Theo các sử gia, các nhà nhân chủng
học và khảo cổ học, cách đây khoảng 5000 năm, tại những nền văn minh tối cổ, một
số thủ lãnh đã thống nhất được các bộ tộc và hình thành những vương quốc hùng mạnh.
Trung Hoa có Vua Hoàng Đế (5000 năm) (1), Việt Nam có Vua Hùng (4879 năm) (2).
Ai Cập có vua Thinite King Den (4800 năm) (3). Còn tại Ấn Độ, nền văn mình đã
có cách đây 4500 năm nhưng phải đợi tới
năm 298 trước Tây Lịch, Đế Quốc Maurya mới hình thành và từ 273-232 trước Tây Lịch
với Đế Quốc Khổng Tước của Asoka Đại Đế (4)
Tại Hy Lạp nền văn minh hình thành năm 2500 trước Tây Lịch và tới năm 400 trước
Tây Lịch, Athens trở thành một đô thị dân chủ với mọi nam công dân có quyền phục
vụ thường trực tại nghị viện là nơi biểu quyết các đạo luật và chính sách của
quốc gia (5)
Thế nhưng phải mất gần 4500 năm,
tức khoảng từ 500 tới 400 năm trước Tây Lịch, tư tưởng và học thuật “trị
quốc” mới nở rộ từ Đông sang Tây trong đó Khổng Tử, Mạnh Tử chủ trương
Đức Trị, Hàn Phi Tử, Thương Ưởng chủ trương Pháp Trị, Mặc Tử chủ trương Kiêm Ái
“đó là tình thương bình đẳng và phổ cập”
bởi vì ”Lọan từ đâu sinh? Sinh ra bởi
không yêu nhau” (5) từ đó nước Trung Hoa hình thành một lớp sĩ phu gọi là
Quân Tử với kim chỉ nam: Cách Vật Trí Tri, Chính Tâm, Thành Ý, Tu (thân),
Tề (gia), Trị (quốc). Bình
(thiên hạ). Còn tại Hy Lạp năm 428-348 trước Tây Lịch, Plato
đã nổi tiếng với tác phẩm The Republic (Nền Cộng Hòa) có thể liên quan tới ý tưởng "Một cộng đồng được tổ chức chặt chẽ của những nhà tư tưởng
có cùng chí hướng"
(6).
Thế nhưng dù cùng thời với Đức Phật
hoặc sau Đức Phật hơn 100 năm, không một triết gia hoặc một nhà tư tưởng
Đông-Tây nào có một cái nhìn quán triệt, bao quát về sự Thái Bình và Cường Thịnh
của một quốc gia. Khổng Tử chủ trương tu thân, Mặc Tử chủ truơng Tình Thương. Đồng
ý tu thân và tình thương là căn bản, nhưng còn tương quan xã hội giữa con người
và con người như thế nào? Vấn đề văn hóa như thế nào? Thế nào là tâm linh của cộng
đồng dân tộc? Còn Pháp Gia chủ trương lấy hình pháp để trị dân. Đồng ý luật
pháp là điều kiện ắt có để ổn định xã hội, nhưng ngòai luật pháp, quốc gia còn
cần những gì nữa? Những yếu tố nào tạo đoàn kết và đâu là điểm hội tụ của đất
nước? Plato chủ trương đất nước cần được cai trị bởi những nhà trí thức, đúng
ra là các triết gia – vì lúc đó họ quan niệm rằng triết gia là những người hiểu
biết, thành thực và sáng suốt nhất. Từ đó mà có danh từ hiền triết. Thế nhưng còn
khối đông quần chúng bình thường không phải là “triết gia” thì sao?
