Trước
vấn đề này, Phật giáo vốn tin tưởng vào thuyết tái sanh, luân hồi, cho
rằng tất cả các loài chúng sanh luôn quanh quẩn trong vòng luân hồi sinh
tử (samsâra), và được tái sinh qua bốn cách thế khác nhau: noãn sinh -
andaja, tức là sự sanh ra từ trứng; thai sinh - jatâbuja, tức là sanh ra
từ bào thai của người mẹ; thấp sinh - samsedja, tức là sanh ra từ sự
ẩm thấp hay từ rịn rỉ của các thành tố, đất, nước v.v... ; và hóa sinh -
oppâtika, tức là do hóa hiện mà sanh ra, không phải trải qua các giai
đoạn phôi thai; những con người đầu tiên là những chúng sanh thuộc loại
hoá sinh này.
Cho dù khoa học ngày càng tiến bộ, đặc biệt là trên
lãnh vực Sinh học với sự khám phá DNA, đã giải mả một số bí mật trong
lãnh vực Di truyền học, cùng với những nghiên cứu sâu rộng về tế bào mầm
và kỹ thuật nhân giống (cloning), câu hỏi về nguồn gốc con người cho
đến nay vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Tuy nhiên một điều mà chắc
hẵn mọi người đều đồng ý với nhau là, con người được sinh ra đời do kết
quả của sự thụ tinh, từ đó phôi bào được hình thành, nuôi dưỡng và nảy
nở trong tử cung của người mẹ trong một khoảng thời gian nào đó trước
khi chào đời. Chúng ta tạm thời bắt đầu từ khởi điểm này, bởi vì từ điểm
cốt lỏi này, nhân loại hôm nay đang đối diện với một vấn đề bao trùm
trên khắp các mặt lương tâm, đạo đức, luân lý, và xã hội, một vấn đề
hiện vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi và đôi khi dẫn đến đổ máu: Phôi bào
có thể xem như là một con người? Nếu quan niệm phôi bào là một con người
tại sao luật pháp của các xã hội lại chấp nhận chuyện phá thai, không
xem đó là một tội ác sát nhân? Để ngăn ngừa tình trạng nhân mãn, trên
thế giới - đặc biệt là tại các quốc gia hiện đang bị đe dọa bởi nạn nhân
mãn như Trung quốc, Nhật Bản, Việt Nam,...- hàng năm đã có đến hàng
triệu sinh mạng bị bóp chết ngay từ khi còn là một phôi bào. Như vậy,
đạo đức Phật giáo quan niệm như thế nào về vấn đề này?
Quan Điểm của Phật Giáo Về Ngừa Thai, Phá Thai, Tái
Sanh và Luân Hồi.
Trong dịp Đức Đạt Lai Lạt Ma viếng thăm Âu Châu hồi gần đây, khi
tiếp xúc với những nhà trí thức phương Tây, một số nhà khoa học Pháp đã
nêu lên câu hỏi: "Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài tin rằng vào thời điểm
nào trong quá trình thụ thai của sinh vật bắt đầu hàm chứa những hạt
mầm tinh thần hay dấu hiệu thiêng liêng của sự sống?"
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời rằng:
"Phật giáo quan niệm rằng ý thức xâm nhập vào sinh vật ngay từ phút
giây đầu tiên của sự thụ thai, bởi lẽ đó mà phôi bào vẫn được coi như
là một sinh vật. Cho nên chúng tôi xem hành động phá thai cũng giống như
việc cướp đi sự sống của một con người và dĩ nhiên đây không phải là
một việc làm chánh đáng. (1)
Quan niệm này đã được Ngài khẳng định
lại một lần nữa khi người ta nêu lên câu hỏi về vấn đề kiểm soát dân số:
Thưa Ngài, quan niệm của Ngài như thế nào về việc kiểm soát sinh
sản và Ngài có ý kiến gì về việc phá thai?
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời như sau:
"Để trả lời cho câu hỏi này tôi thường giải thích
theo quan điểm của người Phật tử vốn quan niệm rằng đời sống của tất cả
mọi loài chúng sanh, kể cả côn trùng sâu bọ và đặc biệt là con người,
đều rất qúy giá. Nếu nhìn vấn đề như thế thì tất cả mọi hình thứckiểm
soát sinh sản đều cần phải được ngăn cấm. Tuy nhiên những sinh mạng qúy
giá đó nay đã đạt đến một số lượng đáng kể, thế nên chúng ta không thể
không khẩn thiết kêu gọi mọi người phải quan tâm đến vấn đề hạn chế sinh
sản một cách nghiêm túc, vì đó là phương cách duy nhất để hạn chế tình
trạng gia tăng dân số. Như tôi đã từng đề cập, khi mà tài nguyên của
trái đất đang khô kiệt dần, tôi chấp nhận chuyện hạn chế sinh sản một
cách bất bạo động.
