“Bác Câu tôi hy sinh được 13 năm, tôi mới cất tiếng khóc chào đời. Nhưng
hình ảnh của bác, cuộc đời hoạt động cách mạng đầy chông gai và cả cái
chết đầy thương cảm của bác vẫn mãi sống trong tâm trí tôi qua lời kể
của bà, của cha. Tôi vẫn nhớ như in hồi còn nhỏ ở với bà, vào những đêm
trăng sáng, bà thường kể cho tôi nghe về bác Câu.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)Có
những chuyện, bà kể đi kể
lại nhiều lần như một niềm thôi thúc. Và lần nào cũng thế, câu chuyện
đều bị bỏ giữa chừng vì tiếng khóc tắc nghẹn của bà. Bà vừa nghẹn ngào
khóc, vừa xót xa kể lể: Bác Câu tôi từ lúc sống cho đến lúc chết, chưa
một ngày được an nhàn, sung sướng. Mới tẹo tuổi đầu đã phải lam làm suốt
ngày để giúp mẹ nuôi các em. Lớn lên đi theo cách mạng rồi biền biệt
không về. Rồi tù đày, bị đánh đập, tra tấn dã man. Đến lúc chết cũng cô
độc một mình trong tù. Mồ mả mất tích nơi nào chẳng ai rõ. Khổ thân bác,
không chồng con, chẳng ai hương khói. Tiếng khóc tắc nghẹn của bà khiến
tôi cũng sụt sùi khóc theo. Nghĩ mà thương bà, xót thương cho bác Câu
quá. Tôi an ủi bà: “Bà ơi! Bà đừng khóc nữa. Sau này lớn lên, cháu sẽ đi
tìm mộ bác Câu về cho bà”. Thế mà, cũng phải ngót 50 năm sau, lời hứa
ấy, tôi mới thực hiện được”. Câu chuyện về hành trình đi tìm mộ nữ liệt
sĩ Tạ Thị Câu được bắt đầu bằng những dòng hồi ức buồn, đầy tâm trạng
của ông Trần Toàn Thắng, con trai cả của tướng Trần Độ.
Di ảnh LS Tạ Thị Câu
Bà nội tôi sinh hạ được 4 người con. Cha
tôi, tướng Trần Độ (tên thật là Tạ Ngọc Phách – PV), thứ 3.
Chị thứ hai giáp cha tôi là bác Tạ Thị Câu. Cô Tạ Thị Xuyến là út. Ông
nội mất sớm, bà ở vậy, một nách nuôi 4 con. Bác Câu hơn cha tôi 4 tuổi,
thường đi buôn bán các chợ xa phụ giúp bà. Bác Câu yêu quý cha tôi lắm,
thường mua quà và kèm cặp cha học hành. Bác hay khoe với bạn bè về cha
với một niềm tự hào rất lớn. Ngay từ năm 17 tuổi, khi phong trào dân chủ
vừa nổ ra, bác đã tham gia hoạt động cách mạng. Cho đến năm 1939, bác
đã là Tỉnh uỷ viên tỉnh Thái Bình. Chính bác là người đã dìu dắt cha tôi
đến với cách mạng, trực tiếp thử thách, khuyến khích rồi giới thiệu cha
tôi vào Đảng. Năm 1940, ở làng tôi (thôn Thư Điền, xã Tây Giang, huyện
Tiền Hải, Thái Bình) nổ ra cuộc mít tinh ở cánh đồng Đông Lang. Bị lính
phủ và tuần phiên khủng bố đẫm máu, Bác Câu và cha tôi nửa đêm vượt cánh
đồng đi làm cách mạng chuyên nghiệp. Nghe đâu, bác làm việc cho xứ uỷ
Bắc Kỳ nhưng cụ thể làm gì thì tôi không được rõ.
