|
Giáo sư Trần Phương và Bích Hằng |
Suốt hai ngày trời, dậy từ 4h sáng, mướt mải tìm kiếm, đào bới đến 11h
đêm mới về nhà, cái tuổi 72 của GS đã cảm thấy đuối sức. Niềm tin cũng
giảm sút. Sáng ngày thứ 3, GS uỷ nhiệm cho các con, cháu, người chị ruột
và anh Tân Cương đi tiếp. Ông dặn: Không đào sâu thêm nữa, chỉ soát lại
đống cát đen đào xới lên hôm qua, hoạ may nhặt được mẩu xương nào thì
đem về. Nếu không thì “thu dọn chiến trường”.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)bằng
thuyền đánh cá). Vậy là lại phải
qua sông để trở về đất Hưng Yên. Cạnh vụng bà Khán Mỹ, trên đất bãi, có
một xóm mới. ở đó, có một chị tên Nhường và một anh tên An. Có mấy ngôi
mộ vô thừa nhận. Nhưng tìm kiếm mãi vẫn chẳng thấy tín hiệu nào trùng
khớp với bản đồ của anh Nhã.
Không nản, anh Tân Cương đi tiếp một
ngày nữa. Từ vụng bà Khán Mỹ, anh đi ngược lên vụng Quạ. Nơi nào có mộ
vô thừa nhận là anh đến. Nhưng càng đi tìm lại càng tuyệt vọng. Cuộc tìm
kiếm theo đủ mọi hướng đến đây coi như lâm vào ngõ cụt. Cái tính hoài
nghi khoa học vốn có trong con người GS Phương giờ “nổi loạn”. Ông nghĩ:
Lão Nhã này, hắn đày ải, đánh đố mình đây. Hắn bày ra cả một “trận đồ
bát quái”, nào là dấu hiệu, tín hiệu, tên người, tên đất… rồi bảo mình
phải đi tìm cho đủ. Lục tìm cả cái đất nước này, chưa chắc đã có nơi nào
khớp được. Nghĩ thế nhưng ông lại tự trách mình là vô lý. Đã chấp nhận
đi theo thầy Nhã mà tỷ lệ trúng mộ chỉ đạt 60% thì hà cớ gì, trường hợp
của mình lại không rơi vào 40% kia? Đã xác định tìm đến con đường thần
bí như nguồn hy vọng mỏng manh cuối cùng thì lý gì lại đòi hỏi phải lý
giải ngọn nguồn cái trận đồ bát quái ấy?
Theo đuổi đến tận cùng hai nhà ngoại cảm
nổi tiếng đã vẽ trúng hàng ngàn ngôi mộ liệt sĩ nhưng đến lượt mình thì
không có “duyên”, GS Phương bèn bàn với anh Tân Cương chỉ còn cách là
tìm đến những người có khả năng gọi hồn. Chị Tuyết Nga cũng ủng hộ cách
làm ấy. Chị đưa cho GS địa chỉ, điện thoại của một nhà ngoại cảm nổi
tiếng khác. Điều tra ra thì đó chính là điện thoại của Phan Thị Bích
Hằng. Chị nhận lời giúp GS vào chiều ngày 9 tháng 8 năm 1999 tại nhà
riêng của ông. Cuộc gọi hồn kéo dài gần hai tiếng đồng hồ với nhiều chi
tiết vừa xác thực, vừa ly kỳ, xúc động cùng rất nhiều nước mắt đã hé ra
một cách tìm mới về mộ cô Khang và điều đặc biệt nhất là xé toang nỗi
nghi ngờ như làn sương bao phủ trong đầu vị GS “vô thần” Trần Phương.
