Sự kêu gọi của Tâm linh
12/02/2010 07:22 (GMT+7)


Đức Phật đã nói, “Trong chính thân thể cao hơn thước rưỡi này, cùng với tri giác và tư tưởng. Như Lai tuyên bố đây là thế gian (hữu hạn và khổ đau), nguồn gốc của thế gian (hữu hạn và khổ đau), sự chấm dứt thế gian (hữu hạn và khổ đau) và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian (hữu hạn và khổ đau) ấy”.




Đời sống luôn luôn là một bí ẩn. Bản thân đời sống là một sự kêu gọi con người khám phá.

1. Sự thách thức đối với con người

Đời sống luôn luôn là một bí ẩn. Bản thân đời sống là một sự kêu gọi con người khám phá. Trong thế kỷ XX, mọi ngành khoa học đều có những cuộc cách mạng, những bước nhảy vọt, nhưng sự khám phá, sự hiểu biết về thiên nhiên, về sự sống, về chính con người mình vẫn chưa lấp đầy được những khoảng trống căn bản.

Chỉ lấy thí dụ là sự chưa thể thống nhất được Thuyết tương đối và Vật lý lượng tử. Còn riêng về vật lý lượng tử, đâu là những hạt cơ bản nhất, nhỏ nhất? Tại sao chúng ta chỉ mới biết được khoảng 7% vật chất vũ trụ, còn gần 90% thì chưa biết và được gọi là vật chất tối? Nói gì đến chuyện làm thế nào để kết hợp được vật lý học và sinh học rồi với tâm lý học, xã hội học, khi mỗi ngành còn chưa giải quyết nổi chính nó?

Chúng ta chưa biết được gì nhiều. Chính trong tình thế này, Phật giáo hiện ra như một thách thức, thách thức đối với thân phận con người, vì Đức Phật (Buddha) là Người Biết và Phật giáo là sự chỉ dạy của Người Biết. Chính vì sự thách thức này mà hiện nay Phật giáo lan tràn khắp thế giới, trong mọi tầng lớp của xã hội. Ở đây, chúng ta chỉ phân tích sơ qua. Phân tích ở mức độ ý thức bình thường, common sense. Chúng ta xem xét sự tham muốn, sự đam mê…

Chúng ta tham muốn, tham muốn được sở hữu và được thoả mãn. Từ khi còn là đứa bé mới biết bò, chúng ta luôn muốn bò tới cầm nắm những đồ vật và màu sắc trước mặt. Lớn lên chúng ta tham muốn cầm nắm tiền tài, danh vọng, quyền lực, tình yêu và tình dục… Cái mà chúng ta gọi là nền văn minh tiêu thụ, cơ hội bình đẳng cho mọi người, hay một nền kinh tế gì gì đó thì cũng từ sự tham muốn được sở hữu và thoả mãn với sự sở hữu ấy.

Nhưng cũng đồng thời với sự trở thành người lớn, chúng ta khám phá ra rằng có những cái, những điều mình muốn mà không được, muốn sở hữu mà không thể sở hữu, muốn có mà không thể có, muốn thoả mãn mà không thể thoả mãn. Lần đầu tiên chúng ta chạm mặt với cái không thể, cái bất khả. Lần đầu tiên chúng ta nhìn ra sự bất lực của mình, tính cách hữu hạn của mình, hữu hạn tính của thân tâm mình. Lần đầu tiên chúng ta biết khổ đau.

Chúng ta hãy lấy vài thí dụ. Chúng ta tham muốn cái gì đó lắm (chẳng hạn chiếc xe hơi), rồi chúng ta đạt được, sở hữu được, chúng ta thoả mãn một thời gian, rồi chúng ta bắt đầu chán và muốn có một đối tượng khác. Đó là cuộc đời của chúng ta, những vòng xoay không thoả mãn (mà Phật giáo gọi là “luân hồi”) diễn ra bất tận.

Thời đại hiện nay, đồ vật càng nhiều, càng thay đổi nhanh chỉ nói lên một điều: sự mau chán nản của chúng ta càng nhiều, càng nhanh. Cho đến cuối đời chúng ta vẫn thấy như chưa được gì, vẫn muốn sở hữu cái khác nữa. Đó là cuộc đời của mỗi chúng ta, không trừ một ai, một giai cấp nào. Một cuộc đời không thoả mãn.

