Giới thiệu : Đây là
bài
tham luận của Tỳ Kheo Bodhi đọc tại Hôi Nghị Hamburg ở Đức năm 2007,
do
Đức Đạt Lai Lạt Ma đề xuất, đề bàn về vấn dề phục hồi việc thọ đại
giới
Tỳ-kheo-ni trong truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy.
Bài
tham luận của tôi chú trọng đến những vấn đề thuộc về giới luật và đạo
đức liên quan đến việc phục hoạt Ni đoàn trong truyền thống Phật giáo
Nguyên Thủy. Bài tham luận này chia làm ba phần : Phần I, tôi duyệt
lại
những lập luận do những người theo phái Nguyên Thủy bảo thủ trình bày,
những người thấy rằng vấn đề phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni là
không thể thực hiện được về phương diện giới luật. Trong Phần II, tôi
trình bày những nghiên cứu về mặt kinh điển và đạo đức ủng hộ chủ
trương
cho rằng cần phải phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni. Và trong phần
III, tôi sẽ cân nhắc ngắn gọn về cơ chế giới luật trong vấn đề phục
hồi
việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy,
đó
là, làm thế nào để việc thọ đại giới được thực hiện hài hòa với qui
định
của Luật Tạng ( Vinaya).
Việc
thọ đại giới Tỳ-kheo-ni gồm có ba giai đoạn : 1) thọ giới sa-di-ni (
pabbajja), 2) huấn luyện Thức-xoa-ma-ni (sikkhamana), 3) thọ
Cụ-túc-giới/ đại giới Tỳ-kheo-ni (upasampada). Các Luật gia Nguyên
Thủy
đặt ra nhiều cản trở ở cả ba giai đoạn này. Trong bài tham luận của
tôi,
tôi thảo luân tất cả ba giai đoạn từ hai quan điểm : theo quan điểm
chống đối do các Luật gia bảo thù đặt ra, những người tuyên bố rằng
không thể nào phục hồi việc thọ đại giới, và quan điểm của những người
ủng hộ vấn đề phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni. Vì thời gian dành
cho việc trình bày bài tham luân này có giới hạn, nên tôi sẽ hướng
trọng
tâm vào vấn đề thọ đại giới mà thôi. Lời kết luận của tôi sẽ là : tôi
cho rằng không một lập trường nào có thể rút ra một cách rõ ràng từ
Luật
Tạng, nhưng việc diễn giải Luật Tạng tùy thuộc vào bối cảnh việc diễn
giải được thực hiện, và một số những giả định và mục đích mà người
diễn
giải muốn đưa vào nhiêm vụ diễn giải.
I.
Trường
hợp chống đối vấn đề phục hồi
việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni
Đối
với các Luật gia, giai đoạn thọ đại giới Tỳ-kheo-ni đặt ra một trở
ngại
lớn nhất cho việc phục hồi Ni đoàn. Sự chống đối chính yếu dựa trên
điều
luật mà các Luật gia đưa ra là việc truyền giới này phải do nhị bộ
tăng
thực hiện. Nghĩa là việc này phải do cả Ni đoàn lẫn Tăng đoàn cùng
thực
hiện, và để cho việc truyền giới là thuần túy Nguyên Thủy, việc truyền
giới phải xuất phát từ một Ni đoàn Nguyên Thủy hiện hành. Điếu này dưa
đến một tình trạng khó khăn bế tắc, vì nếu thiếu vắng một Ni đoàn
Nguyên
Thủy hiện hành, thì việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni không thể được công
nhận là đúng theo luật. Vì vậy không thể có khả năng phục hồi Ni đoàn
Nguyên Thủy. Việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni vẫn vượt khỏi tầm tay trong
suốt thời kỳ truyền thừa Phật giáo hiện tại. Những phụ nữ muốn sống
theo
hạnh xuất gia sẽ phải chấp nhận một hình thức thay thế của hạnh xuất
gia,
như là tu nữ tám giới hay mười giới.
