Từ thời Phật giáo Nguyên Thủy
đến Phật giáo Phát Triển cho tới ngày nay, đạo Phật
luôn lấy Tâm làm gốc mà tu hành. Đạo Phật là đạo
giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau,
phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay
cứu cánh là giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Từ đó,
Phật đã dạy nhiều pháp môn tùy căn cơ trình độ qua
các kinh sách (pháp học: thuyết) và hành Thiền (pháp
hành: tâm). Về các pháp tu hành, các vị tu sĩ thường
dùng tụng kinh, niệm Phật hoặc hành Thiền với mục
đích nắm bắt được cứu cánh của pháp học mà giác ngộ
giải thoát những nỗi ưu phiền khốn khổ, hoặc giải
thoát khỏi sanh tử luân hồi của kiếp người sống
trong bể khổ bến mê. Tám vạn bốn ngàn pháp môn Phật
dạy là tạo cho chúng sanh từng bực một thích ứng với
mọi hoàn cảnh mà tu tập. Riêng pháp Thiền nói chung,
và Tổ Sư Thiền nói riêng, đều cố triển khai các pháp
Phật dạy mà lập thành Pháp Môn riêng rẽ của mình
bằng giải thích, hoặc phương pháp thực tế thực dụng
dễ hiểu dễ tu thích hợp cho mọi người. Kinh Pháp Bảo
Đàn của Lục Tổ cũng cùng mục đích đó. Pháp môn của
Ngài trước lập Vô Niệm làm tông, Vô Tướng làm thể,
Vô Trụ làm bổn. Với pháp môn này căn bản dựa trên
kinh Kim Cang và kinh Bát Nhã, "Tông tức là chủ,
vô tướng là cái không tướng, vô trụ, bổn là gốc."
Đó là ba điểm mấu chốt trong lối dạy đạo của
Ngài.
I. Tu Học
1. Quán xét thường
đoạn
Trong thế giới hiện tượng mọi
sự vật đều biến đổi hư vọng. Từ nghe được người đọc
kinh Kim Cang, Huệ Năng đã có hợp duyên với Phật
pháp và dòng ký ức luôn sôi sục trong Mạt Na thức
của Ngài không gián đoạn, đến lúc Ngài nghe đọc bài
kệ do Thượng Tọa Thần Tú trình pháp Tánh,
Thân là cội bồ đề,
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn phải lau chùi,
Chớ để dính bụi bặm.
Nên ngài hiểu rằng bài kệ trên
chỉ là những hiện tượng vô thường, là vạn vật sanh
diệt đổi thay. Cây bồ đề vốn có tướng sanh diệt, và
so sánh tâm như đài gương sáng là không thấy được
tánh giác. Bản tâm hay bản tánh thường hằng không
thay đổi, thể tánh không (không một vật) thì bụi bặm
bám vào đâu. Cho nên làm một bài kệ khác như sau:
Bồ đề vốn không cây
Gương sáng cũng chẳng đài,
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi bặm.
Bồ đề chỉ cho tánh giác,
tánh giác không có hình tướng thì không phải là cây,
đây là bác câu "Thân như cây bồ đề". Thần Tú nói thân
cây này là cây bồ đề, Ngài nói trái lại, "Bồ đề là
tánh giác, tánh giác thì không có hình tướng mà nói
là cây." Câu thứ hai, Ngài Thần Tú nói, "Tâm như đài
gương sáng," như vậy gương sáng hay đài sáng. Gương
tự nó sáng không cần có đài mới sáng. Câu ba, "Xưa
nay không một vật" tức là chỗ chơn thật đó xưa nay
không một vật huống nữa là dính bụi bặm?. Ngài Thần
Tú nói "Luôn luôn phải lau chùi" nhưng xưa nay nó
không dính một vật thì chùi cái gì?
Ngay lúc đó Lục Tổ đã tháy tánh
rồi nên phân biệt rõ ràng mọi hiện tượng có hình
tướng thì thay đổi vô thường và hư vọng, còn tự tánh
là tánh 'không' thanh tịnh thường hằng không thay
đổi, đó là thực tại toàn diện không thêm không bớt.