Trò chuyện với… linh hồn
Cuộc trò chuyện với linh hồn cô Khang
trong buổi chiều ngày 9 tháng 8 năm 1999 ấy, cho đến tận bây giờ, vẫn là
nỗi ám ảnh lớn trong tâm trí của GS Phương. Bởi đó không chỉ là cuộc
hội ngộ đầy nước mắt giữa những người thân sau mấy mươi năm sinh ly tử
biệt mà đó thực sự là bước ngoặt lớn trong nhận thức của GS về thế giới
tâm linh, thế giới của những linh hồn. GS vẫn còn nhớ rất rõ, trong lúc
nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đang lúi cúi sắp đặt một cốc nước, một
cốc gạo, nến, tiền vàng và bức ảnh của cô Khang lên bàn thì GS cố lục
tìm trong trí nhớ những vụ việc rất bí mật mà chỉ GS và cô Khang biết để
kiểm tra xem có đúng là linh hồn người em gái đang trò chuyện với ông
không? Và điều quan trọng hơn, có thật là linh hồn còn tồn tại sau khi
con người đã chết? Cảnh giác, GS còn dặn cả nhà tham dự buổi gọi hồn
phải tỉnh táo, không được nói hớ, để lộ thông tin cho “thầy bói nói
dựa”.
Thắp hương và đốt nến xong, Bích Hằng
thành kính chắp tay trước ngực, khấn mời cô Khang bằng một giọng nhỏ nhẹ
rồi quay sang nói với GS Phương: “ở căn phòng này bác không thờ cúng
bao giờ, có thể vong linh cô Khang sẽ khó về”. Nghe vậy, GS đâm hoang
mang quá. Đúng là ở căn nhà này, GS chưa thờ cúng ai bao giờ, thậm chí,
10 năm nay, ông không ở đây vì đã bàn giao cho con. GS đảo mắt nhìn
quanh, thấy bốn bề cửa kính đóng kín mít, máy điều hoà chạy mát lạnh.
Mùi hương không lọt ra ngoài thì cô Khang làm sao nhận biết được? Cả
tiếng khấn nhẹ như gió thoảng của Bích Hằng nữa? Cô có nghe thấy không?
Mà có nghe thấy thì làm sao tìm được địa chỉ này giữa lòng thành phố ồn
ào chin chít nhà cửa? Và lách qua kẽ hở nào mà vào?
GS bỗng thấy ngột ngạt, căng thẳng quá.
Bên cạnh, Bích Hằng vẫn chăm chắm nhìn tấm ảnh cô Khang. Một phút chờ
đợi chậm chạp trôi. Hai phút… Rồi 3 phút. Chợt Bích Hằng reo khẽ: “Cháu
chào cô ạ! Cháu là Phan Thị Bích Hằng. Bác Trần Phương có nhờ cháu mời
cô về để hỏi xem hài cốt cô hiện ở đâu ạ?”. Nói đoạn, Bích Hằng vội quay
sang G.S Phương, hạ giọng nói: “Cháu nhìn thấy một thanh niên đi cùng
với cô Khang”. Tim GS Phương đập thình thịch như muốn nhảy ra khỏi lồng
ngực. Ông cố đoán xem người đàn ông ấy là ai trong khi Bích Hằng vẫn
chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng lại “Vâng! à thế ạ. Cô Ngân hay là cái
gì ngân ạ?…” Một lúc sau, Bích Hằng quay sang GS Phương, nói: “Cô Khang
bảo: Người thanh niên đi cùng em chính là anh Sơn đấy. Anh ấy vẫn thường
xuyên đến thăm em”. G.S Phương giật mình. Ôi! Anh Sơn. Người anh ruột
hơn G.S Phương 4 tuổi nhưng cũng là người bạn, người đồng chí thân
thiết. Anh từng là uỷ viên thường vụ tỉnh Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Đông
(cũ). Rồi khi thành lập Đại đoàn 320, anh được điều làm Trưởng ban tuyên
giáo của đại đoàn. Anh hy sinh trong chiến dịch Hà Nam Ninh tháng 6 năm
1951. G.S Phương muốn reo lên, gọi thật to tên anh. Nhưng sực nhớ Bích
Hằng ngồi cạnh, ông cố kìm cảm xúc lại, chờ xem.