Thật lạ lùng, chỉ riêng Đức Phật
đã có một cái nhìn tòan diện, tổng hợp mọi lãnh vực như luật pháp, văn hóa, xã
hội, chính trị và tâm linh. Đó không phải là thuật “trị quốc” nhưng là những
thành tố không thể thiếu vắng cho sự đòan kết và từ đó đi đến phát triển và cường
thịnh của bất kỳ quốc gia nào. Chúng ta hãy thử đọc mẩu đối thọai dưới đây: (7)
“Cuộc hành trình cuối cùng của Đức Phật bắt đầu từ Thành Vương Xá
(Rajagaha) kinh đô xứ Ma Kiệt Đà (Magadha). Trước khi ngài rời Thành Vương Xá
(Rajagaha), Vua A Xà Thế (Ajatasattu), vị vua giết cha, có sai viên đại thần đại
thần của mình có tên Vassakara đề dò ý kiến Ngài về mưu định của nhà vua muốn
gây chiến với nước Cộng Hòa Vajjian (8), thuở ấy rất trù phú. Điều kiện thịnh
suy. Đức Phật dạy:
1)
Ngày nào mà người dân Vajjian còn
thường gặp gỡ và tụ họp đông đảo với nhau;
2)
Ngày nào mà người dân Vajjian còn
tụ họp trong tinh thần đòan kết, còn vươn mình tiến triển trong tinh thần đòan
kết và làm tròn nhiệm vụ trong tinh thần đòan kết.
3)
Ngày nào mà người dân Vajjian
không ban hành những đạo luật mới mẻ chưa từng được ban hành, không hủy bỏ những
đạo luật sẵn có, và sống thích hợp với những quy tắc cổ truyền;
4)
Ngày nào mà người dân Vajjian còn
hộ độ, tôn sùng, kính trọng và đảnh lễ các bậc trưởng thượng trong xứ, và còn
nghe những lời dạy thích nghi của các vị này;
5)
Ngày nào mà người dân Vajjian
không còn một người đàn bà hay con gái nào bị quyến rũ hay cưỡng ép phải sống với
kẻ ngọai nhân;
6)
Ngày nào mà người dân Vajjian còn
bảo trì, tôn trọng, kính nể và làm vẻ vang các tôn miếu của họ, dù ở trong hay ở
ngòai tỉnh thành, và không sao lãng những nghi lễ cổ truyền;
7)
Ngày nào mà người dân Vajjian còn
bảo bọc, bênh vực, và nhiệt thành ủng hộ các vị A La Hán, khiến các vị nào chưa
đến sẽ đến trong xứ và vị nào đã đến, được sống an lành.
Ngày nào
mà bảy điều kiện trên còn được thực hiện, thì dân tộc Vajjian không thể suy đồi,
trái lại còn cường thịnh hơn trước.”
Khi nghe chính Đức Phật giảng dạy
bảy điều kiện thịnh suy của người dân Vajjian, vị đại thần Vassakara nhận thức chắc chắn rằng vua xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) không thể chiến thắng
dân tộc Vajjian. “ (Trang 240 &241)
Cuộc vấn-đáp này diễn
ra vào lúc Đức Phật đã 80 tuổi, cơ thể Ngài đã suy yếu, cơ hồ như một “chiếc xe đã quá cũ”. Thế nhưng với nghị
lực và trí tuệ minh mẫn phi thường, với lòng từ bi, hằng ngày Ngài vẫn tiếp
khách - không từ chối một người nào - từ
vua quan đến thứ dân để trả lời những thắc mắc của họ và Ngài luôn giảng giải cặn
kẽ. Trong cuộc đối thọai nói trên, Đức Phật không đứng về phe nào, cũng không hề
lên tiếng ngăn cản Vua A-Xà-Thế tiến hành cuộc chiến tranh. Mà bằng sự phân
tích khách quan, mà tự thân sự trình bày khách quan đã có sức thuyết phục, khiến
đại thần Vassakara tự tìm thấy câu trả lời. Mẩu đối thoại trên, ngày nay vẫn
còn được coi như là những tiêu chuẩn mẫu mực đánh giá sự cường thịnh của một quốc
