Sau khi vượt sông Anomà, Siddhartha cởi hoàng bào, cắt tóc trao cho
Channa đem về trình báo phụ hoàng, tạm biệt người hầu cận trung thành
và ngựa Kanthaka yêu quý, Ngài nhắm rừng xanh thẳng tiến. Người thanh
niên, vị đông cung thái tử đã để lại phía sau tất cả dư âm của một đời
sống vương giả, hiện thân làm đạo sĩ lang thang trong rừng xanh núi
thẳm, với lộ trình phía trước dường như vô định, chưa biết về đâu.
Năm năm tầm sư học đạo, bấy giờ Bồ-tát còn được gọi là đạo sĩ Gotama
đã gặp hai vị thầy nổi tiếng đương thời, đó là Alàra Kàlàma và Uddaka
Ràmaputta. Tại đạo tràng của đạo sư Alàra Kàlàma, Bồ-tát Siddhartha đã
chứng được Vô sở hữu xứ, một thiền chứng thâm sâu thuộc tầng thứ ba của
Tứ không định. Đạo sĩ Gotama được mời ở lại để lãnh đạo, dẫn dắt đồ
chúng nhưng Ngài thấy rằng: “Giáo lý này không dẫn đến buông xả, không
tận diệt ái dục, không dẫn đến chấm dứt, không dẫn đến thanh bình an
lạc, trực chứng, giác ngộ và Niết Bàn” nên từ giả ra đi.
Rời Alàra Kàlàma, Bồ-tát lần tìm đến với đạo sư Uddaka Ràmaputta. Tại
đây, đạo sĩ Gotama đã chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thiền
chứng cao nhất trong tam giới và trong tất cả các đạo sĩ đương thời.
Uddaka Ràmaputta cũng thỉnh cầu đạo sĩ Gotama ở lại lãnh đạo đồ chúng
nhưng Bồ-tát vẫn thấy rằng thiền chứng này tuy rất thậm thâm nhưng vẫn
chưa đạt đến giác ngộ và Niết-bàn, nên giả từ ra đi.
Với thời gian dài đến năm năm, tuy không đạt được giác ngộ tối hậu
nhưng Bồ-tát Siddhartha đã thành tựu kinh nghiệm về thiền định, nhất là
thiền Chỉ với các thiền chứng của Tứ không định rất sâu xa, tịch tịnh.
Lúc rời xa vị thầy Uddaka Ràmaputta danh tiếng nhất, kỳ thật Bồ-tát
cũng không biết phải nương tựa vào ai. Trong tận cùng của niềm cô độc,
tiếng gọi khổ hạnh bỗng trở nên réo rắt gọi mời. Trong tín niệm đương
thời, các đạo sĩ luôn đề cao khổ hạnh, xem đó là cửa ngõ duy nhất để
diệt trừ tất cả tội lỗi cũng như phiền não, mở toang cánh cửa u tối vô
minh, thành tựu giải thoát tối hậu.
Những khu rừng xanh tốt và thâm u xứ Uruvela là thánh địa của những
đạo sĩ khổ hạnh. Đạo sĩ Gotama tìm đến để thực hành khổ hạnh cùng với
năm người bạn đồng tu, nhóm đạo sĩ Kondanna. Thêm sáu năm trường khổ
ải, đạo sĩ Gotama đã tận lực đi theo con đường khổ hạnh, tự đọa đày.
Ngài tinh tấn đến độ vượt thắng tất cả mọi hình thức khổ hạnh của các
đạo sĩ đương thời, có thể nói là bậc đệ nhất khổ hạnh và đỉnh cao là
ngấp nghé bờ vực của sự tự hủy diệt. Trong tình trạng sắp đối diện với
cái chết, đạo sĩ Gotama chợt nhận ra rằng: Khổ hạnh không đưa đến giác
ngộ. Đời sống vương giả của bậc đế vương hưởng thọ dục lạc là chìm đắm
trong sanh tử thì đã đành nhưng đời sống khổ hạnh đến tận cùng cũng chỉ
làm thân thể suy kiệt, tinh thần héo úa và nhất là bế tắc trong việc
khai mở tuệ giác, chỉ phí công vô ích mà thôi.
Bồ-tát Siddhartha tiếp tục trầm tư về con đường đưa đến giác ngộ. Có
một đạo lộ nào khác nữa chăng? Nhớ đến thời thơ ấu, trong buổi lễ hạ
điền Ngài đã thể nhập Sơ thiền, một trạng thái hỉ lạc do ly dục sanh.
Một ý tưởng sáng chói chợt hiện ra nơi Ngài là hướng nội và xả ly. Đạo
sĩ Gotama liền quyết định từ bỏ khổ hạnh, thọ dụng bát sữa của Sujata,
tắm rửa ở dòng sông Neranjara, bắt đầu một phương pháp thực tập hướng
nội theo tinh thần Trung đạo, tránh xa hai cực đoan. Sau khi sức khỏe
được hồi phục, tinh thần minh mẫn, định tỉnh trở lại, Bồ-tát Siddhartha
đến cội bồ-đề hạ quyết tâm thiền định.
Trong lúc Bồ-tát phát đại nguyện dù thịt nát xương tan, nếu chưa giác
ngộ thì không rời khỏi cội bồ-đề thì nhóm đạo sĩ Kondanna từ bỏ Ngài
ra đi. Họ khinh ghét Ngài vì đã thối thất, không đi đến tận cùng con
đường khổ hạnh. Còn lại một mình trong rừng thiêng nước độc, bốn bề
hoang lạnh, đối diện với vô vàn hiểm nguy, Bồ-tát thể nhập thiền định
với quyết tâm sắt đá, ý chí kim cương. 49 ngày đêm tọa thiền dưới cội
bồ-đề là cuộc chiến hàng phục nội ma và ngoại chướng vô cùng cam go và
cuối cùng Ngài đã chiến thắng.
Trong đêm cuối cùng, trước khi tuệ giác bùng vỡ, kinh sách ghi rằng
Bồ-tát hướng đến giác ngộ tối hậu bằng cách tuần tự nhập Sơ thiền, Nhị
thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Trên nền tảng Tứ thiền, Bồ-tát vận dụng
“tâm định tỉnh, thanh tịnh, không còn ô nhiễm, nhu nhuyến, dễ uốn nắn,
dễ xử dụng, giác tỉnh, vững chắc và không thể lay chuyển”, hướng tâm ấy
về tuệ giác “Hồi nhớ những kiếp sống quá khứ”. Ngài liền nhớ lại nhiều
kiếp sống quá khứ với đầy đủ các chi tiết. Ðó là tuệ giác đầu tiên,
Túc mạng minh, Bồ-tát Siddhartha chứng ngộ vào lúc canh Đầu, đêm Thành
đạo.
Tuệ giác và tịnh lạc đã phát sanh, nhưng Bồ-tát vẫn giữ chánh niệm,
tự giác tỉnh, tiếp tục hướng tâm ấy về “Sự hiểu biết hiện tượng sanh và
diệt của chúng sanh”. Ngài thấy rõ chính hành vi tạo tác của mỗi người
là tác nhân đưa họ sanh tử luân hồi trôi lăn trong ba cõi. Bồ-tát
chứng Thiên nhãn minh, tuệ giác thứ hai vào canh Giữa, đêm Thành đạo.
Ngài tiếp tục hướng tâm ấy đến “Tuệ hiểu biết sự chấm dứt các lậu
hoặc”. Vào canh Cuối của đêm Thành đạo, lúc sao Mai vừa mọc, Bồ-tát
chứng được Lậu tận minh. Màn đêm tăm tối của dục lậu, hữu lậu và vô
minh lậu đã bị phá tan và trí tuệ bùng phát. Ngài biết rằng: “Ta đã
được giải thoát. Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, các việc cần làm đã
làm xong, không còn trở lại đời này nữa”. Ngài chứng đắc Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác. Từ đây, Ngài được tôn xưng là Đức Phật với mười
danh hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư,
Phật-Thế Tôn.
Trải qua vô lượng kiếp hành Bồ-tát đạo, và trong kiếp hiện tại Bồ-tát
Siddhartha cũng phải bao phen khó nhọc, dám hy sinh cả thân mạng mới
có ngày huy hoàng, thành Bậc Giác Ngộ, Thế Tôn, Phật Thích Ca Mâu Ni
dưới cội bồ-đề.
Có thể xem Tam minh (Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh)
là nội dung chứng ngộ của Bồ-tát Siddhartha trong đêm Thành đạo. Tam
minh là tuệ giác của thiền Quán được Đức Phật phát triển và thành tựu
dựa trên nền tảng thiền Chỉ của Tứ thiền. Chính sự khám phá này của Thế
Tôn, về sau đã trở thành nguyên tắc cơ bản cho sự tu tập và thăng
chứng của các Tỷ-kheo đệ tử.
Kinh Đại Sư Tử Hống (Trung Bộ I) tóm tắt lộ trình tu tập của vị
Tỷ-kheo bằng cách chứng nhập từ Sơ thiền đến Tứ thiền, rồi từ Tứ thiền
chuyên tâm tu tập thiền Quán vô ngã, vô thường, loại trừ mười kiết sử
để lần lượt chứng đắc bốn Thánh quả và đạt Niết-bàn tối hậu.
Có một đạo lộ khác để thành tựu giác ngộ là từ Tứ thiền, hành giả
tiếp tục đi sâu vào Tứ không định. Tuy nhiên, Thế Tôn thường cảnh tỉnh
phải xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ để nhập cảnh giới Diệt thọ tưởng
định trước khi vào Niết-bàn tối hậu. Tốt nhất là nên dừng lại ở Vô sở
hữu xứ, rồi tu tập Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỉ, Xả) để băng đến Diệt
thọ tưởng định trước khi vào Niết-bàn tối hậu (Thích Chơn Thiện, Tăng
già thời Đức Phật, tr.229).
Như vậy, dù Bồ-tát Siddhartha đã trải qua vô lượng kiếp tu tập Bồ-tát
đạo, mang trong mình năng lực và bản nguyện của vị Bồ tát Nhất sinh bổ
xứ nhưng nội dung tu tập và chứng ngộ của Ngài thật cụ thể, rõ ràng mà
hàng đệ tử hậu thế có thể lần theo dấu xưa để thành tựu Thánh quả
A-la-hán.
Mặt khác, Tứ thiền và Tứ không định tuy là những thiền chứng của
ngoại đạo hoặc là những dạng thức thiền Chỉ, theo Phật giáo, nhưng có
vai trò rất quan trọng, làm nền tảng cho thiền Quán để phát huy tuệ
giác nhằm thành tựu giải thoát, chứng đắc Niết-bàn.
Chính thiền Quán với tuệ minh sát có năng lực soi chiếu phá tan si ám
về tự ngã, thường hằng để thấu triệt sự thật vô ngã, vô thường của vạn
pháp đồng thời làm sụp đổ những kiết sử căn bản vốn là thành trì của
sanh tử luân hồi nhằm chứng đạt giải thoát tối hậu, chính là phát kiến
vĩ đại của Bồ-tát Siddhartha.
Nếu không có phát kiến thiền Quán thì Bồ-tát Siddhartha không thể
thành đạo, thành Phật cũng như không có đạo Phật ở thế gian này.
Cho nên, Phật không thành đạo mà chỉ có Bồ-tát Siddhartha thành đạo.
Và thiền định Chỉ-Quán từ ngàn xưa cho đến ngàn sau vẫn là tinh túy,
cốt tủy của pháp hành trong Phật giáo có tác dụng chuyển hóa, đưa hành
giả từ phàm phu lên Thánh vị.
Thích Quảng Tánh (chuaphuclam)