2. Đặc điểm của bản
tánh
Khi Tổ lén đến chỗ giã gạo
thấy Huệ Năng đeo đá giã gạo, mới hỏi rằng, "Người
cầu đạo vì pháp quên mình đến thế ư?". Tổ lại hỏi, "Gạo
trắng hay chưa?. Huệ Năng thưa, "Gạo trắng đã lâu,
còn thiếu giần sàng." Tổ lấy gậy gõ vào cối 3 tiếng
rồi đi. Huệ Năng liền hội được ý Tổ; đến khi trống
đổ canh ba liền lén vào thất. Tổ lấy áo cà sa che
chung quanh không để người thấy, vì nói kinh KIM
CANG, đến câu, "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm," Huệ
Năng ngay lời đó đại ngộ, thấy tất cả muôn pháp
chẳng lìa tự tánh, mới thưa Tổ rằng:
Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh
tịnh,
Đâu ngờ tự tánh vốn không
sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy
đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn không
dao động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh
muôn pháp!
Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh
tịnh,
Tự tánh
là thực tại tuyệt đối hay tự tính tuyệt đối, khác
với tự tính giả lập hay tùy thuộc của tâm thường
tình. Thật vậy, nếu lục căn thanh tịnh, là Nhãn Nhĩ
Tỷ Thiệt Thân Ý được thấy biết như thật như chơn,
hay đưa lục căn giả lập nầy vào tánh giác, cái biết
sáng suốt, trong sát na hiện tiền vô thời không, thì
làm gì có chỗ nào mà an trú. Nói rõ hơn là lục căn
an trú vào tuệ tri, cái biết sáng suốt, cái hư không,
thì an trú vào cái không an trú (trong hư không).
Vậy khi lục căn thanh tịnh hay biết sắc thọ tưởng
hành thức sáng suốt thì sắc da của con người trong
sáng, tâm địa thanh thản. Sắc da dụ cho vật lý mà
vật lý ảnh hưởng đến tâm lý. Người mà sống ung dung
tự tại thì thân tâm thường an lạc. Đó là an trú nơi
không tánh. Như đi đến trở về trên con đường, nếu
mắt thấy sắc, thì sự thấy biết như chơn các sắc thì
không khởi lên dục (vì tuệ tri các sắc hay biết một
cách sáng suốt vô thời không), không có dục thì
không ái thủ hữu, thì tham sân si hay hận tâm không
có. Như thế tự tánh là sự tuệ tri, cái biết thường
rõ ràng, vô thời gian nên nó yên lặng, không dính
mắc hay là thanh tịnh.
Đâu ngờ tự tánh vốn không
sanh diệt,
Tự tánh là cái biết là một thực tại điểm trong dòng
tâm thức đang lưu chuyển. Là một điểm cố định thì nó
không trôi chảy nên không sanh không diệt. Vì không
có thời gian kéo dài cái tri thức nguyên thủy đó nữa
nên niệm đầu (thực tại điểm: tánh giác) của dòng tâm
thức đang lăn trôi (cái đang là), nên không có trí
và thức liên hợp, tư tưởng, hay khái niệm gì về sự
vật cả. Đó mới thật sự Giác Ngộ mọi sai lầm của Tri
Giác và Giải Thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử.
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy
đủ,
Như ta
đã biết tánh giác hay giác trí tuệ là sự kết hợp
giữa trí và thức đơn thuần. Chúng ta thể hiện tánh
giác phải qua lục căn tiếp xúc với lục trần để có
lục thức hay tâm thức, là tâm thường tình; dùng ý
trí tri nhận lại tâm thức ấy mới có giác trí. Tự
tánh là một loại giác trí tuệ nên vô thời gian. Tự
tánh tuyệt đối là một thực tại toàn diện không thêm
không bớt; nó gồm có thức và trí, nếu bớt thức thì
không thể thực hiện tự tánh; nếu thêm thức nữa thành
trí và thức liên hợp thành tư tưởng thì cũng không
phải là tự tánh, do đó tự tánh tự đầy đủ rồi.
Đâu ngờ tự tánh vốn không
dao động,
Đã là
một thực tại điểm như kể trên, tự tánh cũng không
động không rung chuyển, không dao động. Qua trích
đoạn kinh Nhứt Dạ Hiền Giả do HT Thích Minh Châu
Việt dịch chúng ta sẽ hiểu.
Quá
khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá
khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ
có pháp hiện tại
Tuệ
quán chính ở đây.
Không động không rung chuyển
Biết
vậy nên tu tập,
Tuệ
quán chính ngay nơi thực tại điểm (điểm cố định)
trong dòng tâm thức đang trôi chảy (cái đang là, hay
trong pháp hiện tại). Tánh giác là một điểm cố định
nên nó không dao động.