Bích Hằng nói tiếp: “Anh không có duyên
rồi. Đi tìm em, đối mặt với em rồi mà không đến được với em. Từ hôm anh
đến, mấy chị em trong đội du kích Hoàng Ngân cứ bảo: sao lâu quá không
thấy anh Phương trở lại. Chỗ em nằm chỉ cách chỗ anh đào 3 sải chân ra
phía bờ ao thôi”. G.S Phương vội ngắt lời: “Vậy em nằm trên vườn hay
dưới ao?”. Cô Khang bảo (qua Bích Hằng, từ đây gọi là cô Khang –
PV): “Đến bờ ao cũng còn 3 bước chân nữa. Phía trên em chừng 2 m là
chị Nguyễn Thị Bê, đội viên đội du kích Hoàng Ngân, quê ở ngay làng La
Tiến. Cũng cách chừng 2m về phía Đông là một người đàn ông, bị bắt từ
Hải Dương về, em không biết tên. Hai người bị giết cùng một ngày với em.
Chúng cột tay chúng em lại rồi vất xác xuống sông vào nửa đêm. Dân
phòng ta có đi tìm nhưng không thấy. Mãi mấy ngày sau, xác mới nổi lên.
Dân vớt được, đưa về đây chôn nên 3 mộ gần sát nhau, gần như nằm trên
một đường thẳng. Xa hơn, còn mấy người nữa. Chỗ này cả thảy 7 người cơ”.
G.S Phương hỏi: “Chôn em có quan tài không?”. Cô Khang cười buồn: “Mấy
người nổi lên trước thì dân còn cho được manh chiếu mà bó. Còn nổi lên
sau thì đến manh chiếu cũng không có, nói gì đến quan tài”.
Qua Bích Hằng, cô Khang chỉ dẫn tỉ mỉ
chỗ cô nằm với các đặc điểm về cây cỏ xung quanh. G.S Phương nhận ra
ngay vì đó là cây nhãn giáp với nhà bà Nhờ, bữa trước ông đã ngồi ở đó
để theo dõi việc đào mộ. G.S Phương hỏi: “Em có biết chỗ em nằm thuộc về
đất của ai không?”. Cô Khang đáp: “Em cũng không biết nữa. Địch đánh em
gãy xương sườn, gãy xương cánh tay và xương đòn tay bên phải, gãy hai
chiếc răng nanh ở hàm trên bên phải, dập gò má bên trái. Xương cốt hiện
nay vẫn còn nhưng đã mủn vì chôn có quan tài đâu nên khi đào, anh phải
cẩn thận, chỉ cần xúc một xẻng đất là nó vỡ ra ngay. Anh chú ý ở tay em
vẫn còn cái còng bằng sắt. Địch khoá tay em vào tay người đàn ông bị bắt
ở Hải Dương bằng cái còng ấy. Răng hàm dưới đã rụng ra nhưng rất may,
hàm trên vẫn còn nguyên vẹn. ở đấy có mấy anh chị, nếu anh có đào nhầm
sang mộ người khác thì vẫn có thể nhận ra ngay. Ngày xưa, mọi người hay
trêu đùa em là có hàm răng đẹp nhất, trắng nhất, tươi tắn nhất đội du
kích. Nhưng bây giờ răng em đã chuyển sang màu đen rồi, đen xỉn ấy do
bùn đất lâu năm ngấm vào chứ không phải đen hạt na đâu”. Một niềm xót
thương chợt trào dâng khiến nước mắt G.S Phương lưng tròng. Mặc dù chỉ
nói một cách kín đáo nhưng ông nhận ra ngay vẻ đẹp mặn mòi rất đặc trưng
của em Khang. Ôi! Người con gái đã lìa đời hơn 50 năm mà vẫn thầm tự
hào về nhan sắc, về hàm răng trắng như ngà khiến biết bao chàng trai
ngưỡng mộ.
