Đức Phật dạy rằng “Lấy trí tuệ là Sự
nghiệp”, chúng ta cũng biết rằng, trí tuệ chân chính chỉ được phát sinh trong
quá trình vận dụng Chính kiến và chính tư duy của mỗi con người.
Hiện nay với sự phát triển vượt bậc
của khoa học, cùng với tư tưởng tiến hoá của nhân loại, những tư tưởng phi lý,
lạc hậu, phản khoa học đều phải tự đào thải. Thế mà Phật giáo vẫn tồn tại 25
thế kỷ cùng với năm tháng thời gian. Điều đó chứng minh rằng Phật giáo đã có
sức sống mãnh liệt, bắt nguồn từ một giá trị tinh thần phong phú. Tinh thần ấy
chính là sự thể hiện giáo pháp trong đời sống con người.
PHẬT
TÍNH
Trong quan niệm Phật giáo, con người
là chủ nhân của mọi hành vi của chính bản thân mình ở cả 3 đời quá khứ, hiện
tại và vị lai, là vị Thượng đế duy nhất toàn quyền thưởng, phạt cho chính cuộc
đời mình; ngoài mình ra, không bất cứ ai, hoặc thần linh nào khác, có khả năng
đưa mình lên thiên đàng, hay vứt mình xuống địa ngục.
Đức Phật dạy:
“Chỉ có ta làm điều tội lỗi,
Chỉ
có ta làm ta ô nhiễm,
Chỉ
có ta tránh điều tội lỗi,
Chỉ
có ta gột rửa cho ta.
Trong
sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta,
Không
ai có thể làm cho người khác trong sạch”
(Kinh Pháp cú câu 345)
Đức Phật đã tuyên bố: “Tất cả chúng sinh đều có khả năng
thành Phật”.
Trong lịch sử tiến hoá của nhân
loại, từ sơ khai cho đến hôm nay, phát minh khoa học cùng những thành quả vinh
quang của nó đã đưa nhân loại đến thời kỳ vàng son của tối tân hiện đại, do từ
khả năng khối óc của con người.
Dù vậy, theo phân tích của Phật giáo,
khả năng đó chỉ là giới hạn của một phần của trí tuệ, hay nói một cách khác,
con người của khoa học chỉ mới vận dụng được cái trí sáng thế gian của mình,
chưa phải là trí tuệ của mỗi con người như Đức Phật đã chỉ rõ trong Giáo điều,
thuật ngữ đó tạm gọi là Trí tuệ Bát nhã và chính trí tuệ ấy mới là chìa khoá
vàng duy nhất để mở cánh cửa vô sinh của Niết Bàn tịnh tĩnh.
Tóm lại, đối với Phật giáo, con
người vốn là một chúng sinh ưu việt, có rất nhiều tiềm năng phi thường; nếu
chúng ta khéo triển khai thì không gì không thực hiện được trên cõi đời này.
Như vậy chúng ta có thể nói rằng, Phật giáo là Phật giáo của con người, xuất
phát từ Đức Phật Thích Ca, Ngài là đấng Giác ngộ, nhưng Ngài là một con người;
Ngài đã cất tiếng nói và có một đời sống rất người, vì con người mà khai thị
chân lý, hướng dẫn con người đến đời sống thật sự an vui.
Theo Phật giáo, mọi sai biệt trên
thế giới này đều tuỳ thuộc vào các nhân duyên mà sinh khởi; cũng vậy sự khác
nhau về địa vị, hoàn cảnh giàu sang hay nghèo khổ, ngu dốt hoặc thông minh...
tất cả hoàn toàn do hành vi tạo tác của mỗi con người, chứ không phải do tự
nhiên hay được sắp đặt theo bất kỳ một thông lệ hay một qui định nào.
Ví dụ: con người tàn phá rừng, gây ô
nhiễm môi trường, phá huỷ sinh thái... khiến cho trái đất nóng lên, gây ra hạn
hán, lũ lụt, lở núi, sóng thần, thủng tầng ôzôn... gây ra biết bao nhiêu tai
hoạ trở lại cho con người.
Trải qua hơn 2500 năm, Đạo Phật đã
được thử thách với thời gian và không gian; giá trị tác dụng của đạo Phật vẫn
như xưa. Ngày nay trước tiến bộ văn minh vật chất quá độ đã xô đẩy con người
vào hố thẳm của tham vọng, hận thù.
Chiến tranh vẫn diễn ra khốc liệt
trên thế giới, nghèo đói, bệnh tật, thiên tai vẫn đe doạ đời sống của nhân
loại. Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi lo lắng, sợ hãi mới. Nạn cờ bạc
say rượu, nghiện ngập, nạn gây ô nhiễm môi trường, huỷ diệt sinh thái, áp lực
kinh tế, xã hội đè nặng lên trên tâm trí của con người, tạo nên ức chế về tâm
lý. Băng hoại về đạo đức, làm mất thăng bằng giữa đạo đức và hưởng thụ.
Đạo Phật với con đường thoát khổ
thiết thực nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả, xoá bỏ chấp thủ, hận thù, sẽ
tiếp tục sứ mệnh hoá giải khổ đau cho nhân loại.
Phật giáo quan niệm rằng, tất cả mọi
chúng sinh từ con người cho đến các loài côn trùng, đều tiềm ẩn một khả năng
phi thường như nhau, đó là khả năng thành Phật (có Phật tính). Nhưng do các đặc
tính cố hữu mỗi loài, việc triển khai khả năng ấy khó dễ, nhanh chậm khác nhau.
Đức Phật dạy: “Ta
là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”.
Nhà vật lý học Albert Einstein cho
rằng: “Tôn
giáo của tương lai sẽ là tôn giáo của toàn cầu, vượt lên mọi thần linh, giáo
điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên, lẫn siêu
nhiên, đặt trên căn bản ý thức đạo lý phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi
phương diện trên, trong cái nhất thể đầy ý nghĩa. Chỉ có đạo Phật đáp ứng đủ
các điều kiện ấy”
THỰC
HÀNH PHẬT TÍNH LÀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT
Đạo Phật là con đường do Đức Phật
tuyên bố, truyền đạt; con đường ấy đã được thực nghiệm, thực chứng. Vậy có thể
nói rằng đạo Phật là phương thức sống, lẽ sống, lối sống để có được hạnh phúc
chân thực.
Đức Phật dạy: Người đạt được sự
thanh tịnh, an lạc là người khi có điều không vui, lo âu, sợ hãi thì không bị
chúng chi phối, làm cho vướng bặm không bị chi phối, vướng bận với cái tư duy
tham dục, sân hận và ác ý. Đó cũng là người đạt được một trạng thái tâm định
như Sơ thiền cho đến tứ thiền, theo lời Kinh Pháp cú dạy “Không có hạnh phúc nào lớn bằng sự
yên tĩnh của tâm trí”.
Đạt được Giải thoát- Niết bàn đây là
mục đích tối hậu của mọi người Phật tử, nó chấm dứt mọi đau khổ, thoát ly sinh
tử luân hồi, thành tựu trí tuệ viên mãn. Nỗi khổ thật sự lâu dài chính là vô
minh; niềm hạnh phúc chân thực là vĩnh cửu là sự chấm dứt vô minh, đó là đạo bỉ
ngạn, là “Vô minh diệt minh sinh”.
Kinh Trung Bộ, Phật nói:
“Đừng
tìm về quá khứ
Đừng
tưởng tới tương lai
Quá
khứ đã không còn
Tương
lai thì chưa tới
Hãy
quán chiếu sự sống
Trong
giờ phút hiện tại”
Đức Phật dạy: “Cuộc đời là vô thường, nên nó đem
đến đau khổ (Vì chấp là thường). Cái vô thường mà ta cho là của ta, là ta thì
hoàn toàn không hợp lý”. Giải thoát
là vượt thoát mọi ràng buộc bám víu vào cuộc đời.
Phiền não là ngọn lửa luôn luôn ủ
ngầm và bốc cháy trong con người chúng ta bất cứ lúc nào. Nó có công năng thiêu
đốt mọi hạnh lành, mọi công đức mà chúng ta đã tạo Tu tập là nhằm từng bước
đoạn trừ phiền não. (Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến...)
Vậy thì lấy gì để đoạn trừ phiền
não? Đó là trí tuệ. Trí tuệ chất chứa lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả, Chính định và Chính
kiến. Phật giáo chỉ sử dụng một lưỡi gươm là gươm trí tuệ và chỉ công nhận một
kẻ thù là vô minh. Đây là một minh chứng hiện thực và sống động, chứ không phải
là lời nói suông.
Đạo Phật đặt sự hiểu biết bằng thực
nghiệm lên trên hiểu qua sách vở và suy nghĩ. Phật giáo xây dựng cuộc sống an
lạc, hạnh phúc băng trí tuệ, chứ không phải băng đọc tin. Đức tin đối với Phật
giáo chỉ là phương tiện bước đầu, trong tiến trình đi đến giác ngộ. Cốt tuỷ của
đạo Phật là vậy.
Trong kinh Di giáo, Đức Phật dạy: “Này các tỷ khiêu, nếu người có trí
tuệ thì không có tham trước, thường tự tỉnh giác, không để sinh ra tội lỗi. Thế
là trong pháp của ta có thể được sự giải thoát...
Người
có trí tuệ chân thật, ấy là chiếc thuyền chắc vượt qua biển già, bệnh, chết;
cũng là ngọn đèn chiếu sáng cảnh tối tăm mờ ám; là các món thuốc hay trị các
thứ bệnhl là lưỡi búa bén chặt đứt cây phiền não.
Thế
nên các ông phải dùng tuệ: Văn, Tư, Tu mà tự làm cho thêm phần lợi ích. Nếu
người có trí tuệ chiếu soi, dù cho nhục nhãn thì cũng là người thấy được rõ
ràng”.
Giáo lý Đức Phật thuyết giảng tuy
bao la từ nhân sinh đến vũ trụ, nhưng tựu chung vẫn xoay quanh vấn đề con
người. Lấy con người làm đối tượng quán chiếu để thấy được vũ trụ vạn hữu. Đó
cũng chính là ý nghĩa cao cả mà Đức Phật nhắm đến khi muốn giác ngộ chúng sinh.
Mục đích của Đạo Phật là giải thoát
và giác ngộ mà chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ
Giải thoát và Giác ngộ. Do vậy vai trò của người có trí và vai trò của trí tuệ,
chiếm cứ vị trí then chốt trong mọi lời dạy của Đức Phật. Chúng ta có thể nói
Đạo Phật là đạo của người có trí, là đạo của tuệ giác để tìm cho được định
nghĩa thoả đáng cho Đạo Phật.
TRÍ
TUỆ VÀ TRI THỨC?
Trước hết chúng ta nên phân biệt
giữa người có tri thức như cách hiểu thông thường và người có trí tuệ như Đạo
Phật thường định nghĩa.
Người có tri thức là người có thể có
kiến thức uyên bác về một vấn đề, có thể phân tích trình bày vấn đề ấy một cách
khúc chiết và triệt để, nhưng là người chỉ có biết chứ không có hành và đối với
vấn đề ấy vẫn, người trí thức có thể bị chi phối, không được tự tại.
Ví như một người có thể hiểu biết
rất nhiều về vấn đề rượu, hiểu rượu gồm có những chất liệu gì, tác động của
rượu đến với cơ thể như thế nào. Người ấy gọi là người có tri thức về rượu,
nhưng người ấy uống rượu vẫn bị say rượu, vẫn bị rượu chi phối. Như vậy người
ấy chưa có trí tuệ về rượu.
Trái lại, người hiểu rõ được rượu là
gì, biết rõ được sự nguy hại của rượu, lại có khả năng không bị rượu chi phối,
không uống rượu, không nghiện rượu, không say rượu, vượt khỏi sự chi phối của
rượu. Như vậy người ấy được xem là người có trí tuệ về rượu.
Có người hỏi, nếu có người không có
tri thức về rượu, nhưng không uống rượu, người ấy được xem là người có trí tuệ
không? Lẽ dĩ nhiên là không. Người ấy vẫn hưởng được những lợi ích do không
uống rượu đưa đến, như không say rượu, không nghiện rượu do cử chỉ không uống
rượu của mình. Nhưng rất có thể trong một trường hợp đặc biệt nào đó, vì thiếu
khả năng đối trị với sự cám dỗ của rượu, người ấy bắt đầu uống rượu đi đến say
rượu và nghiện rượu.
THẾ
NÀO LÀ NGƯỜI CÓ TRÍ TUỆ
Với sự phân biệt này, chúng ta mới
hiểu định nghĩa người có trí như đã được Đức Phật định nghĩa rất rộng rãi trong
những lời dạy của ngài. Sự phân biệt này giúp chúng ta nhận định 2 hạng người
trong những Phật tử: Một hạng người rất uyên bác trong Đạo Phật, hiểu biết về
kinh điển rất nhiều, nhưng vẫn không được là người có trí tuệ.
Hạng người này có rất nhiều trong
các học giả thuần tuý nghiên cứu Đạo Phật, uyên thâm trong 3 tạng giáo điển, cả
3 tạng nguyên thuỷ lẫn 3 tạng phát triển, nhưng chỉ có nghiên cứu chứ không có
hành trì, chỉ nói hành thiền giỏi nhưng không hành thiền, trình bày hay về diệu
dụng của trí tuệ, nhưng không phát triển trí tuệ. Như vậy cũng chưa được gọi là
có trí tuệ.
Ví dụ, khi đức Phật còn tại thế,
Ngài Anan thường hầu cận Thế Tôn, thầy ấy rất thông minh, gìn giữ kho tàng
chánh pháp đầy đủ, nhưng vẫn còn ở địa vị hữu học (Cần Phải học), còn bị tham
ái sân hận, si mê và sợ hãi chi phối. Do đó khi Phật nhập Niết bàn, Ngài Ca
Diếp là Tổ thứ nhất cùng các đại tỳ kheo thống nhất sẽ kết tập kinh tạng, đã
tìm đủ 499 vị La Hán, còn thiếu 1 vị thì đủ 500 vị.
Các tỷ khiêu đều tán đồng mời Thầy
Anan, nhưng Tôn giả Ca diếp bảo: “Anan còn ở địa vị cần phải học (Hữu học), còn bị tham ái,
sân, hận, si mê, sợ hãi chi phối, không nên cho tham dự”. Một tỳ kheo người xứ Bạt Kỳ ngồi thiền quán chiếu thấy
Anan còn ở bậc hữu học liền đến và đọc lên bài kệ:
“Ngồi dưới chỗ cây vắng
Tâm
hướng đến Niết bàn
Thiền
định chớ phóng dạt
Nói
nhiều có ích chi?”
Anan nghe kệ, biết việc Ca Diếp
không cho mình tham dự kết tập kinh tạng nên cả đêm đều siêng năng đi kinh
hành, mong cầu được giải thoát, nhưng vẫn chưa đạt được.
Đến lúc nửa đêm, thân hình mỏi mệt
cực độ, Thầy định nằm nghỉ một chút, liền nghiêng đầu xuống gối, khi đầu vừa
chấm gối thì bỗng dưng hết lậu hoặc. Các tỷ khiêu biết thế liền thưa với Ca
Diếp: Đêm qua Anan đã được giải thoát nên cho thầy vào số người kết tập kinh
tạng. Ca Diếp liền chấp thuận đề nghị.
Bấy giờ 500 vị La hán đến thành
Vương Xá mở hội nghị kết tập kinh tạng và cử Tôn giả A Nan kết tập kinh tạng,
Tôn giả ưu Ba Ly kết tập luật tạng. Từ đó mới có các bộ Đại Tạng kinh lưu
truyền đến nay.
Một hạng người khác, có lòng tín
thành, hành trì theo những giới cấm trong Đạo Phật, nhưng chỉ có lòng tin, chưa
chuyển lòng tin thành trí, nên cũng không thể xem là người có trí tuệ được vì
người ấy vẫn có khả năng bị tham, sân, si chi phối và do vậy chưa được xem là
người có trí tuệ.
Người có trí được Đức Phật diễn tả
như một thứ lương tri, giúp chúng ta phân biệt chính tà, thiện ác, tịnh uế, lạc
khổ, thắng liệt. Điều quan trọng trí tuệ ở đây không còn là một đặc tính hy
hữu, có một không hai, mà trở thành như một thứ lương tri luôn luôn có mặt
trong chúng ta, tác động như một ngọn đèn soi sáng chúng ta biết phân biệt chọn
lựa giữa thiện và ác, giữa chính với tà, khiến chúng ta có thể nhận biết những
gì nên làm, những gì không nên làm, để chúng ta có thể tự hướng dẫn mình tiến
đến an lạc và giải thoát.
Diệu dụng này được Đức Phật khéo léo
diễn tả đặc tính, những thái độ, những việc làm của 2 hạng người, được gọi là
kẻ ngu và người trí. Một phân biệt tế nhị nữa là người có trí ưa thích im lặng
như biển lớn không sóng gió, như cái gì đầy tràn, như ao đầy nước, còn kẻ ngu
thì ồn ào như khe núi, như cái gì trống rỗng.
Trong kinh Pháp cú Phật dạy:
“Người ngu si thiếu trí
Chuyên
đời sống phóng dật
Người
trí không phóng dật
Như
giữ tài sản quí” (Pháp cú 26)
“Người trí dẹp buông lung.
Với
hạnh không phóng dật
Leo
lầu cao trí tuệ
Bậc
trí không âu lo
Nhìn
chúng sinh sầu muộn
Chẳng
khác đứng núi cao
Nhìn
kẻ ngu đất bằng!” (Pháp cú 28)
Đối với đời, người ngu kẻ trí có
thái độ sai khác:
“Hãy đến nhìn đời này
Như
xe vua lộng lẫy
Người
ngu mới tham đắm
Bật
trí nào đắm say” (Pháp cú 7)
Nhiều sự sai biệt giữa người trí, kẻ
ngu chỉ bằng gang tấc, tiến tới thành ngu, dừng lại là trí:
“Người ngu nghĩ mình ngu,
Nhờ
vậy thành có trí
Người
ngu tưởng có trí
Thật
xứng gọi trí ngu” (Pháp cú 64)
Tăng chi 1 (trang 113) nêu rõ sự sai
khác một trời một vực giữa người ngu và người trí: “Thành tựu ba pháp, người ngu được
biết đến. Thế nào là ba? Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Thành tựu ba
pháp, người trí được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm thiện, miệng nói thiện,
ý nghĩ thiện”.
Đức Phật nói thêm: “Phàm có sợ hãi nào khởi lên, này các
tỷ khiêu, tất cả sự sợ hãi ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền
trí. Phàm có những nguy hiểm nào khởi lên, tất cả những nguy hiểm ấy khởi lên
từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm những tai hoạ nào khởi lên,
tất cả những tai hoạ ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí...
Như
vậy người ngu có sợ hãi, người trí không sợ hãi. Người ngu có nguy hiểm, người
trí không có nguy hiểm, người ngu có tai hoạ, người trí không có tai hoạ. Này
các tỷ khiêu, không có sợ hãi đến với người trí. Không có nguy hiểm đến với
người trí, không có tai hoạ đến với người trí”.
Thật là một sự xác chứng quá rõ rệt
về sự sai biệt giữa người ngu và người hiền trí, dưới cái nhìn của Đức Phật.
Người ngu khi gặp khổ thọ về thân thường sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực
đi đến bất tỉnh...
Còn bậc trí đối với khổ thọ về thân
thời không sầu muộn, không than van, không khóc lóc, không đập ngực, không đi
đến bất tỉnh... Đức Phật dạy vị ấy được gọi là: “Bậc thánh đệ tử nghe nhiều đã đứng
trên bờ vực thẳm, đã đạt tới chỗ chân đứng an toàn” (Tương ưng IV, tr. 212).
Đức Phật dạy: “Này các tỷ khiêu, bị vô minh che
đậy, bị tham ái trói buộc, thân này của người ngu được sinh khởi. Vô minh ấy
người ngu không đoạn tận. Tham ái ấy người ngu không tận trừ. Vì cớ sao? Này
các tỷ khiêu, người ngu sống phạm hạnh không phải vì chân chính đoạn tận khổ
đau. Do vậy, người ngu khi thân hoại mạng chung đi đến thân khác. Do đi đến một
thân khác, vị ấy không thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, sầu bi khổ ưu não. Ta
nói rằng vị ấy không thoát khổ đau
(Tương ưng II tr 28).
“Này các tỷ khiêu bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc,
thân người hiền trí được sinh khởi. Vô minh ấy người hiền trí đoạn tận, tham ái
ấy người hiền trí tận trừ. Vì cớ sao? Này các tỷ khiêu, người hiền trí sống
phạm hạnh vì chân chính đoạn trừ khổ đau. Do vậy người hiền trí khi thân hoại
mạng chung, không đi đến một thân khác, do không đi đến một thân khác, vị ấy
giải thoát khỏi thân già bệnh chết, sầu bi khổ ưu não. Ta nói rằng vị ấy thoát
khỏi khổ đau (Tương ưng II, tr. 29).
Lợi ích của tuệ là giúp cho chúng ta
nhìn thấy rõ nhân sinh và vũ trụ đúng như thật với bản chất của chúng; đó là
thấy được duyên sinh tính, vô thường tính, và vô ngã tính, qua các giáo lý của
Đức Phật.
Do thấy được như vậy nên chúng ta tự
tin nơi mình chuyển mê khai ngộ. Trí tuệ mở cửa đi đến tự do (tự tại), xa lìa
khổ đau do chấp thủ, không thấy có ta và tự ngã của ta. Từ đó mà thể nhập chân
lý, đó là chân như, là tuệ giác của tự tâm, của bản lai diện mục, là Phật tính
hằng chuyển.
Giới - Định - Tuệ là 3 môn học căn
bản nhất trong hệ thống giáo dục Phật giáo, bởi vì toàn bộ giáo lý Phật giáo
không nằm ngoài phạm vi giới định tuệ do vậy học Phật là học Giới - Định -Tuệ,
tu phật là tu Giới Định Tuệ.
Lưu
Thị Quyết Thắng