gia cho dù hơn 2500 năm đã qua. Dưới đây chúng ta sẽ phân tích cặn kẽ từng điểm
một:
Về
Điều Kiện Thứ Nhất:
Khi mà “Người dân thường gặp gỡ và tụ họp
đông đảo với nhau” thì đó là dấu
hiệu của thái bình, tin cậy và chia xẻ. Ngược lại, khi một cộng đồng mà “chó không dám sủa, gà không dám kêu” nhà
nhà đóng cửa im ỉm, người ra đường len lén nhìn nhau nghi ngại rồi vội vã, ai về
nhà nấy là một cộng đồng “chết”. Khi mọi người ra đường mà thiếu
vắng tiếng chào hỏi “Cụ, ông bà, chú,
bác, cô, các cháu v.v.. có mạnh khỏe không? “ là dấu hiệu của một cộng đồng
chia rẽ và thiếu tình thương. Từ tình lân lý, xóm giềng, quen biết mà đẻ ra
tình non tình nước là như thế. Ngày xưa dân tộc ta sống bao bọc trong lũy tre
làng, lúc đó làm gì có báo chí, TV, điện
thọai, Internet ... Thậm chí chuyện xảy ra ở làng bên cũng không hề hay biết -
mà tại sao có thể đòan kết để đánh thắng bao nhiêu cuộc xâm lăng hùng mạnh từ
phương Bắc? Bởi vì đình làng là chỗ người dân tụ hội để bàn chuyện làng chuyện
nước. Hội làng là chỗ trăm họ vui chơi, gái trai hò hẹn. Đầu trên xóm dưới
không bao giờ vắng tiếng chào hỏi. Ngả nón chào nhau một tiếng là nề nếp gia
phong là văn hóa và thể hiện tinh thần cảm thông và chia xẻ.
Về
Điều Kiện Thứ Hai:
“ Tụ họp trong tinh thần đòan kết, vươn
mình tiến triển trong tinh thần đòan kết và làm tròn nhiệm vụ trong tinh thần
đòan kết.” Xin thưa rằng: “Vươn mình tiến triển trong tinh thần đòan kết
và làm tròn nhiệm vụ trong tinh thần đòan kết” có nghĩa là không tị nạnh, ghen ghét khi làm
công việc chung. Tại Hoa Kỳ, ngòai những hình ảnh xấu phơi bày trước mắt mà cả
thế giới đều thấy, tiềm tàng trong tâm thức của người dân là tinh thần phục vụ
và thiện nguyện rất đáng kính phục. Cứ thử nhìn vào Hoa Kỳ mỗi khi có thiên tai
như lụt lội, bão tố, cuồng phong, hỏa họan. Không cần đợi chính quyền kêu gọi,
người dân tự động bảo nhau thành lập các tóan cấp cứu, các đòan cứu trợ. Họ làm
việc trong tinh thần yêu thương, chan hòa, vui vẻ. Khi thiên tai đã qua thì ai
về nhà nấy, không cần huy chương hay khen thưởng. Có lẽ điều này đã thấm vào
máu dân tộc Hoa Kỳ hơn 200 năm rồi. Chính vì thế mà khi nhìn vào sinh họat của
người dân Vajjian Đức Phật thấy ngay dân tộc này thực sự có đòan kết.
Mà khi đã có đòan kết rồi thì như người Hoa Kỳ nói “ United
We Stand” (Đoàn Kết Thì Sống). Khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) thì họ đã đánh giá sai lầm
tiềm năng và tinh thần đoàn kết của người dân Hoa Kỳ. Cuối cùng Nhật Bản đã
thua. Cũng như người Trung Hoa- nói đúng ra những người cầm quyền ở Trung Hoa -
luôn luôn đánh giá sai lầm tinh thần đòan kết của Đại Việt ta. Triều đại Trung
Hoa sau không bao giờ học được bài học thất bại ô nhục của triều đại đi trước
và luôn có tham vọng thôn tính và nô lệ hóa dân tộc Việt Nam. Cho nên Đòan Kết,
đối với dân tộc Việt Nam, không phải chỉ là nhu cầu phát triển,
mà
còn là nhu cầu sống còn trước mối đe dọa thường xuyên từ phương Bắc.
