Việc xem đạo Phật có phải là “tôn giáo” không đương nhiên tùy thuộc vào định nghĩa của chúng ta cho từ này.
Theo nhà tôn giáo học Van Harvey thì chúng ta gọi một hệ gồm
các đức tin cùng với phép thực hành là một tôn giáo khi mối quan tâm chủ
đạo của nó là về những yếu tố cơ bản và phổ quát của nhân sinh, trong
đó các yếu tố này nảy sinh do mong ước có tự do và cuộc sống đích thực
của nhân loại. (Harvey 1981: chương 8).
Nếu định nghĩa tôn giáo là như thế thì đạo Phật quả thực có thể được
coi là một tôn giáo. Mặt khác nếu xét theo định nghĩa về tôn giáo của
Edward Wilson (Tôn giáo là một tập hợp những câu chuyện huyền hoặc
về nguồn gốc và định mệnh con người, cũng như lý do buộc họ phải tuân
theo nghi lễ hay thánh điển) thì đạo Phật không hội đủ tiêu chí để được xem là một tôn giáo.
Cốt lõi của đạo Phật là Bốn Chân Lí Màu Nhiệm (Tứ Diệu Đế): chân lí
về khổ đau, chân lí về nguồn gốc khổ đau, chân lí về diệt khổ, và chân
lí về con đường diệt khổ.
Nghĩa là đạo Phật có rất ít những gì như Wilson quan niệm về tôn giáo.
Những giả định và suy đoán của Wilson về tôn giáo được trình bày trong
quyển Consilience của ông rõ ràng phần lớn dựa vào truyền thống Cơ Đốc
giáo trong khi lại bỏ qua nhiều đặc tính của nhiều truyền thống tâm linh
khác trên khắp thế giới.
Nếu biết là ngày nay ngôn ngữ phương Tây đã có được một lượng thông
tin dồi dào về tất cả các truyền thống tâm linh lớn trên thế giới thì sự
sơ suất này hơi vô lí.
Nhưng thật không may là cái kiểu vị chủng tộc (ethnocentricity) này
là khá phổ biến kể cả trong giới nghiên cứu học thuật về tôn giáo hiện
nay. Nhà tôn giáo học Richard King đã chỉ ra thói quen cố hữu của các
học giả Đông Phương học ở phương Tây là mang những giả định về bản chất
tôn giáo của Cơ Đốc giáo gán cho đạo Phật.
Giới Phật học hàn lâm có thói quen xem Phật tử châu Á như là “nguồn thông tin bản địa” (native informant). Ông viết:
Giới Phật học hàn lâm cho là giới Phật tử châu Á chỉ đóng vai trò phụ so
với việc thu thập nhận thức từ chuyện nghiên cứu cẩn trọng kinh điển
của các nhà Phật học cổ. Việc nghiên cứu này cũng được xem là cách hiệu
quả nhất nhằm lĩnh hội được tinh hoa đúng nghĩa của đạo Phật.
Hệ quả của xu hướng trên là “đạo Phật nguyên dạng” (pure Buddhism)
lại không nằm ở cuộc sống, ở trải nghiệm và hành trì của các Phật tử tại
châu Á mà lại nằm trong văn khố hay trong các thư viện đại học châu Âu,
nhất là trong những văn bản hay bản dịch được biên tập bằng sự nâng đỡ
của các học giả Đông Phương học người phương Tây. (King 1999: 150)
Để hiểu được đạo Phật theo đúng nghĩa của từ này, điều cấp thiết là
người phương Tây chúng ta phải nhận ra đặc thù văn hóa của minh chứa
trong các thuật ngữ religion (tôn giáo), philosophy (triết học) và
science (khoa học), và trước tiên đừng cho rằng đạo Phật sẽ thích hợp
với những loại hình ngôn ngữ cũng như ý thức hệ của chúng ta theo một
cách nào đó.