Đó là chưa nói đến những gì, rất nhiều những gì không thể đạt được. Tiến trình tham muốn, sở hữu được, thoả mãn không trọn vẹn và tạm thời, thấy chán và tham muốn tiếp. Ngay cả khi đang có, đang nắm trong tay, chúng ta cũng không thực sự sở hữu được, không hưởng thụ trọn vẹn được, bằng cớ rõ nhất là sau đó chúng ta buông bỏ và đi tìm cái khác. “Gió trăng có sẵn làm sao ăn?”, Hàn Mặc Tử. Đó là những tiến trình của khổ đau mà Phật giáo gọi là chân lý thứ nhất về khổ, khổ đế. “Khổ”, dịch từ tiếng Pali, là “sự không thoả mãn, sự không mãn nguyện”.

Một thí dụ khác là tình yêu và tình dục. Chúng ta yêu một người nào đó và người ấy cũng yêu ta. Rồi may mắn (có rất nhiều nguyên nhân (nhân) và điều kiện (duyên) khiến không thành, bởi vì hầu như mọi bài tình ca đều là những bài thất tình, tình yêu mất mát), chúng ta có được hôn nhân.

Hôn nhân là một món quà tặng, có lẽ thuộc loại lớn nhất mà đời sống đã cho chúng ta. Thế rồi vài năm, ta bắt đầu nhàm chán, mặc dầu chẳng ai nói ra, mặc dầu vẫn cố gắng duy trì “cái thuở ban đầu”, bằng sinh nhật, bằng quà tặng…

Ở Đông phương, ngoài tình còn có nghĩa, gia đình còn đứng vững. Ở Tây phương, chán thì ly dị (chắc hơn 50%). Tại sao ban đầu thì “mê mệt” thế, chỉ sau một thời gian thì hết “mê” chỉ còn “mệt”, “mệt mỏi”. Tình yêu và tình dục là cảm thọ có lẽ lớn nhất, vì nó huy động cả sáu giác quan, nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý. Có con mắt, có hội hoạ; có lỗ tai, có âm nhạc; có ý tưởng, có thi ca…

Về phần tình dục, khi có sự kết hợp, việc này đem lại một cảm giác lớn, kể cả cảm giác của ý, và chúng ta tạm thời quên đi những phiền muộn, âu lo, tạm thời thoát ra khỏi cảm giác về một cái tôi tù túng, tạm thời “sở hữu” được một người khác, toàn bộ thân tâm một người khác, nhưng sự việc này qua. Và chúng ta lại trở về với con người hữu hạn của mình. Sự bùng nổ của cảm giác, sự thăng hoa của một cái tôi cũng chỉ là một thoả mãn tạm thời, không trọn vẹn, bằng cớ là sau đó chúng ta lại tham muốn tiếp. Hai thân tâm hữu hạn có tạm thời kết hợp lại với nhau cũng chỉ là một kết hợp hữu hạn.

Nhà thơ Huy Cận nói: “Em đâu biết máu xương là sông núi/ Chia biệt người thành từng xứ cô đơn”. (Ôi sinh học của chúng ta, nó đã giải mã được toàn bộ gien của con người, nhưng làm sao nó có thể xoá bỏ sự cô đơn này. Chẳng lẽ chúng ta chỉ hết cô đơn khi trở về đất đá, hay thành những con rô-bốt vô hồn?)

Giác quan không thoả mãn, ý thức (cái sinh ra triết học, khoa học, mọi ngành học và nghệ thuật) không thoả mãn. Thậm chí trực giác, phần cao cấp nhất của ý thức, cái tạo ra những tư tưởng lớn, những nền khoa học mới, những nghệ thuật mới, cũng không thoả mãn. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt thân, ý, những cái tạo nên con người, đều không thoả mãn. Nói như Husserl, người khai sáng Hiện tượng luận, “ý thức là ý thức về cái gì”.