Năm 1941, cha tôi bị giặc bắt, chịu án
15 năm tù rồi bị đày lên Sơn La. Cũng thời gian đó, bác Câu bị bắt. Giặc
giam bác ở nhà tù Hoả Lò cùng với nhiều chiến sĩ kiên trung, trong đó
có bác Nguyễn Thị Minh Thái (Vợ trước của Đại tướng Võ Nguyên Giáp), bác
Trương Thị Mỹ (sau là chủ tịch liên đoàn lao động Việt Nam) và bà
Nguyễn Thị Hằng (sau này lấy cha tôi). Trong suốt mấy năm trời, hai chị
em vẫn thường xuyên liên lạc thư từ. Và bác Câu, vẫn là người chị thảo
hiền, yêu em hết mực, thỉnh thoảng vẫn gửi quà và xé áo của mình khâu
những chiếc khăn gửi lên cho cha để chống trọi với cái giá lạnh miền sơn
cước. Thế rồi, năm 1944, trên đường bị giặc giải từ Sơn La về Hoả Lò
(Hà Nội) để đầy đi Côn Đảo, cha tôi được Chi bộ nhà tù tổ chức cho trốn
thoát. Từ đấy, hai chị em bặt tin nhau. Sau này, cha tôi nghe mọi người
kể lại, bác Câu bị ốm chết trong nhà tù Hoả Lò. Giấy báo tử của chính
quyền Pháp gửi cho bà nội tôi ghi: bác mất ngày 29 tháng 9 năm 1944. Cái
chết của bác khiến cả nhà khóc thương, nhất là cha tôi. Ông xót xa bảo:
Nếu bác Câu sống thêm mấy tháng nữa, bác sẽ được chứng kiến ngày cách
mạng thành công. Bác chết trẻ quá, 25 tuổi đầu, hình như trong đời chưa
một lần được yêu. Càng xót xa hơn khi không biết hài cốt bác giặc chôn ở
nơi nào?
Chưa kịp đi tìm mộ bác thì cả nước lại
bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, bụi trường chinh cuốn
cha đi. Thỉnh thoảng, cha về, cả nhà lại sụt sùi khóc nhớ thương bác.
Cha bảo: “Bác Câu bị ốm đau chết trong tù, chắc là Pháp chôn qua quýt ở
đâu đó. Rất có thể là ở khu vực trường bắn của Pháp ở Hoàng Mai, nơi bác
Hoàng Văn Thụ bị bắn”. Sau này, vào đầu những năm 90 của thế kỷ 20, khi
những thông tin về việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ của các nhà ngoại cảm
Việt Nam đăng rầm rộ trên các báo, đài, nhất là khi được nghe Giáo sư
Trần Phương kể tường tận hành trình đi tìm mộ người em gái vốn là đội
trưởng đội nữ du kích Hoàng Ngân, cha tôi và cả gia đình mới loé lên hy
vọng tìm thấy mộ bác Câu. Tôi nhớ, khoảng năm 1997, qua một người quen
giới thiệu, cha tôi đã liên lạc được với nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên,
người đang nổi tiếng với việc chỉ dẫn tìm kiếm hàng ngàn hài cốt liệt
sĩ. Qua điện thoại, cha tôi nói: “Tôi có một người chị gái bị tù ở Hoả
Lò rồi ốm chết trước cách mạng tháng Tám. Không biết bây giờ mộ ở đâu?”.
Anh Liên bảo: “Còn mộ đấy, có thể tìm được. Ông đứng trước cửa Hoả Lò,
chiếu thẳng về hướng Nam, cách khoảng 2 km, mộ sẽ nằm ở đó. Nhưng tôi sợ
bây giờ nhà cửa của dân xây san sát như thế, mộ nằm phía dưới sẽ rất
khó tìm đấy”. Cha tôi đối chiếu bản đồ, thấy rõ khu vực ông Liên chỉ là
vùng Bạch Mai, Hoàng Mai bây giờ. Cha tôi sực nhớ đến thiếu tướng Chu
Phác, người đồng đội cũ, hiện là Chủ nhiệm bộ môn Cận tâm lý (Trung tâm
nghiên cứu tiềm năng con người).
Thiếu tướng Chu Phác
Ông quen biết khá nhiều nhà ngoại cảm
nổi tiếng như Nguyễn Văn Liên, Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Khắc Bảy, Thẩm
Thuý Hoàn, Dương Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Thị Phương. Cha tôi
liền tìm đến thiếu tướng nhờ giúp đỡ. Ông vui vẻ nhận lời và lên kế
hoạch tìm mộ gồm 2 bước:
Bước một, nhờ một số nhà ngoại cảm, hoạt
động độc lập, bằng khả năng đặc biệt, rất riêng của mình, thu nhận
thông tin về bác Câu. Sau đó, sẽ đối chiếu các thông tin ấy với nhau,
tìm ra một đáp số chung nhất.
Bước hai, từ đáp số chung ấy sẽ tiến
hành làm các thủ tục khai quật. Khi khai quật vẫn phải có sự tham gia
của các nhà ngoại cảm trực tiếp hoặc gián tiếp (qua điện thoại), theo
dõi, hướng dẫn và điều chỉnh cho đến khi tìm được hài cốt.