Còn phá thai là một chuyện khác, đó là một hành
động sát nhân. Truyền thống Giới Luật Phật giáo chỉ rõ rằng ta không
được giết hại con người, cho dù đó là một bào thai. (2)
Những phát biểu của Đức Đạt Lai Lạt Ma khi trả lời cuộc
phỏng vấn nói trên, xem phôi bào như là một con người, đã phản ảnh một
cách khá đầy đủ và đúng đắn quan điểm chính thức của Phật giáo đối với
các vấn đề xã hội liên quan đến ngừa thai và phá thai. Nếu như khoa sinh
vật học ngày nay đã chứng minh rằng phôi bào là sự kết hợp của hai
thành tố, tinh trùng của người đàn ông và noãn châu của người đàn bà thì
trong rất nhiều kinh điển Phật giáo, hình thức thai sanh-sanh ra từ bào
thai của người mẹ- đã từng được đề cập đến, có thể tóm tắt như sau :
"Chúng sanh đầu thai này (Gandhabha), kẻ mang tâm thức, nhân cơ hội giao
phối giữa một nam và một nữ, nhập vào cái phôi thai được hình thành qua
sự giao phối ấy." Như vậy, để một sự sống có thể được hình thành, trước
tiên phải có một "chúng sanh đầu thai ", thế nên ngoài hai yếu tố tinh
trùng và noãn châu, theo Phật giáo còn có một yếu tố quan trọng thứ ba,
đó là cái thức tái sanh (patisandhivinnâna), hay theo cách gọi của Đức
Đạt Lai Lạt Ma ở trên, một cái ý thức, xuất hiện ngay chính vào lúc thụ
thai.
Cái thức tái sanh này là gì và từ đâu ra, tại sao lại đợi đến
lúc thụ tinh mới xuất hiện? Theo quan điểm của Phật giáo, đặc biệt là
trường phái Duy Thức học, cái ý thức này còn được mang một cái tên khác
là A Lại Da Thức, hay Tàng Thức. Tàng thức như tên gọi của nó qua suốt
một đời người đã tích lũy, dồn chứa -tức là huân tập- một số lớn chủng
tử (bija), cùng kết hợp với những chủng tữ được tích lũy từ các đời
trước tạo thành một yếu tố tâm vật lý dưới dạng năng lực. Dạng năng lực
này Phật giáo gọi là nghiệp lực trong đó một số chủng tử khi hội đủ các
yếu tố trợ duyên, và được thúc đẩy bởi lòng khát ái (tanha), tức là lòng
khao khát được hiện hữu đã làm sinh khởi, hình thành nên một đời sống
mới của chúng sinh. Như vậy, chính nghiệp hay nghiệp lực là sức đẩy
chính cho cái mầm chúng sanh đầu thai này đi tái sanh, hay nói một cách
cụ thể hơn, khi những điều kiện di truyền được thể hiện trong hoàn cảnh
thuận tiện, một hình thức tâm vật lý xâm nhập vào, và qua đó sự sống
được tiếp nối. Tiến trình này đã được đức Phật thuyết giảng trong bộ
Trung Bộ Kinh (MAJJHIMA NIKAYA,) phẩm AHATANHAKHAYA, số 38, tóm tắt như
sau: Ở nơi nào ba thành tố nguyên thủy được cấu tạo chung thì mầm sống
được gieo trồng nơi ấy. Trong sự giao hợp của cha mẹ, nếu không nhằm lúc
thọ thai của người mẹ, và không có chúng sanh đầu thai, thì mầm sống
không thể gieo trồng được. Nếu nhằm lúc thọ thai của người mẹ mà không
có chúng sanh đầu thai thì mầm sống cũng không gieo trồng được. Nếu nhằm
lúc thọ thai của người mẹ và chúng sanh đi đầu thai cũng có mặt trong
lúc giao hợp, nếu hội đủ ba nhân: tinh-trùng, noãn bào và thức, thì mầm
sống được gieo trồng: "Này các Tỳ-kheo, nơi nào có ba thành tố ấy hợp
lại thì tại nơi đó một mầm sống được gieo".
Trong ba thành tố này, thức đóng một vai trò rất quan trọng nếu
không nói là chủ yếu trong tiến trình đầu thai. Cuộc đối thoại sau đây
giữa Đức Phật và Ngài A-nan đã làm nổi bật tính cách quan trọng này:
Này A-nan, nếu cái thức này không giáng nhập vào bụng người mẹ thì
tâm và thân có hình thành trong bụng người mẹ không?
Bạch Thế Tôn,
không.
Này A-nan, nếu thức ấy, sau khi đã giáng nhập vào bụng người
mẹ mà lại bỏ chỗ này đi thì tâm và thức có tạo thành cái này hay cái nọ
không?
Bạch Thế Tôn, không.
Này A-nan, còn nếu cái thức này đang
ở trong một bé trai hay một bé gái khi mà các em này còn nhỏ, lại biến
mất đi thì tâm và thân có tăng trưởng, phát triển và lớn lên không?
Bạch
Thế Tôn, không. -- (Dn,II,63)
Với Phật giáo Tây Tạng, cái thức này
còn được gọi dưới một tên khác là thần thức. Thần thức chính là một
tổng hợp của tất cả năng lực, ý chí, khát vọng của một con người trải
qua nhiều kiếp sống, và khi cái xác thân hiện tại mà nó nương náu đi vào
chu kỳ hoại diệt thì lìa bỏ đi tìm một xác thân mới để đầu thai. Cuốn
"Tạng Thư Sống Chết của người Tây Tạng" đã mô tả một cách khá chi tiết
về tiến trình lựa chọn tử cung của thần thức trong giai đoạn thân trung
ấm, còn được gọi là giai đoạn quá độ trước khi tái sanh, xảy ra trong
vòng 49 ngày sau khi ta chết. Trong giai đoạn này, có những chúng sinh
do vì nghiệp ác sâu dày, đã không vãng sanh đến được những cảnh giới tốt
đẹp sau khi lìa đời, thần thức của họ sẽ phải lang thang đi tìm nơi
chốn để đầu thai. Lúc này, do duyên may, nếu có một vị thầy với đạo lực
vững chắc ở bên cạnh, hướng dẫn thực hiện năm phương pháp được gọi là
đóng cửa tử cung, cũng có thể giúp cho thần thức một cơ hội cuối cùng để
từ chối sự tái sanh. Nếu nỗ lực này thất bại vì có nhiều hạng người do
nghiệp lực quá mạnh mẽ, đen tối và cũng vì trong quá khứ họ là những kẻ
bất lương, đã không làm được những hành động tốt nên không thể đóng được
cửa tử cung, thế nên họ đành phải chọn lựa cửa tử cung để tái sanh trở
lại.