II.
Trường
hợp ủng hộ việc phục hoạt Ni
đoàn Phật Giáo Nguyên Thủy
Sau
khi sơ lược những lập luận về luật mà các giới chức bảo thủ về Luật
Tạng đề xuất để chống đối vấn đề phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni
trong truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, tôi xem xét một số yếu tố,
về
mặt kinh điển và đạo đức, chủ trương ủng hộ việc phục hoạt. Tôi chia
những yếu tố này thành hai nhóm: một nhóm tôi gọi là “mệnh lệnh cổ
sơ”,
và nhóm kia tôi gọi là “ những hoàn cảnh thúc bách đương đại”.
‘Mệnh
lệnh cổ sơ’ trước tiên là quyết định của chính Đức Phật thành lập một
Ni
đoàn như một lực lượng đối trọng với Tăng đoàn. Khi Đức Bà
Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Đề
(Kiều
Đàm Di ) cùng với năm trăm phụ nữ thuộc bộ tộc Thích Ca đến gặp Đức
Phật,
họ không đòi hỏi Đức Phật thiết lập một Ni đoàn. Họ chỉ xin Đức Phật
cho
phép họ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Mặc dù lúc đầu
Đức Phật từ chối lời thỉnh cầu này, cuối cùng Ngài đã chấp thuận. Tuy
nhiên, trong khi chấp thuận, Ngài không chỉ cho phép phụ nữ xuất gia,
mà
còn cho phép phụ nữ xuất gia được thành lập một Ni đoàn riêng biệt,
một
cộng đồng được điều hành bởi những điều lệ và qui định riêng của họ.
Mặc
dù Ngài đặt Ni đoàn này lệ thuộc vào Tăng đoàn trong một vài phương
diện,
Ngài vẫn cho phép Ni đoàn này phần lớn được tự trị. Điều này chứng tỏ
rằng Ngài công nhận Ni đoàn là một phần chính yếu của Giáo đoàn, không
có Ni đoàn thì Giáo đoàn của Ngài sẽ không hoàn hảo và không trọn
vẹn.
Suy
tư về những điều kiện đương đại cũng ủng hộ trường hợp phục hồi việc
thọ
đại giới Tỳ-kheo-ni. Thời đại chúng ta được hình thành từ những tư
tưởng
của triết thuyết Ánh Sáng Âu Châu, một phong trào xác nhận phẩm giá
nội
tại của con người và đưa đến đòi hỏi bình đẳng chính trị và công bằng
cho mọi người trước pháp luật. Từ giữa thế kỷ thứ 19 trở đi, con người
khắp điạ cầu đã nhận thức rằng sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính
là
vô lý và bất công, một hệ thống đã áp đặt lên xã hội chỉ vì vai trò
thống trị của nam giới trong những thời kỳ mà sự ổn định xã hội tùy
thuộc vào sức mạnh và quân lực. Như vậy sự phân biệt đối xử dựa trên
giới tính đã bị thách thức hầu như khắp nơi trong mọi lãnh vực đời
sống
thế tục, và vai trò của nó trong phạm vi tôn giáo cũng được đưa ra xem
xét nghiêm túc. Tôn giáo vẫn là thành trì kiên cố nhất của sự phân
biệt
đối xử này, và Phật giáo cũng không ngoại lệ. Đúng là Luật Tạng đã qui
định Tỳ-kheo-ni phải phục tùng Tỳ-kheo-tăng, và Ni đoàn phải phục tùng
Tăng đoàn, nhưng chúng ta nên nhớ rằng Đức Phật đã sống và giảng dạy ở
Ấn độ vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên. Những công phu tu tập
thuộc
về nghi thức phải được đánh giá trong ánh sáng của những điều kiện văn
hóa và xã hội đã thay đổi. Khi chúng ta hỏi đường lối hành động nào sẽ
thích hợp với ngày nay, chúng ta không nên hỏi Đức Phật đã làm gì 25
thế
kỷ trước, mà nên hỏi là Ngài sẽ muốn chúng ta làm gì trong thời đại
này.