Về
Điều Kiện Thứ Ba: “Không
ban hành những đạo luật mới mẻ chưa từng được ban hành, không hủy bỏ những đạo
luật sẵn có, và sống thích hợp với những quy tắc cổ truyền”. Đây là vấn đề
tạo ổn định đời sống cho cả cộng đồng dân tộc bởi vì - muốn xã hội ổn cố, luật
pháp phải ốn cố trước đã. Người dân sẽ vô cùng bối rối, mất tin tưởng, từ mất
tin tương đi đến hỗn loạn khi luật pháp thay đổi như chong chóng. Dĩ nhiên khi
cuộc sống đổi thay và xã hội tiến lên thì luật pháp cũng phải thích nghi với
hòan cảnh mới. Nhưng không vì thế mà hủy bỏ những đạo luật tốt đẹp đã có trong
quá khứ. Hoa Kỳ trải qua hơn 200 năm lập quốc, chỉ có một bản hiến pháp duy nhất
ban hành vào năm 1787. Đã có rất nhiều bản tu chính hiến pháp nhưng những điều
căn bản vẫn còn được giữ nguyên, điều này chứng tỏ Hoa Kỳ không bao giờ có bất ổn
chính trị. Trái hẳn với Thái Lan từ năm 1932 tới nay, đã thay đổi hiến pháp tới
16 lần do những cuộc đảo chính liên miên của nhóm quân phiệt. Rất may mà Đức
Vua Bhumibol vẫn còn đó như là một tụ điểm của dân tộc và Phật Giáo là biểu tượng
tâm linh để nối kết. Nếu không thì đất nước Thái Lan đã tan nát bởi nạn kiêu
binh và sứ quân rồi. Ngòai ra Đức Phật cũng còn hết sức tinh tế khi nhận ra rằng
bất kỳ một quốc gia nào, song hành bên cạnh Luật còn có Lệ.
Lệ chính là một thứ “luật bất thành văn”
được mọi người tuân thủ như những “quy tắc
cổ truyền”. Không phải chỉ Việt Nam ta mới sống bằng lệ qua câu nói “Phép vua thua lệ làng” mà cả các nước Âu
Tây cũng sống bằng Lệ - tức là những quy tắc cổ truyền hay truyền thống. Chính
những quy tắc cổ truyền này đã tạo nên tính độc đáo cho từng dân tộc và cũng là
cách bày tỏ lòng tôn kính di sản văn hóa cha ông để lại. Việt Nam chúng ta có
nhiều truyền thống tốt đẹp vẫn còn được tuyệt đại đa số quần chúng yêu mến và
giữ gìn từ thời đại Hùng Vương cho tới ngày nay. Nó chính là sự thuần
nhất về văn hóa. Khác biệt về truyền thống dân tộc và xung đột văn hóa
là nguyên do chính gây chia rẽ, suy yếu dân tộc và có thể đưa đến chia cắt đất
nước.