Tái sanh trở lại có nghĩa là thần thức của người chết sẽ đi vào
một trong sáu cõi luân hồi: Trời, người, a-tu-la, súc sanh, ngạ qủy,
hay địa ngục. Lúc này, cũng theo cuốn Tạng Thư Sống Chết mô tả, các cảnh
giới tái sanh sẽ xuất hiện. Thần thức của người chết có thể trông thấy
một hồ nước, trên đó đang nổi trôi các con thiên nga đực và cái, hoặc là
một hồ nước với những con ngựa đực và cái, hay là những bầy súc vật
đang gặm cỏ trên bờ hồ, có những cây lớn chung quanh. Tạng Thư Sống Chết
cảnh cáo rằng đây là những đại lục không tốt đẹp, vì thiếu vắng tôn
giáo, thần thức không nên bước vào.
Cũng trong lúc này, những ai phải sinh làm A Tu La
thì sẽ thấy, hoặc là một khu rừng tốt đẹp, hoặc là những vòng tròn lửa
xoay ngược chiều nhau. Kẻ nào phải sinh làm súc sanh, sẽ thấy những hang
đá, những lỗ sâu trong đất. Kẻ nào phải sinh làm ngạ qủy sẽ thấy những
đồng bằng hiu quạnh, trống trơn, những hang động ít sâu, những rừng thưa
trong rừng cấm, những vùng đất đầy rừng. Vào đó, sinh làm ngạ quỷ, sẽ
phải chịu đói rét và đau khổ. Còn những người nào phải thác sinh vào cỏi
địa ngục, sẽ nghe những tiếng như những lời than vãn và sẽ bị lôi kéo
vào một cách không cưỡng lại được. Sẽ hiện ra những khoảng tối mù mịt,
những nhà đen và trắng, những lỗ đen ngòm trong đất, những con đường tối
om mà người ta sẽ phải đi theo. Vào đó tức là vào cảnh giới địa ngục,
người ta sẽ phải đau khổ vì quá nóng hoặc quá lạnh và phải chịu đựng lâu
dài khó thoát ra được.
Chỉ có hai cảnh giới mà thần thức cần lưu ý để bước vào: Cảnh giới
loài người với những nhà cửa lớn, đẹp và cảnh giới của cõi trời với
những đền đài xinh đẹp, xây dựng bằng kim loại qúy hiện ra. (3)
Đến đây một câu hỏi sẽ được đặt ra: Lý do nào khiến thần thức khó
có thể lựa chọn được cảnh giới tái sanh tốt đẹp theo ý muốn trong lúc
này? Cuốn Tạng Thư Sống Chết giải thích: "Bấy giờ những cảnh cuồng nộ sẽ
hiện ra trước mắt, những kẻ hung ác như muốn đòi mạng sẽ lôi kéo dẫn
đường, những bóng tối, gió dữ, những tiếng động kinh khủng, bảo tuyết và
những cơn mưa đá, giông tố kinh hồn, những luồng gió rét buốt tận xương
xảy đến làm thần thức sợ hãi khởi lên ý tưởng trốn chạy, tìm chỗ ẩn
nấp. Họ tìm vào trong các nhà cửa, hang đá, lỗ đất đào, cánh rừng,...
(như đã miêu tả ở trên) để ẩn trốn. Núp ở đây người ta thoát khỏi sự sợ
hãi dày vò và không muốn rời xa chỗ đó vì nghĩ rằng "Ra khỏi đây bây giờ
là không tốt." Chỗ đang ẩn trốn mà thần thức nghĩ là an toàn đó, chính
là tử cung của người mẹ." (4)
Như vậy, do nghiệp dẫn dắt mà sinh ra thọ, để từ đó có thọ mạng và
rồi theo luật thành, trụ, hoại, không những đời sống cứ tiếp nối mãi
không ngừng như những lượn sóng của một đại dương. Sự liên tục tiếp nối
mãi của sống chết, chết sống do nguồn năng lực của mỗi cá nhân tác động
lên, được gọi là Luân-Hồi (samsàra).
Nhân Quả, Nghiệp Báo và Luân Hồi.