Dễ thấy là đạo Phật chứa những thành tố tâm linh uyên thâm như Harvey
đã phác họa, đồng thời chứa một nền tảng triết lí cũng như luận lí vững
chắc ngay từ khởi thủy. Đạo Phật ngay ban đầu còn có một nền tảng quan
trọng nhất là đề tài cho quyển sách này, đó là việc đưa ra nhiều phương
pháp nghiêm ngặt để khám phá bằng trải nghiệm thực các hiện tượng cá
nhân và phi cá nhân đã làm nên thế giới tự nhiên.
Những phương pháp này, mà hầu hết đều được gọi bằng một thuật ngữ
tiếng Anh là meditation (thiền định), thường đòi hỏi sự quan sát cẩn
trọng dựa trên những chiêm nghiệm một cách sáng suốt.
Nói ngắn gọn là, một số thành tố trong Phật pháp và hành trì đạo Phật
đáng được coi là có tính khoa học. Nhưng nói thẳng ra, lối xếp loại đạo
Phật như là một tôn giáo cho dù theo đặc tính khoa học hay triết lí là
hoàn toàn thiếu sót.
Những kiểu độc đoán tư tưởng như thế hiện diện thường xuyên trong các tác phẩm của giới Phật học phương Tây cho đến ngày nay.
Chẳng hạn nhà Phật học Luis Gómez mô tả giáo lí đạo Phật đơn thuần là
một dạng “ý thức hệ tôn giáo” (religious ideology) trái ngược với bất
kì loại hình suy luận chung nào dựa trên lí tính. (Gómez 1999: 369)
Từ những kinh điển ghi lại lời dạy của Đức Phật, từ lịch sử phong phú
của phép biện chứng trong đạo Phật cũng như quá trình tranh luận chi li
một cách công khai tại Ấn Độ hay Tây Tạng, rất dễ thấy nhiều luận
thuyết đạo Phật biểu đạt phép suy luận dựa trên lí tính. Nên quan điểm
những ai không chứa tinh thần tâm linh mới có độc quyền về suy lí như
trên là hoàn toàn không vững.
Hơn thế, người Phật tử đã có truyền thống lâu đời trong việc chiêm
nghiệm về tinh thần, diễn giải chức năng của tinh thần bằng mô tả lí
tính, đối trị với phiền não và phát triển hoạt động tinh thần theo hướng
lành mạnh.
Gómez biểu lộ sự lúng túng khi đương đầu với thuật ngữ Tâm lí học đạo
Phật, và ông xem thuật ngữ này không có gì khác với cụm từ Hóa học Cơ
Đốc giáo. Bằng việc đưa ra điểm tương đồng sai lạc giữa tâm lí học đạo
Phật và hóa học Cơ Đốc giáo, ông đã lờ đi một lượng lớn các chuyên luận
hay sách vở đang tăng nhanh viết về tâm lí học đạo Phật cùng tương quan
của nó với tâm lí học hiện đại do giới tâm lí học cũng như Phật học thực
hiện.
Mặt khác không có ai bàn bạc nghiêm túc chuyện có hay không cái gọi
là Hóa học Cơ Đốc giáo. Lí luận của Gómez có vẻ là, do Phật tử thiếu
công cụ cùng phương pháp của ngành tâm lí học phương Tây hiện đại nên
bất kể họ đã nghiên cứu về tinh thần bằng cách nào, bất kể họ kết luận
ra sao thì cũng không được coi là thuộc ngành tâm lí.
Kiểu lập luận như vậy cũng được dùng để loại trừ triết học đạo Phật
ra khỏi các khoa triết tại hầu hết chốn hàn lâm châu Âu hay Hoa Kì: nếu
người Phật tử không triết lí theo quy tắc giống với triết gia phương Tây
thì họ chẳng có tí triết lí nào cả.