Về
Điều Kiện Thứ Tư:
” Hộ độ, tôn sùng, kính trọng và đảnh lễ các bậc trưởng thượng trong xứ,
và còn nghe những lời dạy thích nghi của các vị này” Đây chính là sức mạnh văn hóa của một dân tộc và cũng là nấc
thang giá trị của xã hội. Trên bình diện luật pháp và nhân quyền, mọi người:
nam- phụ- lão- ấu, bất kể sang hèn, giầu nghèo, địa vị xã hội, lành mạnh hay
khuyết tật…đều có phẩm giá, nhân cách và được đối xử ngang nhau. Thế nhưng trên
bình diện văn hóa và đạo đức, những người có công lao với đất nước, những người
tận tụy hy sinh cả đời mình cho nhân quần xã hội, những nhà trí thức – mà ở đây
Đức Phật gọi là các bậc trưởng thượng - họ phải được quần chúng kính nể và lắng
nghe. Khi mà những kẻ côn đồ, dao búa, những kẻ sống thác lọan, trụy lạc, những
kẻ trọc phú, những kẻ vô phẩm hạnh mà được TV, báo chí tới phỏng vấn, bốc lên
như một thứ “role model” - khuôn mẫu
cho mọi người vươn tới - thì đó là một xã hội hư đốn đồi trụy, một xã hội không
còn coi học vấn và phẩm hạnh là những gì tôn quý. Rất may mà xã hội ta, dù hội
nhập với trào lưu Tòan Cầu Hóa nhưng vẫn còn biết quý trọng các nhà trí thức,
những nhà người đạo đức và những người giàu lòng nhân ái. Một tấm gương sáng ngời
còn lưu lại trong sử Việt là sự kiện Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, dù đã cáo lão từ
quan, về sống ẩn dật tại làng quê mà lúc nào cũng được vua nhà Mạc, Chúa Nguyễn
và Chúa Trịnh tôn kính, vấn hỏi. Và ngay tại các quốc gia Âu-Mỹ, nơi mà các tài
tử ci-nê, các siêu mẫu, ca sĩ, cầu thủ football nổi tiếng như cồn và được nhiều
triệu người ái mộ, nhưng khi cần phải
tham khảo ý kiến về những vấn đề trọng đại của đất nước thì không phải là những
người này…mà là các nhà trí thức, các chuyên viên thượng thặng, các cựu tổng thống,
thủ tướng v.v.. Điều này chứng tỏ xã hội Âu Tây, bên cạnh cái đà cực kỳ nhố
nhăng, vẫn có một dòng chính (mainstream) để bảo tồn giá trị văn hóa của họ.
Về
Điều Kiện Thứ Năm:
“ Không còn một người đàn bà hay con gái
nào bị quyến rũ hay cưỡng ép phải sống với kẻ ngọai nhân.” Đây là vấn đề nhân phẩm của phụ nữ và vai trò
của phụ nữ trong xã hội. Đức Phật là vị giáo chủ duy nhất trên thế giới chủ
trương “nam nữ bình quyền”. Ngài đã
thu nhận làm đệ tử, truyền giới tỳ kheo ni và cho phép nhập Tăng Già rất nhiều
phụ nữ. Theo Đức Phật,
một xã hội lành mạnh và ổn cố, không phải là một xã hội mà đàn bà bị đối xử bất
công hay đối xử như một thứ nô lệ. Người đàn bà có một vai trò rất quan trọng
trong việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái và xây dựng hạnh phúc gia đình. Danh từ mẫu
giáo phát sinh từ đó. Khi nhìn vào sinh họat của phụ nữ tại Vajjian Đức
Phật tiên đóan rằng đây là một xứ sở cường thịnh. Giống như ngày hôm nay, có thể
nói trên thế giới, tại tất cả các quốc gia văn minh tiến bộ, quyền lợi của phụ
nữ đều được bảo vệ và phụ nữ đóng một vai trò quan trọng trong việc điều hành
và phát triển xã hội.