Thật ra lý thuyết về luân hồi tái sanh không phải
là riêng của Phật giáo. Đây là gia sản tinh thần chung của cả nhân loại
được kết tập lại qua hàng bao thế kỷ, Đức Phật chỉ là người với tuệ giác
của mình đã lý giải vấn đề một cách rõ ràng sáng tỏ, chỉ rõ ra cho nhân
sinh những điểm còn mê mờ vướng mắc, đặc biệt là một số tà kiến, hiểu
biết sai lầm về nhân quả lưu hành trước đó và đương thời. Lúc bấy giờ
người ta đã hiểu, quan niệm về luật nhân quả một cách đơn giản, hời hợt,
và đôi khi cực đoan, chẳng hạn như cho rằng hễ gieo nhân nào thì gặt
quả nấy, "trồng dưa hái dưa, trồng đậu hái đậu", không thể nào tránh
khỏi. Nhận thức này có một tác dụng tâm lý là tạo nên sự sợ hãi ở tín đồ
khiến họ làm lành lánh dữ với hy vọng được hưởng phước báu trong đời
này hoặc đời sau, tuy nhiên lại làm nảy sinh ra một thái độ tiêu cực là
con ngưòi sẽ thờ ơ, dửng dưng trước bất công xã hội và khổ đau của đồng
loại. Người ta sẽ cho rằng, những kẻ làm ác nay phải gánh chịu hậu quả
là đúng rồi, đâu có gì để họ phải than vãn, và như vậy tại sao ta phải
bày tỏ sự quan tâm đến họ làm gì? Quan niệm như thế rõ ràng là đã phản
lại tinh thần từ bi, không nắm vững đạo lý nhân quả theo quan điểm của
Phật giáo. Bởi vì nếu hiểu theo tinh thần này thì những nỗ lực cá nhân
nhằm thay đổi nghiệp quả trở nên phù phiếm, việc tu hành trở nên vô ích,
và như vậy trong kinh sách Phật giáo còn được lưu truyền lại, làm gì có
chuyện tướng cướp Vô Não phạm những tội ác đại nghịch, kể cả âm mưu
định giết mẹ, chỉ một phút buông dao đã trở thành Bồ Tát, đắc quả
A-la-hán ngay trong hiện kiếp?
Trên một khía cạnh nào đó thì luân hồi là hệ quả của luật nhân quả,
thế nên muốn hiểu đúng luân hồi trước tiên phải hiểu đúng luật nhân
quả. Theo quan điểm Phật giáo, luật nhân quả tựu trung bao hàm hai hệ
thống được đan chồng vào nhau:
Đẳng lưu nhân quả: Tất cả vạn pháp hiện hành đều do những chủng tử
của nó sinh khởi ra.
Dị thục nhân quả: Sự sống hiện hành là do
nghiệp lực hiện khởi, vui là do nghiệp lực thiện, khổ là do nghiệp lực
ác.
Nghiệp quả và luân hồi như vậy đã gắn bó chặt chẽ với nhau và
trở thành một bộ phận quan trọng trong giáo lý của đạo Phật, một phần
giúp lý giải sự hiện hữu của vạn pháp, mặt khác hình thành một nhân sinh
quan đặc thù Phật giáo.
Thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện
Kiều nổi tiếng đã từng cất lên một tiếng thở dài:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách
hẵn trời gần, trời xa.
Thế nên cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều
như đã được sắp sẵn, khó có thể cưỡng chống:
Ma đưa lối, qủy dẫn
đường,
Cứ tìm những lối đoạn trường mà đi!
Nghiệp là cái gì mà
theo cách nói của thi hào Nguyễn Du có vẻ như chi phối hoàn toàn định
mệnh của một con người như thế? Phải chăng tất cả những gì của chúng ta
hôm nay đều là kết quả hành động của chúng ta từ bao nhiêu kiếp trước,
và nó được an bài chi li cụ thể đến độ "nhất ẩm, nhất trác giai do tiền
định" ? Thuở Đức Phật còn tại thế, có một chàng thanh niên tên Sudha,
cũng đã mang những thắc mắc như chúng ta hôm nay và tìm đến bạch Phật
rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn, vì lý do nào và nguyên nhân nào trong đời
có người yểu và có người thọ , người bệnh hoạn và người khoẻ mạnh ,
người xấu xa và người đẹp đẽ , có hạng người làm gì cũng không ai làm
theo, nói chi cũng không ai nghe và hạng người có thế lực, làm gì cũng
có người theo, nói chi cũng có người nghe, có người nghèo khổ và người
giàu sang, có người sanh trưởng trong gia đình bần tiện và có người dòng
dõi cao sang, có người ngu dốt và có người trí tuệ? "
Đức Phật đã
trả lời vắn tắt như sau:
"Tất cả chúng sanh đều mang theo cái Nghiệp
(Kamma) của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí
thân, như chỗ nương tựa. Chính vì cái nghiệp riêng của mỗi người mỗi
khác nên mới có cảnh dị đồng giữa chúng sanh.(5)
Cái dị đồng này
chính là quả báo tức là kết quả của các hành động và khuynh hướng của
chúng ta trong quá khứ và trong hiện tại, tức là do nghiệp tạo ra. Như
vậy, nghiệp là gì, đóng vai trò như thế nào trong tiến trình đầu thai,
tái sanh của chúng sinh?