Đâu ngờ tự tánh hay sanh
muôn pháp!
Dù tự
tánh cố định thanh tịnh, không dao động, chính nó
không sanh không diệt, nếu có thêm thức hay trí xen
vào thì sẽ sản sanh ra nhiều pháp khác. Tự tánh luôn
có sẵn và dễ dàng tiếp xúc và kết hợp thêm thức (lục
căn, lục trần, lục thức), hoặc thêm trí thì thường
sanh ra muôn pháp.
Đaị để, kinh Lăng Già Phật chỉ rõ như như là
bản giác, tự nhiên có sẵn muôn thuở cùng
khắp thanh tịnh thường hằng không sanh không diệt
như hư không vô tận, đó là lý pháp;
còn trí tuệ là thủy giác, phải dùng
pháp giác trí tuệ trên để hiển lộ cái minh tâm và
kiến tánh mới thành Phật đạo. Ví như bản giác là thể
hư không vô tận, trí tuệ là tướng hư không của giác
trí giới hạn bởi lục căn và khi hòa nhập vào hư
không vô tận thì tướng hư không hòa tan trong hư
không vô tận thành một thể không, không còn phân
biệt gì giữa lý và trí, đó là dung hợp thành lý trí
vậy. Để trực chỉ minh tâm kiến tánh thành Phật
hay muốn đi thẳng vào thể hư không vô tận (minh
tâm là tâm trong sáng: Chân tâm hay bản giác), hành
giả cần phải nắm bắt được tánh giác (kiến tánh). Đó
là giác trí tuệ.
II. Đốn Pháp
1. Vô Niệm.
Lục Tổ dạy, "Nầy Thiện tri
thức! Trí tuệ quán chiếu trong ngoài sáng suốt, biết
bổn tâm mình, nếu biết bổn tâm tức là gốc của sự
giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát Nhã tam
muội, tức là vô niệm. Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy
tất cả pháp mà tâm không nhiễm trước, ấy là vô niệm."
Trí tuệ quán chiếu trong ngoài tức là thấy biết như
chơn như thật lục căn lục trần lục thức, nói chung
thấy biết tất cả các pháp như chơn như thật. Quán
chiếu sáng suốt là tuệ tri hay biết một cách sáng
suốt tức là biết rõ ràng (do bổn tâm) các pháp như
là các pháp, chỉ có các pháp đó mà thôi, không có gì
ở ngoài các pháp đó, không có niệm nào khác nữa..
Khi chúng ta quán chiếu các pháp hay các đối tượng
mà bản tâm thanh tịnh, đó là vô niệm; nghĩa là lục
căn tự nhiên tiếp xúc với sáu trần nên có sáu thức,
ta tri nhận trọn ven chỉ có sáu thức đó mà thôi,
không thêm thức nào khác. Thí dụ, tôi thấy con bò (giác
thức nguyên sơ), biết có tánh thấy (con bò) thôi (giác
trí tuệ), (chỉ biết có thấy con bò mà thôi, không
thêm niệm nào khác nữa; nếu biết con bò rồi còn tìm
hiểu thêm đặc tính con bò hay thêm trần cảnh khác
nữa thì tạo ra quan niệm, tư tưởng, lý luận để phát
sanh ái thủ hữu, là gây ra dây oan trái, là tà niệm
rồi, không phải là vô niệm.) Vô niệm đây, nói theo
tâm lý học, là giác trí tuệ. Khi ta nhận thức niệm
đầu cảm giác để có chơn thức, rồi tri nhận chơn thức
đó là ta có giác trí tuệ. Đầu tiên ta thấy (Cảm giác)
hình ảnh con vật, nhận thức được tên nó là con bò (nhãn
thức hay tâm thức, giác thức) tri nhận giác thức đó
mới có giác trí); và nếu ta nhận thức niệm đầu của
con bò để có chơn thức, rồi tri nhận chơn thức đó
mới có giác trí tuệ. Như trong kinh Kim Cang Phật
dạy cách hàng phục tâm bằng cách, đưa tất cả các
thực tại giả lập (chúng sanh) vào thực tại tuyệt đối
(vô vi niết bàn: hư không) mà không còn thấy các
thực tại giả lập đó nữa. Nên muốn hàng phục tâm (vô
niệm), hành giả trực nhận (quán chiếu) thể không của
sự vật, ngay đó lìa tứ tướng (Xa bốn tướng: Ngã,
Nhân, Chúng sanh, Thọ giả, là không có khái niệm,
không lập lại, để có ý tưởng về sự vật). Kỹ thuật
để kiến tánh là tri nhận thực tại điểm của giác trí.