Nhưng nếu chúng ta cần phải tuân theo suy luận theo kiểu này thì về
mặt phản chứng (nguyên bản: ad absurdum), bởi trong đạo Phật không tồn
tại bất cứ khái niệm nào về một Đấng sáng thế cai quản toàn vũ trụ,
trừng phạt kẻ nghịch và ban thưởng người thuận như những tôn giáo nguyên
nghĩa chẳng hạn Cơ Đốc giáo, thì đạo Phật không thể được xem là tôn
giáo. Vậy nên kiểu lập luận về đạo Phật như trên chẳng đi đến một kết
quả nào.
Sự thật là đạo Phật không phù hợp với bất cứ sự phân loại nào của chúng
ta, dù là tôn giáo, triết học, hay khoa học. Bởi lí do đơn giản là đạo
Phật không xuất phát từ phương Tây là nơi mà những khái niệm về tôn
giáo, triết học hay khoa học nảy sinh và phát triển.
Đạo Phật đưa ra một cái gì đó tươi mới và trong chừng mực nào đó là
những thứ chưa có tiền lệ trong văn minh phương Tây của chúng ta. Đóng
góp chính của đạo Phật là những phương pháp đa dạng để khám phá nội tâm,
biến đổi nội tâm bằng chứng nghiệm đột khởi. Vậy mà nhiều học giả tôn
giáo kể cả giới Phật học đã cho thấy sự thiếu sót khi tưởng là truyền
thống đạo Phật dường như chỉ khai triển vài dạng hiểu biết vốn đã được
triển khai từ trước ở phương Tây rồi.
Ví như Gómez xem thiền định trong đạo Phật là một loại “hành vi có
tính lễ nghi” được “lập lại” với hi vọng rằng “tuân theo” sự sắp xếp đó
sẽ chuyển hóa người này người kia một cách có ích (368). Nhà Phật học
Roger R. Jackson cũng xem thiền định đạo Phật tương tự như thế, là một
hành động lễ nghi (Jackson 1999: 231).
Đúng là mô tả như trên phù hợp với vài loại hình thiền định đạo Phật,
nhưng họ đã lầm nếu nói như vậy về hành trì thiền quán (Samatha) và
quán sát (Vipasyana) vốn là hai dạng thiền định chính trong đạo Phật.
Phương pháp thiền quán đòi hỏi sự trau dồi tính quân bình và thông tuệ
một cách nghiêm ngặt, là cách thức liên quan mật thiết tới thuyết tâm lí
của William James về sự chú tâm (1998, 1999a).
Còn kĩ thuật phong phú của đạo Phật trong việc trau dồi khả năng quán
sát dựa vào việc ưu tiên thực tập thanh lọc tâm, cũng liên hệ nhiều với
lí thuyết hiện đại về tâm lí học nhận thức và clinical psychology (tâm
lí học chẩn trị?).
Cái mà nhiều nhà Phật học hay làm là nhét đạo Phật vào một loại hình
quen thuộc nào đấy, như là “tôn giáo” hay “triết học”, mà lại không nhận
rõ được đạo Phật vốn không phù hợp với bất cứ phân loại nào của người
phương Tây chúng ta.
Xếp loại đạo Phật một cách thoải mái như trên mà lại không nảy sinh
thách thức nào với quan niệm đã có về tôn giáo, triết học hay khoa học,
những nhà Phật học này chế ra một lớp người khởi xướng cách nhìn riêng
cho đạo Phật vốn sẵn truyền thống lâu đời: là một lớp học giả dùng thời
gian để đọc sách của người khác, và tự mình viết sách để nói về tác phẩm
của người khác.
Trong khi nhiều nhà Phật học hiện thời được coi trọng với tư cách
Phật học gia chuyên nghiệp thì chỉ một ít trong số này tự coi mình hay
được coi là thiền giả kì cựu trong lòng đạo Phật. Sự mâu thuẫn giữa một
bên là tính chuyên nghiệp trong học thuật và bên kia là sự thiếu trải
nghiệm thiền định cho thấy khuynh hướng rõ rệt tồn tại trong giới Phật
học hàn lâm thời nay (Wallace 1999b).