Ngày 4 tháng 8 năm 2000, thiếu tướng Chu
Phác cùng nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy đến nhà tôi ở Trần Hưng Đạo (Hà
Nội). Anh Bảy ngồi đối diện với cha tôi, chăm chú nhìn vào trán ông,
miệng hỏi, tay vẽ sơ đồ. Anh Bảy cho biết: Mộ bác Câu tôi hiện vẫn còn,
nằm gần mộ ông Hoàng Văn Thụ, trong vùng bãi bắn Hoàng Mai. Mộ bác ở
cạnh một vũng nước, trong khu vực có nhiều mộ. Có những bộ hài cốt đã
chuyển đi. Khu vực này có những công trình kiến trúc lớn như đình, chùa,
trường học, xưởng máy. Đường xá vào đó khá ngoằn ngoèo.
Ngày 25 tháng 11 năm 2000, thiếu tướng
Chu Phác lại dẫn một nhà ngoại cảm khác là Nguyễn Mạnh Hùng đến gặp cha
tôi.
Nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng
Anh Hùng sinh ngày 15 tháng 6 năm 1959
trong một gia đình làm nghề đông y lâu đời ở 35 phố Lãn Ông, quận Hoàn
Kiếm (Hà Nội). Anh đã từng tốt nghiệp trường trung cấp y học Tuệ Tĩnh,
có tay nghề bốc thuốc. Được ông cha truyền thủ thuật bắt mạch bệnh nhân,
đặc biệt là bắt mạch thái tố, Dương Mạnh Hùng thấy dần hình thành trong
mình khả năng ngoại cảm. Qua việc đặt 3 ngón tay lên mạch ở cổ tay đối
tượng, Hùng có thể thấy một phần quá khứ, hiện tại và tương lai của họ,
thấy một số điều về tổ tiên, cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái, thấy địa
hình, địa vật nơi mồ mả cần tìm
Với cha tôi, anh cũng làm vậy. Bắt
mạch thái tố cho cha tôi, anh hỏi: “Trong nhà bác có người phụ nữ nào
chết từ lúc còn rất trẻ không?”. Cha tôi trả lời: “Có anh ạ! Đó là bà
chị tôi. Hiện tôi đang muốn tìm mộ chị ấy”. Cha tôi vừa nói dứt lời, anh
Hùng đã nhìn xoáy vào góc phòng, miệng lẩm bẩm: “Đã xuất hiện rồi”. Cha
tôi sốt sắng hỏi: “Anh nói cái gì. Ai xuất hiện cơ ạ?”. Anh Hùng vẫn
khẽ khàng: “Chị gái bác ấy”. Nói đoạn, anh bảo cha tôi đưa cho tờ giấy
trắng và cái bút rồi phác thảo ngay một khuôn mặt phụ nữ. Cha tôi nhìn,
giật mình thấy khuôn mặt trong giấy giống chị Câu như đúc. Từ đấy, anh
Hùng cứ nắm chặt lấy cổ tay cha tôi, mắt nhìn chăm chú vào góc phòng và
bắt đầu trò chuyện. Cha tôi muốn rút tay ra nhưng anh Hùng bảo: “Cháu
rời tay bác ra là bà ấy biến mất ngay”. Anh Hùng cứ thủ thỉ trò chuyện
như thể bác Câu tôi đang đứng ngay trước mặt anh. Cuộc nói chuyện khá
dài, tôi không nhớ hết. Tóm tắt những thông tin thu được là: Bà Câu là
một người con gái trẻ đẹp, to cao, bị ốm phù nề rồi chết. Mộ bây giờ ở
một nơi giống bãi tha ma. Muốn đi tới đó, phải qua những con đường
ngoằn ngoèo có tên là Bạch Mai, Trương Định, Hoàng Mai. Mộ ở gần một
ngôi chùa và đình, gần một hàng nước mà ông chủ hàng là một ông già độ
60 tuổi tên Trúc có bà vợ tên Thu. Vong bà Câu hay về nhà ông Trúc. Dân
quanh vùng làm nghề đậu phụ, gần một cái chợ. Gần mộ bà Câu có một cây
hoa râm bụt đỏ, một cây hoa trinh nữ trắng, cạnh một bãi phẳng như sân
bóng. Bà Câu chết vào năm Giáp Thân (1944), vào mùa thu, tháng 8, đêm 26
rạng ngày 27 âm lịch. Cứ như trí nhớ của mẹ tôi (bà Nguyễn Thị Hằng
– PV), người đã ở tù cùng bác Câu thì một buổi sáng, mẹ đến làm vệ
sinh cho bác đã thấy bác nằm chết cứng. Có thể, bác chết lúc gần sáng.
Bác chết năm trước thì năm sau Nhật đảo chính Pháp. Vì thế, mẹ cứ tiếc
bác Câu tôi không sống thêm mấy tháng để trốn khỏi nhà tù. Năm sau là
năm 1945, vậy năm trước đúng là năm 1944 (Giáp Thân).