Chúng ta biết rằng giác trí có thời gian vẫn còn
liên hợp với thức sanh tư tưởng vẩn vơ nên xem như
là giác thức, tâm thức, hay vọng tâm. Dòng tâm thức
trôi chảy, tam thời bất khả đắc.Quá khứ đã qua tiền
ngũ căn không thể nắm bắt, tương lai chưa đến làm
sao nắm bắt được, hiện tại là cái đang là nối tiếp
những sát na sanh diệt không ngừng, cũng không thể
nắm bắt được. Tuy nhiên cái đang là của dòng tâm
thức là cơ hội tốt để chúng ta có thể dùng tuệ quán
nhắm ngay thực tại điểm của giác trí đang là. Vọng
tâm và chân tâm cùng ở một tâm. Cái chuyển động là
vọng, cái cố định là chân. Cho nên BT Long Thọ nói,
cái đến có thật trong cái đang đến. Vậy cái chân
tâm có thật trong cái vọng tâm, hai cái tuy hai mà
một, và chân lý không đến từ cái bất động.
Vậy, chúng ta nên nhớ, để trực chỉ minh tâm
kiến tánh thành Phật cũng đồng với pháp vô
niệm của Huệ Năng, "Nhận thức niệm đầu của Cảm Giác để có Chơn Thức.
Rồi tri nhận Chơn Thức nầy để có Giác Trí Tuệ và xa
lìa tứ tướng; và khi vọng khởi (suy nghĩ, tư tưởng,
tưởng tượng, nhớ lại v.v...), ta Biết là tưởng thức
và xa lìa nó ngay; và cứ như thế, chúng ta tiếp tục
tri nhận từng sự việc vô thời gian." (Phổ Nguyệt)
2. Vô Tướng
Vô tướng là như thế nào? Ngay nơi tướng mà lìa
tướng đó gọi là vô tướng. Tổ lại định nghĩa thế nào
lấy vô tướng làm thể. "Ngoài lìa tất cả tướng gọi
là vô tướng, hay lìa nơi tướng tức là pháp thể thanh
tịnh." Ngay các tướng chúng ta không dính mắc các
tướng thì đó là pháp thể của mình lúc nào cũng thanh
tịnh.
Trong
kinh Kim Cang, Phật đã chỉ rõ về thân tướng không của
"Sắc thinh hương vị xúc pháp' khi tri nhận là đã hòa
nhập vào tánh giác mà tánh giác là thiệt hư không
bao la vô giới hạn. Khi ta thể hiện tánh không, dòng
tâm thức không còn vẩn đục nghĩa là trong sáng hay
còn gọi là phước đức. Vậy khi hàng phục tâm và an
trụ được tâm là ta đã tạo ra nhiều phước đức không
thể nghĩ lường ví như hư không vậy.
Phàm
những gì có tướng đều là hư vọng, giả lập hay duyên
khởi, nên không thể thấy Như Lai bằng thân tướng
được. Thân tướng thật không phải thân tướng, vì khi
nhận thức thân tướng của đối tượng nào, ta chỉ thấy
thể không của nó ở lục căn mà thôi. Khi tri nhận thể
không của Như Lai (Biết được, Tánh Giác), thể không
của thân tướng đã hòa nhập vào hư không, nên thấy
các thân tướng không phải là tướng nữa mà là tánh hư
không là thật tướng không của Như Lai.
3. Vô Trụ
Vô
trụ là thế nào? Bản tánh con người là vô trụ, nên
mới lập vô trụ làm bản, tức là bản tánh của chúng ta
không dính, không mắc, dính mắc đó là vọng chớ không
phải bản tánh. Vô trụ là ngay nơi cảnh không dính
không kẹt.