Nghiệp nguyên ngữ tiếng Phạn là Karma, P?li
là Kamma và Trung quốc phiên âm thành Yết-ma, theo đúng nghĩa của danh
từ, là hành động, hay việc làm, tức là hành vi tạo tác, là những gì đã
tạo ra do tác dụng của ý chí v.v... Định nghĩa rốt ráo nhất của Nghiệp
là Tác ý (cetana). Tư tưởng, lời nói, việc làm, thường khởi xuất là do
"ý muốn làm" tạo nên động cơ. Phật Giáo gọi ý muốn làm ấy là Tác ý
(cetana). Tất cả những hành động có tác ý, dầu biểu hiện bằng thân,
khẩu, hay ý, đều tạo Nghiệp. Tất cả những hành động có tác ý, thiện hay
bất thiện, đều tạo Nghiệp. Theo định nghĩa này thì những hành động không
có chủ tâm, mặc dầu đã biểu hiện bằng lời nói hay việc làm, đều không
tạo Nghiệp. Đó là nội dung lời dạy của Đức Phật: "Nầy hỡi các Tỳ Khưu,
Như Lai xác nhận rằng chính Tác ý là Nghiệp. Do có ý muốn mới có hành
động, bằng thân, khẩu hay ý. (6) Từ Tác ý phát sinh ra hành động được
thể hiện qua thân xác, lời nói và ý tưởng, thế nên, Nghiệp bao gồm Thân
Nghiệp, Khẩu Nghiệp và YÙ Nghiệp trong đó YÙ Nghiệp đóng vai trò trội
bật vì như đã nói, Tác ý chính là Nghiệp. Một cách cụ thể, tất cả những
tác nhân trong hiện tại đều được chỉ đạo bởi ý chí phát sinh ra trong
tâm thức, hay những tác động tâm ý khiến cho thân và miệng làm theo ý
chí sai khiến, cho nên trong Kinh Trung A-hàm 32, Đức Phật đã khẳng định
điều đó một cách rõ ràng: "Trong ba nghiệp thân, khẩu và, ý thì ý
nghiệp là tối quan trọng." (7)
Khi ta liệng một hòn đá vào cửa kính, cửa kính sẽ bị vỡ để lại một
cái lỗ hỗng. Lỗ hỗng lớn hay nhỏ là tùy thuộc vào viên đá mà ta ném lớn
hay nhỏ. Đây là một thí dụ đơn giản nhất về luật nhân quả trong đó nhân
là hành động ném đá và quả là lỗ hỗng ở trên cửa kính. Trong quá trình
tạo nghiệp, theo định luật tự nhiên, tất cả các tác nhân đều đưa đến kết
quả. Quả, theo điều kiện nhân duyên sẽ được chín mùi vào một thời điểm
nào đó ở ngay trong hiện kiếp hoặc các kiếp tương lai. Quả báo như vậy
luôn luôn tương ứng với tác nhân đã tạo ra, không thể nào tránh khỏi
được. Như trong Tạp A-hàm, Ngũ Phần luật, Trường A-hàm kinh, Pháp cú
(Dhammapada) 127, đức Phật đã dạy:
"Hết thảy cái có sinh đều có tử, thọ mệnh cuối cùng
rồi cũng phải hết.
"Y vào nghiệp mà chịu duyên báo, thiện, ác đều
có quả của nó.
"Tu phúc được sinh lên cõi trời, tạo ác thì phải vào
địa ngục.
"Tu đạo thì dứt được sống, chết, mà nhập niết-bàn vĩnh
viễn.
"Không ở trên không, không dưới biển, không trong rừng núi,
không một chỗ nào trốn được cái chết.
"Ngay đến chư Phật Bồ-tát,
Duyên giác, Thinh văn còn phải bỏ cái thân vô thường, huống nữa là phàm
phu." (8)
Các loại Nghiệp ảnh hưởng đến sự tái sanh.
Nghiệp như
vậy gắn bó mật thiết với luật nhân quả. Tác nhân của những hành vi trong
quá khứ, hình thành nên một năng lực liên tục cho đến ngày hôm nay thể
hiện qua thọ quả. Từ nghiệp nhân đến nghiệp quả trải qua một dòng tương
tục như là một ngọn lửa từ một ngọn đèn được truyền nối qua những ngọn
đèn kế tiếp, đây chính là sức mạnh của nghiệp mà thường trong Phật giáo
gọi là nghiệp lực. Khi cái thọ mệnh cuối cùng của một đời người chấm
dứt, như đã nói ở trên, cái nghiệp lực này sẽ dẫn dắt "chúng sanh đầu
thai" đi tìm chỗ tái sanh. Cái nghiệp thức này về mặt giáo nghĩa có thể
đã được lý giải khác nhau tùy theo quan điểm của các bộ phái Phật giáo
Tiểu thừa hay Đại thừa, bài viết này không có nhu cầu đi sâu vào việc
nghiên cứu về chủ đề này, chỉ nhấn mạnh đến các loại Nghiệp đã có những
tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ vào tiến trình đầu thai, đó là bốn loại
Nghiệp tác động bao gồm Nghiệp Tái Tạo (Janaka Kamma), Nghiệp Trợ Duyên
(Upatthambhaka Kamma), Nghiệp Bổ Đồng (Upapidaka Kamma), và Nghiệp Tiêu
Diệt (Upaghataka Kamma); cùng bốn loại Nghiệp báo ứng bao gồm: Trọng
Nghiệp (Garuka Kamma ), Cận Tử Nghiệp (Asanna Kamma ), Thường Nghiệp
(Acinna Kamma ), và Tích Trữ Nghiệp (Katatta Kamma ).