Về
Điều Kiện Thứ Sáu
: “ Bảo trì, tôn trọng, kính nể và làm vẻ
vang các tôn miếu của họ, dù ở trong hay ở ngòai tỉnh thành, và không sao lãng
những nghi lễ cổ truyền” Truyền thống
dân tộc không phải là một cái gì trừu tượng, khơi khơi, chỉ nằm trong sách vở
mà nó phải được nhìn thấy, cảm thấy, nhớ tới, tôn kính, bảo bọc, giữ gìn. Hai
chữ “tôn
miếu” mà Đức Phật dùng ở đây chính là Đình, Chùa, Lăng, Miếu và Văn Miếu. Nó là những biểu hiện sống động của văn hóa,
lịch sử, niềm tự hào hay khí phách của dân tộc. Khi mà Đền Thờ Quốc Tổ không
nhang khói, khi mà Đền Thờ Thánh Gióng, Thánh Trần, Hai Bà Trưng, Bà Triệu
hoang phế, khi Văn Miếu không được bảo bọc trùng tu, giới thiệu cho khách ngọai
quốc và thế hệ trẻ biết thì đất nước Đại Việt suy vong hoặc đang lâm vào vòng
nô lệ. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta bảo thủ. Hãy cứ thử nhìn
vào đất nước Hoa Kỳ mà xem. Nghĩa Trang Arlington tại Hoa Thịnh Đốn xây dựng
năm 1802 tức đã hơn 200 năm và có gì đâu mà sao được cả thế giới biết tới? Tôi
đã từng thăm viếng Nghĩa Trang Arlington và đã chứng kiến cảnh một đòan sinh
viên nam nữ Nhật Bản ăn mặc đồng phục xinh đẹp, xếp hàng để vào thăm viếng nghĩa
trang này. Tại sao vậy? Thực ra đây chỉ
là nơi chôn cất các chiến binh Hoa Kỳ tử trận hoặc các vị có công với đất nước
như tổng thống Kennedy chẳng hạn. Thế nhưng Nghĩa Trang Arlington lại được thiết
trí thành thắng cảnh, có viện bảo tàng, có phòng chiếu phim, có nơi tiếp đón và
hướng dẫn du khách. Để tạo cơ hội cho sinh nghiên cứu lịch sử, hầu như vào dịp
Nghỉ Hè, các em được nhà trường khắp các tiểu bang sắp xếp cho thăm viếng thắng
tích này. Và điểm quan trọng hơn nữa, mỗi năm vào Ngày Chiến Sĩ Trận Vong (Memorial Day) các Tổng Thống Hoa Kỳ đều
đến đây dự lễ và đọc diễn văn, dù bận bịu lắm cũng phải cử phó tổng thống.
Trong suốt nhiệm kỳ 4 năm, chỉ cần thiếu sót một lần thăm viếng Nghĩa Trang
Arlington, là báo chí và các sử gia đã ghi chép và đánh giá rồi. Cứ thử tưởng
tượng mình là nguyên thủ quốc gia- kiêm tổng chỉ huy tối cao quân đội - mà ngày
Lễ Chiến Sĩ Trận Vong lại không đến nghĩa trang anh hùng tử sĩ để nghiêng mình
kính cẩn thắp một nén nhang…thì tòan dân sẽ nghĩ thế nào? Thứ nữa, “không sao lãng các nghi lễ cổ truyền” là
gì? Ý Đức Phật muốn dạy gì đây? Xin thưa rằng mỗi quốc gia, mỗi bộ tộc đều có
những “nghi lễ cổ truyền”. Ngòai những
nghi lễ có tính cách gia đình như Lễ Gia Tiên, Lễ Cưới, đối với xã thôn, cộng đồng
còn có nghi lễ thờ phượng các bậc anh hùng dân tộc. Bên cạnh đó lại còn có những
Lễ trên qui mô quốc gia - chẳng hạn như Việt Nam dưới thời quân chủ có Lễ
Nam Giao do đích thân nhà vua chủ tế, không ngòai mục đích cầu cho mưa
thuận gió hòa, bá tánh an cư lạc nghiệp. Ngày nay ý nghĩa của Tế Nam Giao được
chuyển hóa thành Lễ Cầu Cho Quốc Thái Dân An do hằng trăm, có khi hằng ngàn chư
tăng/ni vân tập chí tâm cầu nguyện. Vì tuyệt đại đa số dân Việt không tôn thờ
Thần Giáo cho nên không thể nói đây chuyện mê tín dị đoan, cứ cầu nguyện van
vái rồi về nhà gác chân ngủ thì Thần và Mẹ Của Thần sẽ ban “quốc thái dân an” cho chúng ta. Chúng ta
thừa thông minh để hiểu rằng, bằng oai lực của Chư Phật, Chư Vị Bồ Tát, Tiên Hiền
Liệt Sĩ, bằng tâm nguyện chí thành của chư tăng ni, qua nghi lễ này, từ chính
quyền đến thứ dân, trăm họ sẽ cùng cảm thông, cùng chia xẻ vinh dự, trách nhiệm
và đóng góp hết sức mình vào - như là một Tổng Lực Của Quốc Gia để xây đắp sự
cường thịnh và thái hòa cho đất nước:
Thái
bình nghi nỗ lực
Vạn cổ
thử giang san
(Thượng Tướng Trần
Quang Khải)
Về
Điều Kiện Thứ Bảy
: “Bênh vực, và nhiệt thành ủng hộ các vị
A La Hán, khiến các vị nào chưa đến sẽ đến trong xứ và vị nào đã đến, được sống
an lành”. Hiển nhiên đây là vấn đề tâm linh và đạo đức của cộng đồng dân tộc.