Thế có nghĩa là, cái vực thẳm phân chia chủ thể và khách thể không thể nào lấp đầy. Đây là một giới hạn của con người, cũng là sự không bao giờ thoả mãn của nó. Tất cả mọi tham muốn (dầu cao cấp tột cùng), sở hữu, thoả mãn của chúng ta đều thất bại. Chúng ta chẳng bao giờ sở hữu được một cái gì trường tồn, một cái gì thoả mãn lâu dài. Tại sao? Chính vì hữu hạn tính của thân tâm chúng ta. Vì thân tâm chúng ta là hữu hạn, nên tất cả những gì nó tham muốn, sở hữu va thoả mãn đều hữu hạn.

Chúng ta luôn luôn tìm kiếm, nắm lấy rồi cảm thấy “chẳng phải”. Lại tiếp tục tìm kiếm, lại tiếp tục “chẳng phải”. Chẳng phải là kết quả cuối cùng của mọi cuộc tìm kiếm, nắm bắt. (“chẳng phải”, phi, là một chữ được dùng nhiều trong Thiền tông. Chẳng hạn ly tứ cú, tuyệt bách phi, tạm dịch là, lìa mọi có và không, dứt hết một trăm cái chẳng phải).

Thế nên trong từng sự việc và suốt cả cuộc đời, chúng ta là những kẻ thất vọng. Chúng ta mãi mãi thua cuộc. Vì chúng ta không thể nào được nên chúng ta mãi mãi tìm kiếm. (“Anh còn tìm kiếm tức là biết anh chưa thấy được cái thật” – Chứng đạo ca, Vĩnh Gia Huyền Giác).


Thất bại trong từng sự việc nhỏ, chúng ta làm gì? Chúng ta tìm cách quên đi thất bại đó, sự “chẳng phải” đó và tiếp tục tìm kiếm tiếp. Người thất vọng lớn quá không chịu nổi thì tự tử. Tự tử là gì? Tự tử là xoá tan, chấm dứt cái thân tâm hữu hạn này đi. Nhưng nhìn kỹ, mỗi chúng ta đều có những cuộc tự tử nhỏ trước những thất vọng nhỏ đấy thôi. Chúng ta tìm cách xoá bỏ, tìm cách quên đi, tìm cách tự che giấu sự trống trải do thất vọng bằng cách ngồi quán càfê, bằng một lon bia, bằng cách nghe nhạc, bằng cách đến với bạn bè hay về với vợ…

Đó là chưa nói đến những cách giải khuây, giải sầu, “giải trí” khác làm hư hại cả một đời. Tất cả những chất kích thích đó đều để che giấu sự thất vọng và thất bại của mình, sự trống rỗng bên trong và bên dưới của bản thể mình. Tất cả những thứ kích thích đó (mà nền văn minh hiện đại này có rất nhiều) đều để chúng ta tránh đi một sự thật: chúng ta không thật sự tham muốn được cái gì, chúng ta không thực sự sở hữu được cái gì, chúng ta không thực sự thoả mãn được với cái gì.

Nhưng nếu chúng ta không có những vụ tự tử nhỏ, chúng ta không chạy trốn, không tìm cách giải trí phôi pha, thì chúng ta sẽ bắt đầu nghe thấy sự kêu gọi. Sự kêu gọi này chủ yếu từ chính chúng ta, hãy từ bỏ những thất bại và thất vọng, những không thoả mãn để đi vào “cánh cửa bất tử đã mở ra” (lời trong bài kệ của Đức Phật).

2. Nhu cầu tâm linh

Tuỳ theo đòi hỏi của chúng ta, nhu cầu của chúng ta đến mức nào, tuỳ theo sự khai phá hay “tương ưng” hay “tuỳ thuận” hay gì gì nữa của chúng ta, thế giới tâm linh, “kho tàng tâm linh” (cách nói của Phật giáo) biểu lộ cho chúng ta đến đó. Nhu cầu tâm linh là một điều có thật ở nơi mỗi người. Và kết quả của nó, sự thoả mãn tâm linh cũng là một điều có thật. (Dùng chữ “thoả mãn” thì hơi thô, cũng vì chúng ta quen dùng nó ở bình diện vật lý, chứ ít khi dùng ở bình diện tâm linh, bình diện siêu vật lý. Thật ra Thiền tông có những chữ tương tự, chẳng hạn “tự thọ dụng” hoặc một chữ chúng ta thường dùng là “an lạc”).