Ngay
khi thể nhận thực tướng của sự vật (các chúng sanh,
những thực tại giả lập hay đối tượng), liền lìa ngay
tướng giả lập đó (đối tượng) và cả tứ tướng, tức là
không có thời gian kéo dài sự tri nhận ấy. Cho nên
trong kinh Kim Cang, Phật bảo Tu-bồ-đề cách thức an
trụ tâm như sau "Khi chơn tâm hiển bày (hàng phục
tâm rồi) thì phải gìn giữ chơn tâm ấy bằng cách:
Bồ-tát không có chỗ trụ mà bố thí, tức là không trụ
vào Sắc,thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà bố thí." Trụ
là bám vào, dựa vào, lập lại. Bố thí là ban bố, cho
ra cái mình có, cái mình biết, xả bỏ. Muốn an trụ
tâm Bồ-tát không bám vào, không trụ vào (không lập
lại, vô thời gian) tất cả các thực tại giả lập (Sắc
thinh hương vị xúc pháp) mà phải xả bỏ cái mình biết
đó (dứt ngay sự tri nhận ấy).
III. Dụng Thiền
*
Tứ Oai Nghi, "Dụng tức khắp tất cả
chỗ, cũng không dính mắc tất cả chỗ, chỉ thanh tịnh
nơi bản tâm, khiến sáu thức ra sáu cửa đối trong sáu
trần không nhiễm, không tạp, đi lại tự do, thông
dụng không kẹt tức là Bát Nhã tam muội." Ngài dạy
thật là cụ thể. Ngài bảo tất cả các pháp mà tâm
không nhiễm, không trước, đó là vô niệm; vì không
nhiễm không trước nên dụng khắp tất cả chỗ nhưng
không dính ở tất cả chỗ, chỉ bản tâm mình thanh
tịnh. Khi bản thân tâm thanh tịnh thì sáu ra sáu cửa:
lỗ tai có cái biết của lỗ tai, con nắt cũng có cái
biết của con mắt..., sáu thức ra vào đối tiếp với
sáu trần nhưng không dính, không lẩn trong sáu trần,
đi lại tự do, như vậy gọi là tam muội.
Đi đứng
nằm ngồi đều dụng công. Khi đi, thấy biết đường đi,
nếu thấy biết, nghe biết, ngửi biết, nếm biết, chạm
biết, xúc biết, ý biết (suy nghĩ biết) thì tuệ tri
cái biết và không trụ vào chúng nữa. Các oai nghi
khác cũng vậy. Đặc biệt, thân cử động hay hoạt động
gì đều biết, nghe gì đều biết, nói hay trả lời đều
biết, cảm giác gì biết hay ý nghĩ gì đều biết.
*
Tọa Thiền. Tổ dạy chúng rằng: Pháp môn tọa Thiền nầy vốn không chấp nơi tâm, cũng không
chấp nơi tịnh, cũng chẳng phải chẳng động. Nếu nói
chấp tâm, tâm vốn là vọng, biết tâm như huyễn nên
không có chỗ chấp vậy. Nếu chấp tịnh, bởi vì vọng
niệm che đậy chơn như, chỉ không có vọng tưởng thì
tánh tự thanh tịnh. Khởi tâm chấp tịnh trở lại sanh
ra cái tịnh vọng. Vọng không có chỗ nơi, chấp ấy là
vọng; tịnh không hình tướng trở lại lập tướng tịnh,
nói là công phu, người khởi kiến giải này là chướng
tự bản tánh trở lại bị tịnh trói.
Nầy
Thiện Tri Thức! Nếu người tu hạnh bất động, chỉ khi
thấy tất cả người, không thấy việc phải quấy, tốt
xấu, lỗi lầm của người tức là tự tánh bất động. Nầy
thiện tri thức! Người mê thân tuy bất động, mở miệng
liền nói việc phải quấy, hay dở, tốt xấu của người (tức
là) cùng đạo đã trái nhau, chấp tâm, chấp tịnh tức
là chướng đạo.
Tổ
dạy chúng rằng: Nầy thiện tri thức! sao gọi là tọa
Thiền? Trong pháp môn nầy không chướng không ngại,
ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm
niệm chẳng khởi gọi là tọa, trong thấy... tự tánh
chẳng động gọi là thiền. Nầy thiện tri thức, sao
gọi là thiền định? Ngoài lìa tướng là thiền, trong
chẳng loạn là định. Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm
tức loạn, bản tánh tự tịnh tự định, chỉ vì thấy cảnh,
suy nghĩ cảnh tức là loạn; nếu thấy các cảnh mà tâm
chẳng loạn ấy là chơn định vậy. Nầy thiện tri thức!
Ngoài lìa tướng tức là thiền, trong chẳng loạn tức
là định. Kinh Bồ Tát Giới nói: Bản tánh của ta vốn
tự thanh tịnh. Nầy thiện tri thức! Trong mỗi niệm tự
thấy được bản tánh thanh tịnh, tự tu, tự hành, tự
thành Phật đạo.