Nếu người ta nhìn Phật giáo Nguyên Thủy như một tôn giáo chỉ gồm có
nam
giới xuất gia, mà loại bỏ nữ giới xuất gia, hay chỉ chấp nhận nữ giới
qua một vài việc thọ giới không chính thức, người ta sẽ nghi ngờ là có
một điều gì thiên lệch trong cơ bản, và những lập luận bảo vệ quan
điểm
ấy dựa trên những yêu cầu về các nguyên tắc giới luật khó hiểu sẽ
không
mang tính thuyết phục để có thể xóa tan mọi nghi ngờ. Đây sẽ là một ví
dụ về một loại thái độ mà chúng ta thường thấy trong Luật Tạng, nơi mà
“nhưng người thiếu tự tin không đạt được lòng tự tin, trong lúc giữa
những người có lòng tự tin, thì một số lại thay đổi ý kiến liên tục”.
Mặc khác, bằng cách thu hết can đảm để phục hồi cho phụ nữ quyền được
sống cuộc đời xuất gia trọn vẹn, nghĩa là, bằng cách phục hoạt Giáo
đoàn
Tỳ-kheo-ni, các vị trưởng lão Phật giáo Nguyên Thủy sẽ chứng tỏ là họ
biết cách áp dụng Luật Tạng theo một đường lối thích hợp với thời đại
và
hoàn cảnh, và cũng là cách biểu lộ lòng từ bi và bao dung, hơn là
khăng
khăng bác bỏ.
III
. Đối phó với thách
thức về mặt giới luật
Tuy
nhiên, trong lúc có thể có những lập luận mạnh mẽ trong kinh điển và
đạo
đức ủng hộ cho việc phục hồi Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni, bước tiến này
không
thể thực hiện nếu những chống đối về mặt giới luật đối với phong trào
này không đưọc giải quyết. Những Luật gia bác bỏ vấn đề phục hồi việc
thọ đại giới Tỳ-kheo-ni, không hẳn là vì thiên kiến đối với phụ nữ (
mặc
dù một số có thể có thiên kiến đó), nhưng vì họ thấy thủ tục này không
thể thực hiện được về mặt giới luật. Để phục hoạt Giáo đoàn
Tỳ-kheo-ni,
ba điểm thách thức mà những Luật gia Nguyên Thủy đặt ra cần phải được
giải quyết. Đó là những thách thức dựa trên :1) vấn đề thọ giới
sa-di-ni;
2) vấn đề thọ giới và huấn luyện Thức-xoa-ma-ni; và 3) vấn đề thọ cụ
túc
giới/ đại giới Tỳ-kheo-ni.
Ở đây,
tôi sẽ chỉ bàn về vấn đề thọ đại giới Tỳ-kheo-ni. Tuy nhiên, trước khi
làm việc này, trước tiên tôi muốn ghi nhận rằng lý thuyết về giới luật
của Phật giáo Nguyên Thủy thường pha trộn những qui định về giới luật
xuất phát từ các văn bản Luật Tạng và các bản Luận Tạng với những lời
diễn giải và nhận định đã được chấp nhận theo truyền thống qua nhiều
thế
kỷ. Tôi không muốn xem nhẹ truyền thống, vì truyền thống tiêu biểu cho
sự tích lũy kinh nghiêm giới luật của nhiều thế hệ chuyên gia Luật
Tạng,
và dĩ nhiên là những kinh nghiệm này cần phải được tôn trọng và cứu
xét
trong khi quyết định Luật Tạng cần phải được áp dụng như thế nào trong
những hoàn cảnh mới. Nhưng chúng ta cũng phải nhớ rằng truyền thống
không nên được đặt ngang hàng với Luật Tạng hoặc thậm chí với tài liệu
có giá thứ yếu như là các bài luận giải
(Atthakathas)
và tiểu luận ( Tikas). Những nguồn tài liệu ấy cần phải được ấn định
nhiều mức độ giá trị thẩm quyền khác nhau tùy theo nguồn gốc khác nhau
của chúng. Tuy nhiên, khi sự hiểu biết của chúng ta về Luật Tạng đặt
nặng căn bản theo truyền thống, chúng ta có thể vô tình bị vướng vào
mạng lưới nhận định của các Luật gia bảo thủ và điều này ngăn cản khả
năng phân biệt của chúng ta về những gì được rút ra từ Luật Tạng và
những gì do truyền thống qui định. Đôi lúc chỉ cần thay đổi những
nhận định ấy cũng có thể diễn giải lại các nguyên tắc Luật Tạng với sự
hiểu biết hoàn toàn mới.