Anh Hùng cho biết thêm: Hài cốt của bác
Câu còn có một chứng tích, đó là hàm răng đen của bác bị gãy mất một
cái. Bác đồng ý cho gia đình tôi bốc hài cốt bác đưa về quê. Anh Hùng
hai lần hỏi bác câu này và cả hai lần, bác Câu gật đầu.
Trong suốt hai ngày, 26 và 27 tháng 11
năm 2000, thiếu tướng Chu Phác đã đưa 3 nhà ngoại cảm là Nguyễn Khắc
Bảy, Dương Mạnh Hùng và Thẩm Thuý Hoàn đi thực địa. Họ đến làng Hoàng
Mai, tìm đến chùa Nga My và ngôi đình làng, nơi thờ tướng quân Trần Khát
Chân, ra khu vực nghi ngờ có mộ bác Câu tôi. Điều kỳ lạ là tất cả những
gì hiện hữu trước mặt lúc ấy đều trùng khớp với những thông tin mà các
nhà ngoại cảm cung cấp từ trước. Đình, chùa, bãi đất phẳng như sân bóng,
một khu đất trống rộng chừng mấy chục m2 có rất nhiều mộ. Mộ bác Câu
tôi nằm bên cạnh một vũng nước, cách cây hoa đại trắng chừng 3-4m. Cây
đại cao hơn bức tường bao quanh, cạnh một bụi cỏ khô mọc trên một chiếc
thùng phuy đã hoen rỉ. Mộ chỉ là một mô đất cao độ 10 -20 cm, bên cạnh
con đường xi măng nhỏ, phía sau đình và gần chùa. Nhà ngoại cảm Thẩm
Thuý Hoàn còn cung cấp thêm thông tin: mộ bác Câu nằm chếch, đầu gối vào
cột trụ, bị cột trụ đè lên một ít, chân hướng về phía đường đi.
Cũng trong ngày 26 tháng 11, nhà ngoại
cảm Phan Thị Bích Hằng đã có cuộc gọi hồn bác Câu tôi tại văn phòng của
Bộ môn cận tâm lý ở 46 Nguyễn Văn Ngọc (Hà Nội). Thông tin Bích Hằng
nhận được là: Đến làng Hoàng Mai hỏi chùa Nga My, cách một khu vườn vài
chục mét. Mộ nằm ở nơi đất bằng phẳng, cạnh gốc cây chuối gần chùa Nga
My và đền thờ Trần Khát Chân. Có cây hoa đại, mộ nhìn lên hàng rào dây
thép gai ở đầu nhà dân. Bác Câu mặt bị sưng to và nằm nghiêng, sâu độ 70
-90cm. Mộ không có tiểu, khi đào phải cẩn thận.
Như vậy, các thông tin mà các nhà ngoại
cảm thu nhận được về phần mộ bác Câu tôi khá đầy đủ, chi tiết. Điều đặc
biệt là tuy các nhà ngoại cảm làm việc độc lập với nhau song các tín
hiệu đưa ra có nhiều điểm trùng hợp. Điều đó khiến cả nhà tôi vui mừng
và tràn đầy hy vọng, nhất là cha tôi. Ngày 13 tháng 12 năm 2000, cha tôi
điện thoại vào thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu tôi thu xếp công việc ra
Hà Nội để thay cha tìm mộ bác. Cha tôi lúc này đã 78 tuổi, lại đang vào
giai đoạn cuối của bệnh tiểu đường nên sức khoẻ sa sút trầm trọng. Tôi
là con trưởng, lại sẵn tình cảm xót thương bác Câu nên nhanh chóng sắp
xếp hành lý ra Hà Nội ngay. Trước khi lên máy bay, thiếu tướng Chu Phác
có điện thoại cho tôi, yêu cầu tôi liên lạc với nhà ngoại cảm Nguyễn Văn
Nhã ở thành phố Hồ Chí Minh.
Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã
Qua điện thoại, anh Nhã cung cấp thông
tin:
- Vị trí mộ đúng như các nhà
ngoại cảm ở Hà Nội đã xác định.
- Cách mộ hơn 3m về phía tây
có một cây hoa đại trắng cao hơn 3m.
- Cách mộ chừng 1,5m có bụi cỏ
khô cao hơn 1m.
- Trên mộ có 3 mảnh thuỷ tinh
hoặc sành lấp lánh.
- Mộ gần vũng nước.
- Năm ngày nữa anh đến, cách
mộ mấy mét có con gà trống kiếm ăn ở đó.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)