Cố kìm nén niềm xúc động, G.S Phương
hỏi: “Nếu tìm được hài cốt em thì đưa về quê mình, cạnh mộ bố mẹ hay đưa
em về nghĩa trang liệt sĩ của huyện, nơi anh Sơn đang nằm?”. Cô Khang
đáp: “Mẹ bảo em: Con là phận gái chết trẻ, không chồng con gì. Về với bố
mẹ để sau này cháu chắt còn thăm viếng, hương khói cho con. Nhưng anh
Sơn thì bảo: Em là đội trưởng đội nữ du kích Hoàng Ngân. Em cứ về nghĩa
trang liệt sĩ cho có anh có em. Tổ quốc ghi công mình cơ mà. Anh Sơn hôm
nay cũng về cùng với em đấy”. Suốt nửa tiếng đồng hồ cố nén niềm xúc
động, giờ, không kìm được nữa, G.S Phương khóc oà: “Trời ơi! Anh Sơn”.
Ông lẳng lặng rút từ trong túi ra một bức ảnh, đưa cho Bích Hằng. Nhìn
qua, Bích Hằng bảo: “Đúng đây là ảnh bác Sơn rồi. Nhưng trông bác già và
gầy hơn trong ảnh”. G.S Phương gật đầu xác nhận. Bức ảnh chụp từ năm
1948, khi anh Sơn đang công tác ở Sơn Tây nên trông rất điển trai.
Anh Sơn trách G.S Phương: “Chú đi tìm em
Khang mà chẳng nói với anh một câu. Lần sau, chú báo trước cho anh, anh
sẽ dẫn đường cho chú đến tận nơi. Ai khoanh cho chú chỗ ấy là họ hiểu
biết đấy. Cũng may mà khúc sông ấy hơi cong lại, xác em mình mới dạt
vào. Nếu không đã trôi tuột mất rồi. Mẹ khóc thương em Khang nhiều lắm.
Cứ muốn đưa em về bên mẹ để mẹ ôm ấp. Nhưng anh lại khuyên em Khang về
nghĩa trang liệt sĩ vì đấy là vinh dự của em mình, của cả gia đình mình
cơ mà. Tổ quốc ghi công mình, đời đời nhân dân thắp hương cho mình chứ
đâu chỉ có con cháu trong gia đình. Vả lại, đời anh chị em mình đã vậy
chứ đến đời thằng An thì nó còn biết gì.”. G.S Phương lại giật mình. An
là con đẻ của ông. 10 năm sau khi anh Sơn hy sinh, An mới ra đời.
“Hôm chú đi tìm mộ em Khang, anh cũng có
theo dõi. Chú đào xuyên đến cả lớp đất nguyên thuỷ. Em Khang đâu có nằm
sâu thế. Chỉ hơn 1m là đến lớp cát đen rồi. Em mình chỉ nằm ở tầm ấy
thôi. Lần này đào tiếp, chú để ý sẽ thấy một thanh củi mục. Thực ra, đấy
là cái cán thuổng mà người đào huyệt đã đánh gãy vất lại đó, vô tình
như đánh dấu cho mình”. G.S Phương hỏi: “Anh bảo sẽ dẫn đường cho em.
Vậy làm cách nào mà em nhận biết được?”. Anh Sơn: “Anh không thể nắm tay
chú mà dẫn đi như người trần được. Nhưng anh sẽ sai khiến một con vật
nào đó như con ong, con bướm chẳng hạn, dẫn đường cho chú. Làm việc này
đối với người âm là khó đấy nhưng anh sẽ cố. Khi thấy con vật, chú gọi
nó lại rồi đi theo nó, đến chỗ nó đậu. Hôm nào đi, chú mua ít hoa quả
thắp hương mời chị em. Người ta chết cùng nhau, mình chỉ hì hục đào tìm
em mình thì người ta cũng tủi. Phía trên mộ em Khang là mộ một chị liên
lạc, cấp dưỡng cho đội du kích, người địa phương, nên báo cho gia đình
chị ấy biết mà đến tìm. Chú kiếm cho anh mấy bao Cáp-tăng để anh mời anh
em. Bây giờ anh cũng chỉ huy cỡ trung đoàn đấy”.