Tọa
thiền đặc biệt hơn, tâm dễ thanh tịnh hơn. Tự tánh
sẽ hiển lộ trong vô niệm vô tướng hay vô trụ. Trong
thân, khi ngứa biết ngứa, nghe tiếng biết nghe
tiếng, hoặc thở vô biết thở vô, thở ra biết thở ra,
thở vô ra dài ngắn đều biết, bụng phình xẹp biết
bụng phình xẹp, buồn ngủ biết buồn ngủ, cảm giác gì
đều biết. Nhớ việc gì biết nhớ, suy nghĩ biết suy
nghĩ, v.v... lúc nào cũng tĩnh giác; phải quán chiếu
các đối tượng tự nhiên có trong thân tâm hoặc cảnh
ngoài đột nhận, nên đốn ngộ là tĩnh giác ngay hay
lập tức biết. Tọa thiền càng lâu thì thì tâm càng
thanh tịnh nhiều hơn trong các oai nghi khác. Tuy
vậy, trong tứ oai nghi lúc nào cũng tĩnh giác ngay
trong các hoạt động của thân khẩu ý kể cả lúc ăn
uống, ngủ nghỉ.
IV. Kết Luận
Pháp vô
niệm của Lục Tổ là pháp thể nhập tánh giác, là tự
tính toàn diện. Vô niệm chớ không phải là nhứt niệm
vô minh. Nhứt niệm là một niệm của căn trần thức là
tâm thức hay tâm thường tình vốn hệ lụy đến ái thủ
hữu. Cho nên từ tâm thức nguyên sơ hay chơn thức
(Tâm Thức) ta tri nhận (Trí: Tuệ Tri, Biết) chơn
thức đó để có tánh giác hay giác trí tuệ. Đó là ta
thể hiện được vô niêm, vô tướng rồi, vì không còn
dính mắc, niệm khởi, hay không có tướng nào xen vào.
Đó tức là tri nhận ngay thực tướng hay thể không của
thân tướng, là nhận được phước đức không lường bao
la như hư không. Vô niệm là sự nhận thức đối tượng
với sự tri nhận tánh không của đối tượng mà không
trụ vào đối tượng đó nữa, nghĩa là khi tri nhận thực
tại giả lập, ngay đó ta không có khái niệm hay ý
tưởng gì đến thực tại giả lập đó. Muốn giữ vô niệm
lâu thì phải "vô sở trụ' tức là không bám vào sắc,
thinh.. mà phải xả bỏ sắc thinh... khi mình biết là
sắc thinh..., vì nếu trụ vào sắc thinh... một sát na
thì sắc thinh... ấy không còn thật nữa. "Sắc tức thị
không' Sắc tức thì biến thành không... thời gian
huyễn hóa sự vật. Chân Trí (hay Chân Tâm) được hiển
lộ ngay nơi đối tượng hiện quán. Đó là pháp môn đốn
ngộ, thấy tánh ngay, định huệ bình đẳng. Bồ Đề Đạt
Ma nói hiện tại là bồ đề, vì không có quá khứ đầy
đau khổ, không có tương lai để gây thêm tội lỗi, thì
ngay bây giờ (sát na hiện tiền) há không phải bồ đề
sao! Trong khoảnh khắc hiện tại, chân lý xuất hiện
tại đó (không gian) và lúc đó (thời gian) mà thôi.
Thực tướng được hiện bày ở trạng thái vô thời không
vì có thời gian chạy dài trong không gian thì mọi
vật đều trở nên huyễn hóa. Vậy muốn đạt được giác
ngộ tự tính thì phải theo cách dạy của Phật: Hàng
Phục Tâm và An Trụ Tâm (Kinh Kim Cang) hay của Lục
Tổ pháp vô niệm vô tướng và vô trụ (kinh Pháp Bảo
Đàn). Đó là để đạt được chân lý tối hậu, là tự tính
tuyệt đối, là chân tâm, là tánh giác hay là thiệt hư
không, đó là đốn pháp vậy.
Tham khảo.
Kinh
Pháp Bảo Đàn Giảng Giải (Chữ nghiên). Hòa Thượng
Thích Thanh Từ. Sách xuất bản năm 1992.
Cốt Tủy
kinh Kim Cang, kinh Lăng Già, kinh Nhất Dạ Hiền. Phổ
Nguyệt. Trích trong website Tạng Thư Phật học:
http://www.tangthuphathoc.com