Phật Giáo quan niệm rằng, những tư tưởng cuối cùng
của con người trước phút lâm chung đóng một vai trò quan trọng trong
việc quyết định cảnh giới tái sanh sắp tới. Đây là lúc mà Nghiệp lành
hay dữ phát huy năng lực mạnh nhất tạo điều kiện cho sự đầu thai thế nên
được gọi là Nghiệp Tái Tạo.Theo nhận thức thông thường, Nghiệp Tái Tạo
này chính là những vốn liếng công đức, phẩm hạnh của cả một đời người,
ai tích lũy thiện nghiệp sẽ được đầu thai về những cảnh giới tốt đẹp và
ngược lại. Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản như vậy, đôi lúc vẫn có
những đột biến bất ngờ xảy ra trước phút lâm chung. Có người suốt đời
gieo trồng thiện nghiệp nhưng trước khi lìa đời do ảnh hưởng của ngoại
cảnh, một niệm ác bỗng khởi lên đưa thần thức của họ đến những cảnh giới
không tốt đẹp. Cũng có những trường hợp trái lại, một người suốt đời
làm việc ác, nhưng trước phút lâm chung tỉnh ngộ và hối hận, tâm thức
của họ khởi lên thiện niệm, họ liền hưởng được quả lành, thần thức nương
vào đó mà được tái sanh vào những cảnh giới tốt đẹp hơn. Điều này giải
thích tại sao một người trước phút lâm chung cần có một vị thầy hay một
thiện hữu trí thức ở bên cạnh.
Tuy nhiên đến đây có người sẽ đặt vấn đề: Nếu cho rằng cảnh giới
tái sanh tùy thuộc vào một niệm phát khởi trước phút lâm chung thì như
vậy kẻ làm thiện hay ác đến phút cuối đời đâu có gì khác nhau? Về vấn đề
này chúng ta phải nên hiểu rằng chuyện đột biến chỉ là những trường hợp
cá biệt và cũng đều có nhân duyên của nó, hơn nữa cho dù có đột biến
xảy ra bởi ngoại cảnh, những nghiệp lành hay dữ mà một cá nhân tích lũy
trong kiếp sống sẽ không mất đi, nó trở thành Nghiệp quá khứ và tác động
trở lại vào Nghiệp Tái Tạo khi hội đủ nhân duyên trong dòng luân hồi
bất tận của một chúng sanh. Nếu Nghiệp quá khứ này chen vào hỗ trợ cho
Nghiệp Tái Tạo trong chiều hướng tích cực tức là giúp thần thức đầu thai
về những cảnh giới tốt đẹp hơn thì được gọi là "Nghiệp Trợ Duyên" còn
nó làm ngăn trở, chướng ngại theo chiều hướng tiêu cực thì gọi là
"Nghiệp Bổ Đồng". Ngoài ra, cũng trong giai đoạn quyết định này, đột
nhiên một Nghiệp quá khứ khác nghịch chiều và mạnh hơn, xuất hiện một
cách bất ngờ, có khả năng tiêu diệt hoàn toàn năng lực của các Nghiệp
khác, tác động ngay vào tiến trình đầu thai thì được gọi là "Nghiệp Tiêu
Diệt" (Upaghataka Kamma).
Về mặt Nghiệp quả, tức là khả năng báo ứng
(vipakadanavasena), loại Nghiệp đầu tiên được nói đến là "Trọng Nghiệp"
(Garuka Kamma ), tức là Nghiệp nặng, lành hay dữ, được gây ra do một
hành động đặc biệt nghiêm trọng. Loại Nghiệp này sẽ tạ nên một hậu quả
tức thời ngay trong hiện kiếp hoặc trở thành nhân tố chính dẫn đến sự
tái sanh trong kiếp kế tiếp. Nếu lúc tái sanh mà không có một Trọng
Nghiệp làm điều kiện cho sự đầu thai vào kiếp kế tiếp thì "Cận Tử
Nghiệp" (Asanna Kamma ) sẽ là nghiệp lực dắt dẫn thần thức đi thọ sanh.
Cận Tử Nghiệp là hành vi cuối cùng, hay cũng có thể là bất cứ hình ảnh, ý
niệm nào mà chập tư tưởng cuối cùng nhớ đến trước khi lâm chung. Về mặt
tác dụng, loại Cận Tử Nghiệp này gần giống với loại Nghiệp Tái Tạo như
đã nói ở trên. Trong giai đoạn thân trung ấm, nếu tiến trình đầu thai
không bị tác động bởi hai loại Nghiệp trên thì loại nghiệp thứ ba tức là
"Thường Nghiệp" (Acinna Kamma) sẽ phát huy tác dụng. Thường Nghiệp là
tất cả những hành động, việc làm, thói quen mà ta thường lập đi lập lại
trong đời sống hằng ngày, un đúc trở thành tập khí, tâm tánh của mỗi con
người. Đó cũng là những điều mà ta thường tưởng nhớ đến hoặc ưa thích
hơn hết trong kiếp sống hiện tại, chẳng hạn như những tình cảm yêu
thương gắn bó trong mối liên hệ gia đình, cha mẹ, vợ chồng, con cái,? và
rồi trong phút lâm chung chúng sẽ trở nên những hình ảnh gắn bó với
thần thức, tạo nên tác động ảnh hưởng vào tiến trình đầu thai. Cuối cùng
những trường hợp nào không thuộc vào một trong ba loại nghiệp kể trên
thì đưọc gom chung lại thành một loại là Nghiệp Tích Trữ (Katatta Kamma)
tức là cái vốn dự trữ của một cá nhân.
Tạm Kết Luận
Chúng ta đã đi qua một số khái niệm cơ bản về luật nhân quả, nghiệp
báo và luân hồi làm nền tảng cho lý thuyết đầu thai, tái sanh theo quan
điểm Phật giáo. Tuy nhiên để tạm thời kết thúc vấn đề này có ba điểm mà
chúng ta không thể không lưu ý:
Thứ nhất, thuyết tái sanh luân hồi không phải là một học thuyết của
riêng Phật giáo. Như đã trình bày ở trên, đây là một gia sản tinh thần
của nhân loại được chia xẻ bởi hầu hết các tôn giáo lớn trên địa cầu.