G.S Phương hỏi đôi điều về “đời sống”
của anh Sơn và cô Khang. Cô Khang bảo: “Có lần, em về thăm chị Nghĩa mà
không vào được, chỉ đứng ngoài nhìn vào”. (Chị Nghĩa là chị cả của
gia đình GS Trần Phương – PV). Anh Sơn vội giải thích: “Em Khang bị
chết trôi sông. Đã có ai bắc cầu đâu mà hễ nhớ chị nhớ em thì chỗ nào
cũng vào được. Bây giờ, cuộc trò chuyện ở đây tạm kết thúc. Cô Khang đi
với anh đến nhà Quỳnh chơi”. (Quỳnh là em út của GS Phương – PV).
Nói rồi biến mất. Cuộn băng ghi âm 90 phút cũng vừa vặn hết.
Sau này, GS Phương đã nghe đi nghe lại
cuộn băng ghi âm nhiều lần. Qua những tên người trong gia đình được nhắc
đến một cách ngẫu nhiên, qua cách xưng hô, sự hiểu biết tính cách từng
người còn sống, cách xử sự và tâm tư tình cảm của người nói, GS Phương
tin chắc rằng: đó là vong linh của anh Sơn và em Khang. Người khác, dù
biết rõ gia đình GS đến mấy, cũng không thể sáng tác ra một kịch bản như
thế, huống hồ Bích Hằng là người mà hoàn toàn xa lạ, lần đầu tiên được
gặp GS. Song điều khiến GS băn khoăn là: “Nếu đúng là khi người ta chết
đi, vẫn còn lại một cái gì đó mà người đời thường gọi là linh hồn thì
linh hồn là gì? Nó phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó thì Bích
Hằng mới có thể nhìn thấy và nhận diện qua ảnh. Phải phát ra tiếng nói
qua một tần số nào đấy thì Bích Hằng mới có thể nghe thấy và nói lại cho
tôi nghe. Đối với tôi, nó là vô hình nhưng đối với Bích Hằng, nó là hữu
hình. Đối với tôi, nó là câm lặng nhưng đối với Bích Hằng, nó lại phát
ra âm thanh với đầy đủ những sắc thái sống động của tình cảm, tư duy,
hệt như tiếng nói của người đang sống. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là: Nếu
linh hồn là một dạng vật chất có hình thù và khả năng phát ra âm thanh
thì, theo cách nói của triết học, nó thuộc phạm trù tồn tại mang tính
khách quan chứ không thuộc phạm trù ý thức mang tính chủ quan. Nhận biết
được nó hay không là tuỳ khả năng của từng người. Đối với tất cả những
gì ta chưa có khả năng nhận biết được mà đã vội vất vào cái sọt rác mê
tín dị đoan thì khoa học còn việc gì để nghiên cứu? Lâu nay, tôi cứ đinh
ninh cho mình là duy vật, hoá ra chính mình lại là duy tâm chủ quan:
cái gì mình cho là nó tồn tại thì nó tồn tại. Cái gì ta cho là nó không
tồn tại thì nó không tồn tại, nó chỉ là mê tín dị đoan”.
Lần đầu tiên trong đời được tiếp xúc với
linh hồn, GS Phương nhận ra như thế. Song những thông tin do linh hồn
cung cấp đúng hay sai thì phải chờ vào kết quả cuộc đào bới. Điều kỳ thú
là thông tin do Bích Hằng cung cấp về vị trí hài cốt lại trùng khớp với
tấm sơ đồ do nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã vẽ trước đây nên GS Phương vô
cùng háo hức, coi đây cũng là dịp để kiểm nghiệm lại “cái trận đồ bát
quái” của anh. Hy vọng xen lẫn hoài nghi, ông nóng lòng chờ ngày hẹn
Bích Hằng về La Tiến. Và cuối cùng, ngày hẹn được ấn định: 17 tháng 8
năm 1999.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)