Theo kinh điển Phật Giáo thì A La Hán (Arhat) là những vị đã đoạn trừ hết phiền
não và không còn bị nhiễm ô bởi trần cấu và dĩ nhiên các ngài “hiền như Bụt”. Các vị A La Hán theo Đức
Phật, xứng đáng thụ nhận đồ cúng dường của Phật tử. Tại các chùa, đặc biệt là
Trung Hoa và Việt Nam, ngòai việc thờ phượng các Đức Phật, còn thờ các vị Bồ
Tát và A La Hán, chẳng hạn Chùa Bái Đính ở Ninh Bình đã tạc 500 tượng A La Hán
bằng đá để tôn trí. Thời Đức Phật tại thế, rất nhiều vị đã chứng quả A La Hán.
Nhưng ngày nay, A La Hán có thể hiểu là các vị “chân tu, đạo hạnh” mà đức độ tỏa sáng thấy rõ qua ngôn ngữ, cử chỉ,
hành động và lối sống thanh tịnh, đạm bạc. Đức Phật dạy rằng chúng ta cần phải
“bênh vực và nhiệt tình ủng hộ” các vị
này. Đó là dấu hiệu của một đất nước có mẫu mực đạo đức cao, sống bằng thân ái
và nhường nhịn nhau qua Tứ Vô Lượng Tâm: Từ-Bi-Hỉ-Xả..
Kết Luận:
Mẩu đối
thọai trên đây đã giúp chúng ra rút được ba điều lý thú:
1)
Đây chỉ là một trong rất nhiều điều mà Đức Phật đã giảng dạy cho hàng đệ tử hoặc khuyên răn các hàng vua chúa, quý tộc, đại thần
là không nên gây chiến tranh để tổn hại sinh linh. Vì giáo pháp của Đức Phật là
giáo pháp hòa bình cho nên tự thân Đức Phật đã là sứ giả của hòa bình. Do đó
giáo đoàn hay tăng đoàn của Đức Phật là một giáo đòan (nay là Giáo Hội) hòa
bình. Tín đồ tuân thủ giáo pháp của Ngài luôn luôn là những kẻ yêu chuộng hòa
bình. Cho nên từ hơn 2500 năm nay, chúng ta không thấy bất cứ một giáo hội Phật
Giáo nào, ở bất cứ nơi đâu chủ trương gây chiến, xâm lược, chinh phạt hoặc
khích động chiến tranh để bành trướng hay lấy cớ bảo vệ Phật Giáo. Ngòai ra
cũng không hề có bất cứ một bộ tộc, một cộng đồng Phật Giáo nào đòi chia cắt đất
nước, ngưỡng vọng hoặc làm tay sai cho ngọai bang để phản lại đất nước mà mình
đang sinh sống, cho dù nơi đó họ là thiểu số và không được ưu đãi.