Ngay cả Cơ Đốc Giáo, niềm tin này cũng đã phảng phất trong Thánh kinh
Tân Ước, cụ thể như trong "Tin Lành Theo Thánh Ma-Thi-Ơ":
Khi Jêsus đến trong địa phận Sê-sa-rê Phi-líp bèn hỏi môn đồ rằng :
" Người ta nói Con người là ai ? "
Họ thưa rằng : " Người thì nói
Giăng Báp-Tít, kẻ thì nói Ê-li, kẻ khác lại nói Giê-rê-mi hay là một
tiên tri nào đó. " (Matthew 16 :13-14) 42.
Hoặc một đoạn trong " Tin
Lành Theo Thánh Giăng " :
Khi Jêsus đi qua, thấy một người mù từ
thuở sanh ra. Môn đồ hỏi Ngài rằng : " Ra-bi, ai đã phạm tội, người này
hay là cha mẹ người, mà người sanh ra thì mù? "
Jêsus đáp rằng : "
Người này không phạm tội, cha mẹ người cũng không, nhưng ấy để cho công
việc Đức Chúa Trời được tỏ ra trong người. " (John 9 :1-2) 256
Thứ hai, định luật Nghiệp Báo của Phật giáo hoàn
toàn khác biệt với Thuyết Định Mệnh hay Tiền Định ở một số tín ngưỡng
khác. Với Phật giáo, số phận của một con người không hề được an bài, sắp
đặt bởi bàn tay của một đấng chủ tể hay Thượng Đế nào, và do đó không
ai có thể cãi đổi được. Tuy cho rằng nguyên nhân tạo nên hoàn cảnh chênh
lệch trong đời sống của con người là sự khác biệt giữa cái Nghiệp mỗi
chúng sanh tạo ra, nhưng Phật Giáo không bao giờ xem Nghiệp là một
nguyên nhân duy nhất và điều quan trọng hơn, Phật giáo còn quan niệm
rằng dòng sinh mệnh của một con người là một dòng chảy liên tục và sống
động mà mỗi con người có khả năng góp phần vào làm chuyển đổi dòng chảy
đó ngay trong kiếp sống này. Tinh thần này đã được thể hiện rõ ràng
trong lời Đức Phật phê phán về sự hiểu biết về Nghiệp và luật nhân quả
một cách cứng ngắt:
"Nếu luận như vậy và quả quyết rằng do những
hành động trong quá khứ mà con người trở thành sát nhân, trộm cướp, dâm
loàn, láo xược, thô lỗ, nhảm nhí, tham lam, xảo quyệt, hư hèn, thì ta có
lý do để ỷ lại, dựa trên quá khứ mà không muốn thực hiện, không cố gắng
thực hiện,và cũng không cần thiết phải thực hiện, hay không thực hiện,
một hành động, dầu hành động ấy có đáng thực hiện hay không. "
Trên
cơ sở của những học thuyết và niềm tin về giáo lý tái sanh, luân hồi,
Phật giáo xem phôi bào là một sinh mệnh, vì đây là một " chúng sanh đầu
thai ". Gần đây, qua những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
tên tuổi, mà nổi bật nhất là của BS/GS Ian Stevenson, Khoa trưởng Phân
Khoa Thần Kinh và Phân Tâm, Đại Học Y Khoa Virginia, HK (1957-1967), đã
đưa ra rất nhiều những bằng chứng có tính thuyết phục, vấn đề tái sanh,
đầu thai, tiền kiếp, hậu kiếp trong thời đại ngày nay đã không còn là
chuyện mê tín, hoang đường. Viện thống kê Gallup danh tiếng của Hoa Kỳ
trong năm 1999 đã thực hiện một cuộc thăm dò về đề tài này, kết quả cho
thấy đã có đến trên 20% người Cơ Đốc tin tưởng vào chuyện tái sanh. Dr.
Christopher Bache tác giả cuốn "Life Cycles: Reincarnation and the Web
of Life" và đồng thời cũng là Giáo sư giảng dạy bộ môn tôn giáo tại
Trưòng Đại học Youngstown State University trong một cuộc phỏng vấn đặc
biệt dành cho hãng AOL mới đây, đã khẳng định rằng, "Với các chứng
nghiệm càng ngày càng mạnh mẽ hơn, các nhà thờ rồi đây sẽ phải chấp nhận
chuyện này như là một vấn đề đơn giản trong cuộc sống. " (9) Phát xuất
từ những công trình nghiên cứu này mà một phương thức trị liệu mới được
chấp nhận để điều trị những căn bệnh bất trị, những căn bệnh mà các
phương tiện y khoa hiện đại đã bó tay không tìm ra nguyên nhân, đó là bộ
môn THÔI MIÊN TRỊ LIỆU PHÁP, qua đó những chuyên gia về thôi miên có
thể giúp bệnh nhân đi trở ngược lại quá khứ, nhận ra rằng căn bệnh của
họ có nguyên nhân từ những kiếp trước và nhờ thế được chữa khỏi bệnh.
