LINH HỒN LÀ GÌ?
PHẬT GIÁO HIỂU
THẾ NÀO VỀ LINH HỒN ĐI ĐẦU THAI
Do
quan niệm linh hồn theo nhiều cách khác nhau nên
người ta vẫn bàn cãi về có hay không có linh hồn.
Thường thì linh hồn được hiểu là phần tinh anh,
cái tinh thể, tinh thần của con người, đối lập
với vật chất, với bất cứ cơ quan sinh học nào
của cơ thể.
Linh
hồn, tiếng Hy Lạp là “Psyche”, nghĩa là sự sống,
tinh thần, ý thức. Socrates bảo linh hồn là tinh
thể (Essence). Platon giảng rằng linh hồn bao
gồm lý trí (Logos), tình cảm (Thymos) và ái dục
(Eros). Aristote định nghĩa linh hồn là hoạt
tính của một cơ thể sống và cho rằng linh hồn sẽ
mất đi khi cơ thể không còn nữa, giống như hoạt
tính của con dao là cắt, khi con dao bị hư hoại
thì hoạt tính cắt không còn nữa (xem De Anima -
Về Linh hồn).
Nhìn
chung, các tín ngưỡng, tôn giáo thường cho rằng
linh hồn là thiêng liêng, là bất diệt. Do Thái
giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo đều cho rằng
linh hồn là bất diệt, do Thượng đế ban cho mỗi
người như là sự sống, nếu một người sống thiện
lành, thờ kính Thượng đế thì khi chết đi, linh
hồn người ấy sẽ được về sống hạnh phúc đời đời
bên cạnh Ngài; ngược lại, nếu sống mà làm ác,
không tin vào Thượng đế thì linh hồn sẽ bị phạt
sống khổ đau trong địa ngục.
Ấn
giáo quan niệm linh hồn hay bản ngã, tự ngã
(Atman, Jiva, Purusa) là trường tồn và hòa đồng
được với Đại ngã hay Phạm thiên (Brahman), gồm
ba tính chất là chân lý (Sat), trí tuệ (Chit) và
hạnh phúc (Ananda). Kỳ-na giáo cho rằng linh hồn
có trong con người, loài vật và cây cỏ và là
những thực thể bất diệt.
Tây
Khắc giáo (Sikh) bảo rằng linh hồn hay tự ngã (Atma)
của mỗi người là một thành phần của linh hồn vũ
trụ vĩnh hằng, của Thượng đế (Parmatma).
Tín
ngưỡng dân gian còn cho rằng linh hồn người chết
có thể nương gá vào đâu đó và có thể hiện hình
trên đời mà người ta thường gọi là “ma”. Lắm
người tin rằng khi một người chết đi, linh hồn
người ấy sẽ đến cõi âm, sinh sống ở đấy, chờ sự
phán xét của Diêm vương, linh hồn ác có thể bị
hành hạ cho đến khi được đầu thai ở dương thế.
Phật
giáo thuận theo ngôn ngữ, tín ngưỡng của dân
gian, vẫn nói đến linh hồn, vong linh, hương
linh… để chỉ cái phần còn lại sau khi chết của
một người. Nhưng dù gọi là gì đi nữa thì theo
giáo lý duyên sinh, vô thường, vô ngã, Phật giáo
không bao giờ chủ trương cái phần phi vật chất
này, hay linh hồn, là thường hằng, bất diệt.
Theo
Phật giáo, “linh hồn” là tính biết, cái biết, sự
nhận thức, tư duy…, gọi chung là Thức. Thức bao
gồm một nội dung được xem là những dấu ấn, những
hạt mầm (chủng tử - bija) được tạo nên bởi những
hành tác của một người trong đời sống hiện tại
và những đời sống trước kia, còn được gọi là
nghiệp hay nghiệp thức.
Sau
thời đức Phật, các luận gia suy diễn rằng có một
cái thức gọi là A-lại-da hàm chứa mọi nội dung
của thức. Nội dung này luôn luôn biến đổi theo
hoàn cảnh sống và theo hành động của chúng sang
mang nó. Chính đấy là năng lượng, là sức mạnh
gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi, nó
đẩy A-lại-da hay Thức nương gá vào một thân thể
mới vừa tượng hình có hoàn cảnh phù hợp với nó. Đó
là ý nghĩa của “linh hồn đi đầu thai” mà Phật
giáo gọi là Thức đi đầu thai.
Trong
kinh Đại Duyên (Mahanidanasutta) của Trường Bộ (Dighanikaya),
Đức Phật cật vấn Tôn giả A-nan: “Này A-nan,
nếu Thức không đi vào trong bụng mẹ thì danh sắc
có thể hình thành trong bụng mẹ không?”
Tôn
giả A-nan đáp: “Bạch Thế Tôn, không”. Rõ
ràng Đức Phật đã dạy rằng chính cái Thức đi đầu
thai.
Về
sau, nhiều luận gia gọi cái Thức đi đầu thai này
là Càn-thát-bà (Gandharva) hay thân Trung hữu (Antarabhavakaya),
Trung ấm mà giới Phật học vẫn còn chưa thống
nhất quan điểm về tính chất, sự hiện hữu và thời
gian hiện hữu của nó trước khi nhập thai.
Nói
tóm lại, Phật giáo gọi “linh hồn” là “Thức” hay
“Nghiệp thức” do vô minh từ vô thỉ mà có. Nó là
vọng thức, luôn luôn vận hành, biến đổi theo
hoàn cảnh và hành tác của một người, và là động
lực khiến chúng sinh trôi lăn trong sinh tử luân
hồi.
Do tu
tập, “Thức” sẽ biến thành “Trí tuệ tuyệt đối”,
thành Giải thoát tối hậu, chấm dứt sinh tử,
chứng đạt Niết bàn.
theo
Văn hóa Phật giáo