2)
Cũng qua mẩu đối thọai này, hiển nhiên việc quan đại thần Vassakara dẹp bỏ ý định gây chiến, khiến hai xứ Ma Kiệt Đà và
Vajjian tránh khỏi thảm họa, không phải do ý chỉ hoặc “phép mầu nhiệm” của Thần Linh mà do sự suy luận sáng suốt trước lời
giảng dạy của Đức Phật. Vậy thì bằng tình thương và trí tuệ, con người
có thể tránh được nạn đao binh từ đó sống trong tình huynh đệ. Cầu nguyện để
xin Thần Linh Tối Thượng ban hòa bình cho nhân lọai là ảo vọng tức hy vọng hão
huyền.
3)
Cũng qua cuộc vấn hỏi này, những ai không hiểu biết gì về Đức Phật và Phật Giáo
phải thấy rằng
Đạo
Phật không phải là đạo “ sống trên mây” mà Đạo Phật là đạo lấy
An Lành, Hạnh Phúc và Giải Thóat của chúng sinh là cứu cánh, bằng cớ là trong
cuộc giảng giải trên, Đức Phật nói toàn chuyện “luật pháp, lịch sử, xã hội, văn hóa” chứ Đức Phật có nói gì về Niết
Bàn, về Tây Phương Cực Lạc đâu? Vốn xuất thân là Đông Cung Thái Tử, theo đuổi
nghiệp kiếm cung từ thuở nhỏ, Đức Phật
dư biết rằng xứ Vajjian cũng có một quân đội hùng mạnh để bảo vệ đất nước,
nhưng Đức Phật lại là một vị lương y “tùy
bệnh cho thuốc”. Nói đến cái Giàu của một quốc gia không gì bằng
nói đến Trí Tuệ (chất xám) của dân tộc đó. Nói đến Sức Mạnh của một dân tộc
không gì bằng nói đến Ý Chí của dân tộc đó. Kẻ bài xích hoặc
không hiểu Phật Giáo giống như kẻ ngông cuồng tới chân núi Hy Mã Lạp Sơn, cầm một
cục đá về nhà rồi hô hóan lên rằng đã nắm cả Hy Mã Lạp Sơn trong tay.
Trải qua hơn 2500 năm, những lời giáo huấn
của Đức Phật cho quan đại thần Vassakara vẫn
còn là khuôn vàng thước ngọc để xây dựng một quốc gia cường thịnh và hòa bình,
cho dù thế giới ngày hôm nay con người đã đổ bộ lên mặt trăng, bước ra ngòai
không gian và thám hiểm Hỏa Tinh. Thật may mắn thay cho nhân lọai khi có một Bậc
Thầy Vĩ Đại giáng sinh tại hành tinh này./.
Đào Văn Bình
Tháng 6,
năm 2554 (Phật Lịch) tức năm 2010 (Tây Lịch)
(1)
Theo Chronicle of the World (Biên Niên Sử Thế Giới) xuất bản năm 1989
(2)
Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim
(3)
World Book, Volume 10 xuất bản năm 1994
(4)
World Book, Volume 8 xuất bản năm 1994 & Wikipedia tiếng Việt
(5)
Tài liệu trên Internet
(6)
Wikipedia tiếng Việt
(7)
Trích trong Đức Phật và Phật Pháp của Ngài Narada Maha Thera, Phạm Kim Khánh dịch từ Anh Ngữ sang Việt Ngữ
xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2545 (PL) tức năm 2001 (TL). Ngài Narada có đến Nam Việt
Nam sau Pháp Nạn 1963 và lưu lại nhiều ấn tượng và ảnh hưởng đối với tăng ni và
Phật tử Việt Nam.
(8)
Nền cộng hòa ở đây và trong giai đọan lịch sử này không có nghĩa tổng thống chế
do dân bầu như ngày nay - mà người dân Vajjina lúc đó có tiếng nói trong những
vấn đề của vương quốc.