Chúng ta hãy lấy vài thí dụ về nhu cầu tâm linh. Tiến sĩ F.S. Collins, giám đốc chương trình giải mã gien con người (đã hoàn tất vào năm 2000 và được xem là công trình thuộc loại “thiên niên kỷ”) là một người “vô thần”, chữ dùng của ông.

Sau bao nhiêu trăn trở, lý luận, tham khảo bao nhiêu lý thuyết, tìm kiếm bằng trải nghiệm của chính mình cho đến một ngày, ông đã “đưa ra sự lựa chọn. Sáng hôm sau, tôi quỳ xuống bãi cỏ ướt đẫm sương của miền Tây sông Missisippi, trong ánh bình minh và dâng mình cho Thiên Chúa”. Toàn bộ cuốn sách Ngôn ngữ của Chúa (ra đời năm 2006, bản dịch Việt, Lê Thị Thanh Thuý, 2007) để nói về đức tin của ông trước những trường phái khoa học hiện đại, và cuối cùng ông đưa ra lựa chọn (lý thuyết) của chính ông: Thuyết tiến hoá hữu thần.

Chúng ta tôn trọng nhu cầu tâm linh và niềm tin của từng cá nhân và sự thoả mãn của cá nhân với niềm tin đó. Đây là một phần của từ bi hỷ xả mà cá nhân tôi tin rằng đang bao trùm nhân loại. Nhưng cũng có người đòi hỏi triệt để, như nhu cầu của Krishnamurti, nói theo lời ông, “một sự thoả mãn không cần nạng chống”.

Arthur Rimbaud (1851-1891), thiên tài thi ca Pháp, người mở đầu cho thi ca hiện đại Tây phương, (có nhà thơ nào trong phong trào Thơ Mới Việt Nam mà không biết đến Rimbaud?) “đứa con hoang đàng” (hiểu theo nghĩa đẹp) của Tây phương, trong cuộc đời lang thang tìm kiếm đã để lại những bài thơ tuyệt vời. Thật sự, Rimbaud tìm kiếm gì qua thi ca, một khi trái tim mình đã bị đánh cắp? (Trái tim bị đánh cắp, nhan đề một bài thơ của ông)

Tìm lại được rồi
Điều chi? – Vĩnh cửu.
Đó là biển cả
Trộn lẫn với mặt trời…

Vĩnh cửu, Huỳnh Phan Anh dịch

Tất cả thi ca là tiếng nói của con người, con người của “trái tim bị đánh cắp”, và do đó là tiếng lời của con người trong cuộc tìm kiếm vĩnh cửu, dù có tìm thấy hay không.

M. Heidegger suốt đời tìm kiếm Hữu Thể (L’Être, Being). Chỉ luận đề “sự bỏ quên Hữu Thể trong lịch sử triết học Tây phương” cũng đủ đưa ông lên thành triết gia hàng đầu Tây phương trong thế kỷ XX. Nhưng danh tiếng triết gia vĩ đại ấy cũng chỉ là một phụ phẩm trên con đường tìm kiếm cái Tuyệt Đối. Cuộc đời ông là một cuộc tham thiền (pensée méditative), một cuộc hành hương trở về Hữu Thể:

Con đường và cán cân
Cầu ngang và tiếng lời
Hợp nhất trong cùng một bước tiến.
Hãy đi tới và chịu đựng
Thất bại và câu hỏi,
Trung thành với lối đi độc nhất của ngươi.

Kinh nghiệm của tư tưởng, Questions III

Câu trích dẫn mở đầu cho cuốn Tội ác và hình phạt, Dostoievsky đã lấy từ Kinh Thánh: “Nếu hạt giống không chết đi, nó sẽ không thành cây để có quả. Một tôn giáo nhấn mạnh vào cái Hữu (hữu thần, hữu ngã) nhưng trên phương diện tâm linh vẫn đòi hỏi cái ngã phải chết đi, để phục sinh trong đời sống vĩnh cửu, trong “sự sống đời đời”. Đó ắt phải là một định luật cho tất cả con người nói chung. Thế mà, nhiều người sợ Phật giáo vì cái vô ngã, thậm chí còn không hiểu nên cho Phật giáo là bi quan, yếm thế.