Thứ
ba, khi đã hiểu rõ vấn đề tái sanh, đầu thai, luân hồi, nghiệp quả theo
quan điểm Phật giáo, người ta sẽ rất dễ dàng hiểu được cái chết là gì
và ý nghĩa của nó trong chu kỳ thành, trụ, hoại, không của vạn pháp. Bồ
tát Thế Thân trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (Abhidharmakosha), cho rằng
cuộc sống là cái giá nâng đỡ của nhiệt và tâm thức, sự dừng lại của hoạt
động này là cái chết. Thời gian thân thể vật chất và tâm thức kết hợp
là đời sống, sự tách lìa chúng tạo ra cái chết. Về ba mức độ biểu lộ của
thân và tâm, tức là mức độ thô, tế và rất vi tế, cái chết là sự chia
lìa giữa tâm thức và thân xác bởi vì không thể có sự chia lìa giữa tâm
thức vi tế nhất và yếu tố vật chất vi tế nhất. Nhận định này đã góp
phần vào việc lý giải lời Phật dạy trong Trung Bộ Kinh đã được trích dẫn
ở trên: "Nếu nhằm lúc thọ thai của người mẹ và chúng sanh đi đầu thai
cũng có mặt trong lúc giao hợp, nếu hội đủ ba nhân: tinh-trùng, noãn bào
và thức, thì mầm sống được gieo trồng: "Này các Tỳ-kheo, nơi nào có ba
thành tố ấy hợp lại thì tại nơi đó một mầm sống được gieo". Từ cách nhìn
của Phật giáo, cái chết như vậy bao gồm 2 yếu tố: sự tan rã của sắc uẩn
được báo hiệu bằng sự giá lạnh của cơ thể (không còn nhiệt) và sự chấp
nhận của thức rời bỏ thể xác cũ để đi vào cảnh giới mới hay giai đoạn
thân trung ấm. Trong hai yếu tố này, sự hiểu biết của nhà khoa học -cụ
thể là người thầy thuốc- về tâm thức, hay thần thức cho đến nay vẫn chỉ
là một con số không, thế nên họ không có đủ tư cách để can thiệp vào
việc quyết định dòng sinh mệnh hay cái chết của một con người. Ngay cả
đối với những trường hợp mà giới y khoa cho là " chết não bộ " hay "
tình trạng cây cỏ ", việc chấm dứt thọ mạng của những chúng sanh này dù
dưới bất cứ chiêu bài, nhãn hiệu nào đều là một hành vi sát nhân. Tham
dự vào công việc này, là Phật tử bạn còn phạm một tội ác khác, đó là cản
trở tiến trình đầu thai của một chúng sinh, bởi lẽ làm sao bạn biết
được lúc nào thì thần thức chuẩn bị rời bỏ thân xác, nhất là khi thân
xác vẫn còn nóng ấm, nghĩa là chưa chết? Chúng ta chưa có đủ trí tuệ của
một đấng Giác Ngộ, nói về chuyện trợ tử thì cũng chỉ là những người mù
nói chuyện về ánh sáng, tuy nhiên căn cứ vào những lời dạy của Ngài còn
để lại, ta vẫn có thể có được những ánh sáng soi đường...
CHÚ THÍCH -.
(1)
Beyond Dogma, HH the Dalai Lama. Rupa & Co., 1996. P. 11.
(2)
Beyond Dogma, HH the Dalai Lama .Rupa & Co., 1996. P. 43.
(3)
The Tibetan Book of The Dead, Evans Wentz, p.p.183-184.
(4) The
Tibetan Book of The Dead, Evans Wentz, p.186.
(5) Atthasalini, trang
63; The Expositor, phần I, trang 91."LÝ NHÂN QUẢ, Nàrada Mahà Thera.
Phạm Kim Khánh dịch -(Trích "Đức Phật và Phật Pháp", Chương 18-21)"
(6)
Anguttara Nikaya, iii, 415; The Expositor phần I, trang 117;
Atthasalini, trang 88 "LÝ NHÂN QUẢ, Nàrada Mahà Thera. Phạm Kim Khánh
dịch -(Trích "Đức Phật và Phật Pháp", Chương 18-21)"
(7) Trung A-hàm
32, Đ. 1
(8) Tạp A-hàm 3, tr.891, Ngũ Phần luật, Đ.21, trang: 28a.
Trường A-hàm, Đại 1, tr.127.
(9) Laura Sheahen phỏng vấn Life
Cycles: Reincarnation and the Web of Life
SÁCH, TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bên Kia Cửa Tử -Trần Ngọc Anh
- Bí Ẩn Về Tiền Kiếp Hậu
Kiếp - Đoàn Văn Thông
- Kinh Thánh - The Gideons International.
-
Kinh Trường A Hàm - Thích Thiện Siêu
- Luật Quả Báo - Đoàn Văn
Thông
- Past Lives, Future Lives - Dr. Bruce Goldberg
- Sự Sống
và Sự Chết trong Phật Giáo - Thích Thiện Châu
- Một nhận định về
A-lại-da Thức - Hòa thượng Walpola Ràhula - Tỳ kheo Giác Nguyên dịch
Việt
- Luân hồi, nghiệp báo - Thích Đức Thắng
- Nhân Quả - Thích
Đức Thắng
- Giáo lý Phật giáo về sự Tái Sanh - Đại Đức Narada Maha
Thera - Bác sĩ Nguyễn Trạch Thiện dịch
- Chết là gì? - Tenzin
Gyatso- Thiện Tri Thức dịch
Tâm Hà Lê Công Đa