Một minh chứng rành rành cho khuynh hướng trên nằm trong tác phẩm của
nhà tôn giáo học Paul Griffiths. Trong nhiều ấn phẩm lớn bàn về bản chất
và mục đích thiền định đạo Phật, Griffiths thật thà thừa nhận là theo
phương pháp luận của chính mình thì ông thậm chí chẳng hề đề cập tới
việc có hay không những bậc đạo sư có khả năng đạt đến trạng thái “diệt
tận định” (nirodhasamapatti) vốn là mục đích tiên quyết trong hành trì
thiền định.
Dựa theo phân tích về văn bản học của mình, ông kết luận diệt tận
định là “một loại hôn mê sâu nhưng vẫn giữ tư thế (profound cataleptic
trance), là một dạng tình trạng biểu hiện ở những bệnh nhân loạn thần
kinh (psychotic patient) hay bệnh nhân hôn mê sâu kéo dài (long-term
coma patient)” (Griffiths 1986: 11).
Khi đưa ra kết luận như vậy, ông không suy xét tại sao thiền giả đạo
Phật phải trải qua nhiều năm trau dồi về triết học (Wallace 1980), về
nguyên tắc đạo đức, thanh lọc tâm, về suy luận dựa trên thực chứng và
thiền định, chỉ để đạt được một trạng thái mà có thể làm được không khó
khăn mấy bằng một dụng cụ gõ nhanh vào đầu một cách liên tục, trực tiếp.
(Chú của Kan: có lẽ tác giả đang nói về chuyện sư Lâm Tế hay dùng gậy
đánh để khai ngộ cho học trò).
Đây là một lối kết luận vô lí bắt nguồn từ cách tiếp cận của giới học
giả Đông phương học, đã được nhiều Phật học gia sử dụng ngay từ thời sơ
khởi của ngành này trong giới học thuật ở phương Tây (Almond 1988;
Wallace 1999c). Điều kì quặc nhất là cách tiếp cận kiểu này được những
người cổ súy cho nó xem là có tính khoa học. Ngược lại là đằng khác,
khoa học hiện đại được coi là lực lượng chống lại cái kiểu suy luận phi
lí, giáo điều và ngụy học thuật như trên.
Bỏ qua tính phi khoa học tồn tại phổ biến trong giới hàn lâm nghiên cứu
Phật học ở phương Tây, thì câu hỏi còn lại là những yếu tố nào của đạo
Phật có thể được coi là có tính khoa học, theo một nghĩa nào đó cho
thuật ngữ này. Wilson đã mô tả chính xác khoa học là “công việc thu thập
tri thức về thế giới có hệ thống, có tổ chức và cô đọng tri thức thành
nguyên lí và định luật kiểm chứng được”.
Công việc này có chủ đích liên hệ tới mạng lưới nguyên nhân và hệ quả
qua suốt các giai tầng sát nhau trong một cấu trúc (adjacent levels of
organization). Nó được định hình dựa trên kinh nghiệm luận (empiricism)
theo hướng đối lập rõ ràng với tiên nghiệm luận (transcendentalism) vốn
thuộc phần cốt lõi của rất nhiều triết học hay thần học.
Trở về với nền tảng cốt lõi của Phật pháp và hành trì phật Pháp – đó là
bản chất khổ đau, nguồn gốc gây nên khổ đau, triển vọng đạt tới tự do và
nguyên tắc đạt được sự tự do ấy – chúng ta thấy rằng đạo Phật cũng chủ
đích liên hệ tới yếu tố nhân quả bên trọng trải nghiệm của con người.
Theo nghĩa này thì đạo Phật là một dạng tự nhiên luận (naturalism)
chứ không phải tiên nghiệm luận. Đạo Phật, giống như khoa học, là một
thực thể bao gồm những tri thức có hệ thống về thế giới tự nhiên, đặt ra
một chuỗi đa dạng nhiều giả định và lí thuyết có thể kiểm chứng về bản
chất tinh thần cùng quan hệ của nó với môi trường vật chất.
Những lí thuyết này coi như đã được kiểm chứng và chứng nghiệm thực
tế rất nhiều lần suốt hai ngàn năm trăm năm nay bằng những phương pháp
thiền định tái lập được (Wallace 2000: 103 – 118). Cũng theo nghĩa này
thì đạo Phật là một dạng duy nghiệm luận hơn là tiên nghiệm luận.
Dù vậy cũng không phủ nhận trong giới Phật tử có đa dạng quan điểm về
bản chất tự nhiên, về ý nghĩa của từng dạng quán chiếu thiền định. Cũng
như trong lịch sử khoa học thì qua mỗi thế hệ, những lí thuyết và khám
phá khoa học được diễn dịch theo nhiều cách khác nhau.
Điểm khác biệt chính giữa khoa học và đạo Phật đó là, khoa học gia
loại trừ kinh nghiệm chủ quan khỏi thế giới tự nhiên và cho rằng kết cục
có tính nhân quả chỉ áp dụng cho hiện tượng vật chất. Đạo Phật trái
lại, coi hiện tượng chủ quan thuộc tinh thần ít nhất cũng có vai trò
nghiêm túc tương đương với hiện tượng khách quan của vật chất, và đưa ra
một lớp các mối liên hệ nhân quả tương thuộc giữa hai loại hiện tượng
đó.
Lấy ví dụ cụ thể. Đạo Phật cung cấp nhiều phương tiện nghiêm ngặt để
nghiên cứu nguyên nhân cần và đủ (necessary and sufficient causes) của
khổ đau hay hạnh phúc hơn, so với ngành tâm lí học hiện đại là nhiều hơn
hẳn. Đạo Phật không chỉ đối trị đối trị với khổ đau đã xảy ra mà còn
nhận diện, đối trị khi chúng chưa hình thành.
Hiện tượng có điều kiện (conditioned phenomena) sinh ra do nhiều
nguyên nhân, mà nền tảng trọng tâm của đạo Phật là nhận diện nguyên nhân
bên trong của nỗi khổ niềm vui, bởi chúng được coi là quan trọng hơn
nhiều so với nguyên nhân bên ngoài hay nguyên nhân vật chất.
Có lẽ đây là mặt có tính khoa học hơn cả trong đạo Phật, đề cập đến
nhiều chủ điểm trong phạm vi trải nghiệm cùng suy nghĩ của con người là
cái mà khoa học hiện đại thường bỏ qua. Chắc chắn là kết luận rằng con
người thiên về sự không thỏa mãn đơn giản bởi đó là “bản chất con
người”, là phi khoa học. Vậy mà đây lại là giả định phổ biến trong tâm
lí học hiện đại!
Quan niệm đạo Phật về bản chất tinh thần hay trí tuệ (consciousness) là
những phát kiến chân thực hiểu theo nghĩa khoa học cho thuật ngữ này:
chúng có thể được lập lại bởi nhà nghiên cứu nào rành rẽ những huấn thị
thiết yếu. Nhưng cách thức được viện dẫn để tạo ra những phát kiến trên
có chặt chẽ hay không?
Chúng đương nhiên là không định lượng, cũng chẳng dẫn đến một công
thức toán học nào cả. Phải thấy rằng tiêu chuẩn về tính chặt chẽ trong
một lĩnh vực chẳng hạn khám phá các quá trình vật chất khách quan, thì
lại trở nên thừa thãi hoặc không hữu dụng trong ngành khác chẳng hạn như
việc khám phá kinh nghiệm chủ quan và liên hệ của nó tới môi trường
xung quanh.
Một phương pháp được xem là chặt chẽ hay không còn tùy thuộc vào mục
đích hướng tới là cái gì. Trong vài ngữ cảnh thì việc đo lường định
lượng chính xác là thiết yếu để có được quan sát chính xác, nhưng trong
bối cảnh khác thì lại chẳng phù hợp hay không thể làm được. Khi đó cần
có những tiêu chuẩn mới về tính xác thực cho phù hợp với mục đích lí trí
và thực tiễn (epistemic and pragmatic goals) của nghiên cứu.
Người ta hay nói về điểm khác biệt chủ yếu nhất giữa khoa học và truyền
thống thiền định là, khoa học thì kế thừa một tri thức chung của nhân
loại trong khi trải nghiệm thiền định chỉ có tính cá nhân và không thể
chia sẻ được. Như Edward Wilson đã chỉ ra “Tính khắt khe trong cộng đồng
khoa học là ở chỗ một phát kiến sẽ không tồn tại cho đến khi nào nó
được thẩm tra và công bố”.
Điều ông nói hiển nhiên có nghĩa là một phát kiến sẽ không được cộng
đồng khoa học chấp nhận cho đến khi nào nó được công bố và thẩm định. Sự
quả quyết hợp lí như vậy cũng không bác bỏ được thực tế rõ ràng là một
phát kiến chân xác đương nhiên phải có trước việc công bố nó. Và ngay cả
khi nó đã được công bố thì cũng chỉ có một nhóm nhỏ các chuyên gia
trong chuyên ngành đó mới thẩm định được.
Các nhà khoa học ngành khác cũng như công chúng thừa nhận phát kiến
trên là dựa trên niềm tin họ dành cho các chuyên gia này. Tình huống vừa
rồi không khác mấy với phát kiến trong thiền định đạo Phật. Phát kiến
do vị hành giả tìm ra bằng kinh nghiệm đột khởi, sau đó được thuật lại
bằng lời hay bằng văn bản.
Lời dạy của vị thiền sư sẽ được thiền sinh thẩm định lại, có thể bằng
cách tranh luận về tính đúng đắn của phát kiến đã nêu. Còn những phê
phán của những ai không phải là thiền giả đích thực thì cũng chẳng khác
mấy người không phải khoa học gia lại phê phán về lí thuyết khoa học.
Việc khẳng định đạo Phật có yếu tố khoa học không có nghĩa là gạt đi
những yếu tố tâm linh rất rõ trong truyền thống này. Giống như Stephen
Jay Gould đã nói về tôn giáo như trên, đạo Phật đề cập rất nhiều đến mục
đích, ý nghĩa, giá trị của nhân sinh.
Mặt khác tương tự khoa học, đạo Phật còn liên quan đến việc tìm hiểu
lĩnh vực thuộc trải nghiệm tinh thần cũng như cảm xúc. Đạo Phật cũng đề
cập đến vấn đề vũ trụ được cấu thành bởi cái gì và vận hành ra sao theo
cả góc độ chủ quan lẫn khách quan.
Còn theo diễn giải của Langdon Gilkey về tôn giáo thì đạo Phật đúng
là cũng đề cập tới vấn đề về mục đích ý nghĩa cuộc đời, về nguồn gốc
tối hậu cũng như số phận của chúng ta, về trải nghiệm của đời sống nội
tâm.
Nhưng chỉ có bấy nhiêu yếu tố thì không thể đơn thuần xếp loại đạo
Phật theo nghĩa tôn giáo hay khoa học gì cả. Muốn tìm hiểu về đạo Phật
chúng ta cần bỏ bớt những quan niệm quen thuộc đã bám chặt lấy mình,
đồng thời sẵn sàng tiếp nhận đôi điều khác biệt tận gốc rễ có thể thách
thức những quan niệm sâu xa nhất của chúng ta.
Kan (dịch)
Theo: Sách: Đạo Phật và Khoa học/thuvienhoasen.org