Hãy thôi hình dung (vọng tưởng) thực tại tối hậu là gì, để rồi sợ (và ghét) hay mong một cách mộng tưởng, sai lầm.

“Hãy gõ cửa đi, cửa sẽ mở” (Kinh Thánh). Sự giàu có, vinh quang và quyền lực của tâm linh thì không cùng. Bởi thế mà Phật giáo gọi cái ấy là viên ngọc như ý.

3. Ý nghĩa đời sống chỉ có trong thể nghiệm

Vậy thì chúng ta hãy ngồi xuống. Đành rằng ngồi thiền không phải là cách duy nhất để tiếp cận với Thực Tại, nhưng đó là cách cụ thể, vừa tầm cho tất cả chúng ta. Hãy ngồi xuống và cảm nhận và thể nghiệm trong thân tâm này có ánh sáng, có sự bình an càng ngày càng lớn rộng, có sự ngưng nghỉ của những tư tưởng cứ mãi lao xao trong những vòng quay hữu hạn của chúng, có sự tự do, tự do đối với tất cả những gì hữu hạn và tạm thời, có tình thương, có năng lực, có cái gì vô thượng và siêu việt, và nhiều nhiều thứ nữa. Thân tâm này chính là con đường đi đến Thực Tại tối hậu (đây là một cách nói vì thực tại tối hậu cũng phải là thực tại ban đầu, thực tại bổn nguyên).

Đức Phật đã nói, “Trong chính thân thể cao hơn thước rưỡi này, cùng với tri giác và tư tưởng. Như Lai tuyên bố đây là thế gian (hữu hạn và khổ đau), nguồn gốc của thế gian (hữu hạn và khổ đau), sự chấm dứt thế gian (hữu hạn và khổ đau) và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian (hữu hạn và khổ đau) ấy”.

Hãy ngồi xuống và tìm thấy tất cả mọi cái mà văn hoá con người đã quy thành Chân Thiện Mỹ. Hãy ngồi xuống để tìm ra ý nghĩa đích thật của cuộc đời mình và của toàn bộ đời sống. Đó là cái xưa nay mình vẫn tham muốn, cái mà xưa nay mình vẫn sở hữu, cái mà xưa nay vẫn hằng thoả mãn vì không cần nương nhờ vào bất cứ thứ gì. Đó là cái từ lâu lắm rồi chúng ta chưa bao giờ thực sự tìm kiếm, và vì không tìm kiếm, không tìm ra cho nên cứ tiếp tục không mãn nguyện và khổ đau.

Chính ở đây chúng ta khám phá ra, tiếp cận được ý nghĩa đời sống, một đời sống chân thực (vì không còn bóng tối), thiêng liêng (vì hoàn toàn không có cái dơ, cái hữu hạn vô thường) và vĩnh cửu. Chính ở đây, nhìn lại, chúng ta thấy những cái khác (tất cả những gì chúng ta tìm kiếm trong cuộc đời) chỉ là những phản ánh lay lắt và méo mó, thậm chí là ảo ảnh, do chính sự tìm kiếm sai lầm và vô vọng của chúng ta tạo ra.

Hãy ngồi xuống và thể nghiệm ý nghĩa đích thực của chính mình, của những người khác, của thiên nhiên và của cái gì siêu việt. Rồi sau đó, khi sự thể nghiệm đã cho chúng ta sự xác quyết về Cái Ấy, hãy đứng lên để giúp mọi người khám phá, tiếp cận với Cái Đó vốn luôn ở trong tâm thức mỗi người.

Đó là hạnh phúc lớn nhất, quyền lợi rộng lớn nhất mà mỗi người đều có quyền được hưởng, vì tất cả chúng ta ai ai cũng bình đẳng với thực tại.

Nguyễn Thế Đăng (Theo Văn hóa Phật giáo)

 

Các tin đã đăng: