Vấn đề hai Chân lý trong đạo Phật
23/03/2010 23:38 (GMT+7)

Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) đã miêu tả hai Chân lý: Chân lý Tuyệt đối (Paramatha Sathya) và Chân lý có tính Quy ước (Sammuti Sathya). Luận sư Long Thọ của Truyền thống Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cũng đã đồng nhất hai Chân lý ấy, nhưng luận thuyết của Ngài khác với luận thuyết của Truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).

Thực sự, có hai loại Chân lý trong Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada) không? Hai Chân lý này khác nhau về đẳng cấp không? Dù thế nào đi chăng nữa thì Chân lý Tuyệt đối vẫn cao siêu hơn so với Chân lý có tính Quy ước? Vài Phật tử mắc phải sai lầm là Chân lý Tuyệt đối cao siêu hơn so với Chân lý Quy ước, và vài Phật tử đi đến chỗ huyền đàm rằng, Niết-bàn là Chân lý Tuyệt đối.

Trên cơ sở của tiền đề này, họ đã đi đến một sự giải thích mới về Niết-bàn mà có thể là sai lạc.

Sự thật, chỉ có một Chân lý trong đạo Phật, nhưng có hai cách trình bày về nó. Dưới đây là sự giải thích ngắn ngọn.

Đức Phật cũng như các luận sư A-tỳ-đạt-ma, - những người đã dựa vào biện luận của họ về sự thuyết pháp của đức Phật, - đã tuyên bố dứt khoát rằng, Chân lý Tuyệt đối không cao siêu hơn so với Chân lý có tính Quy ước, và không có sự sai biệt về đẳng cấp giữa hai Chân lý. Quan trọng hơn nữa là, Chân lý nào trong hai Chân lý này cũng có thể được sử dụng để đạt đến nội quán và để bước đi trên con đường Giác ngộ. Tùy theo khả năng lĩnh hội của thính chúng, mà đức Phật đã sử dụng cả hai Chân lý này trong sự thuyết pháp của Ngài

Như vậy, lý do để đồng nhất hai Chân lý này là gì? Trong sự thuyết giáo của Phật giáo nguyên thủy, tất cả hiện tượng hiện hữu của con người, - gồm cả vật lý và tâm lý, - được phân tích thành 5 phương pháp.

• 1/ Phân tích thành 2 yếu tố: 1/ Tâm (nama) và 2/ sắc hay vật chất (rupa).
• 2/ Phân tích thành 5 thủ uẩn: 1/ Sắc hay vật chất (rupa), 2/ thọ (vedana), 3/ tưởng (sanna), 4/ hành (sankara) và 5/ thức (vinnana).
• 3/ Phân tích thành 6 yếu tố (hay lục đại): 1/ đất, 2/ nước, 3/ hơi nóng, 4/ không khí, 5/ không gian, và 6/ thức.
• 4/ Phân tích thành 12 xứ (gồm 6 giác quan và 6 đối tượng của giác quan): 1/ mắt, và 2/ sắc hay vật chất (đối tượng của mắt), 3/ tai, và 4/ âm thanh (đối tượng của tai), 5/ mũi, và 6/ mùi (đối tượng của mũi), 7/ lưỡi, và 8/ vị (đối tượng của lưỡi), 9/ thân, và 10/ xúc chạm (đối tượng của thân), 11/ ý hay tầm, và 12/ tâm pháp (đối tượng của ý).
• 5/ Phân tích thành 18 giới: 12 xứ + 6 thức (sự nhận thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý).

Những dẫn chứng nêu trên được xem như là các yếu tố của tất cả hiện tượng hiện hữu của con người. Khi một hiện tượng riêng biệt được giải thích dưới dạng những yếu tố này thì sự giải thích đó được gọi là Chân lý Tuyệt đối. Khi hiện tượng tương tự được giải thích dưới dạng quy ước chung thì sự giải thích này được gọi là Chân lý có tính Quy ước.

Các luận sư A-tỳ-đạt-ma sau này đã công nhận sự cần thiết phân tích xa hơn nữa các yếu tố trên đây, và họ đã đi đến các nhân tố cuối cùng không thể chẻ nhỏ hơn được nữa, được gọi là các Pháp (Dhammas), - một danh mục xuất hiện bàng bạc trong Luận tạng A-tỳ-đàm.

Người ta nói rằng, những Pháp này tham gia vào tiến trình đồng nguyên tương thuộc (dependent co-origination). Mặc dù, các Pháp ấy được công nhận như là những yếu tố tối hậu dành cho mục đích liễu tri, nhưng chúng không tồn tại độc lập riêng lẻ, mà mỗi Pháp xuất hiện cùng với một vài Pháp khác. Sự xuất hiện của chúng tùy thuộc vào các điều kiện/duyên, và một khi đã sinh ra, các Pháp này cũng có thể hoạt động như là những điều kiện/duyên cho sự xuất hiện của các Pháp khác.

Tất cả mọi kinh nghiệm tâm linh và mọi hiện tượng vật lý đều xuất hiện theo cách thức này. Sự giải thích một hiện tượng, - tâm hay vật, - dưới dạng những Pháp này, được gọi là Chân lý Tuyệt đối. Khi một hiện tượng tương tự được giải thích dưới dạng quy ước chung, được gọi là Chân lý có tính Quy ước. Ví dụ, một chúng sinh được giải thích dưới dạng 5 thủ uẩn (skandhas), thì sự giải thích này được xem như là Chân lý Tuyệt đối. Mặc khác, nếu một chúng sinh được giải thích như là một con người ngang qua đời sống và đau khổ, và cuối cùng chết trong tiến trình của vòng luân hồi vô tận, thì sự giải thích này sẽ là Chân lý có tính Quy ước.

Tuy nhiên, những thích nghĩa trên không có nghĩa là có hai loại Chân lý trong Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), mà đúng hơn là có hai cách trình bày Chân lý.

Trong hai cách trình bày Chân lý trên đây, hoặc cách này có thể được sử dụng sớm hơn cách kia, và ngược lại; nhưng cả hai cách trình bày ấy đều đi đến con đường Giác ngộ. Như vậy, chỉ có một Chân lý duy nhất trong Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).

Thích Minh Trí dịch
Giáo sư N. A. de S. Amaratunga (Theo buddhistchannel.tv)


Các tin đã đăng: