và luân lý không có nghĩa sướng một cách tích cực như là thỏa
mãn các ý muốn, mà chỉ có nghĩa tiêu cực là tránh khổ mà thôi. Song bản
chất của con người vẫn là đi tìm sung sướng hạnh phúc một cách tích cực
qua sự thỏa mãn ý muốn, thế nên các nhà đạo đức đều lấy sự kềm chế các ý
muốn xấu ác làm ý muốn của chính mình, lấy sự duy trì đạo đức và luân
lý làm ý muốn của chính mình. Nên một khi thực hành được các điều đạo
đức ấy, duy trì được các giềng mối luân lý ấy, các nhà đạo đức đều cảm
thấy thỏa mãn "tâm nguyện" của mình, và đều được thụ hưởng sự sung sướng
một cách tích cực. Chung cục lại, đạo đức luân lý vẫn chỉ là để tránh
khổ được sướng bằng cách làm sao cho thỏa mãn được ý muốn đạo đức của
chính mình...