Tôi
sẽ minh họa điểm này bằng phương pháp loại suy hình học. Một đường
thẳng
được kẻ ngang qua một điểm. Khi đường thẳng này kéo dài ra thì khoảng
cách giữa hai đầu mút càng rộng hơn. Rõ ràng là hai đầu mút ấy sẽ
không
bao giờ gặp nhau, và nếu có người nào tỏ ra nghi ngờ về điểm này, chắc
là tôi sẽ chất vấn tính hợp luận lý của người này. Nhưng sự kiện xảy
ra
như vậy chỉ vì tôi đang suy nghĩ trong phạm vi của hình học truyền
thống,
hình học Euclide, vốn đã giữ vững ảnh hưởng trong toán học cho đến thế
kỷ thứ 20. Tuy nhiên, khi chúng ta chấp nhận lập trường của hình học
vòng tròn ( spherical geometry), chúng ta có thể thấy rằng một đường
thẳng kẻ ngang qua một điểm nào đó, nếu được kéo dài đủ xa, cuối cùng
hai đầu mút của nó sẽ gặp nhau. Một lần nữa, trong hình học truyền
thống,
chúng ta được dạy rằng một tam giác chỉ có thể có nhiều nhất là một
góc
vuông và tổng số các góc của một tam giác phải bằng 180o, và điều này
có
thể chứng minh tuyệt đối chặt chẽ. Nhưng sự kiện chỉ xảy ra như thế
trong không gian Euclide. Hãy cho tôi một vòng tròn, và chúng ta có
thể
định nghĩa một tam giác có ba góc vuông và tổng số các góc bằng 270o.
Như vậy, nếu tôi từ bỏ những nhận định quen thuộc của mình, một loạt
những khả năng mới bỗng mở rộng tầm hiểu biết của tôi.
Cũng
vậy đối với hiểu biết của chúng ta về Luật Tạng. Đối với lý thuyết bảo
thủ, những nhận định căn bản là: i) việc truyền đại giới do nhị bộ
tăng
thực hiện được qui định để áp dụng cho mọi trường hợp và không chấp
nhận
một ngoại lệ hay điều chỉnh nào để thích hợp với hoàn cảnh; ii) và
Phật
giáo Nguyên Thủy là tông phái duy nhất gìn giữ truyền thống Luật Tạng
đích thực. Một khi những nhận định ấy được chấp nhận, sẽ không còn một
lối thoát nào đối với kết luận rằng Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni đã đứt đoạn
vĩnh viễn. Tuy nhiên, những người ủng hộ việc phục hoạt Ni đoàn lại
hoạt
động với những nhận định khác. Đối với họ, điểm khởi đầu căn bản là
quyết định của Đức Phật thành lập Ni đoàn. Thủ tục truyền giới chỉ là
cơ
chế giới luật để thực hiện quyết định đó. Từ lập trường này, ngăn
chận
việc áp dụng quyết định ấy chỉ vì một điểm về cơ chế giới luật tức là
cản trở việc hoàn thành ý định của chính Đức Phật. Điều này không có
nghĩa là phương cách thực hiện đúng đắn quyết định ấy sẽ vi phạm những
qui định của Luật Tạng. Nhưng bên trong những qui định bao quát ấy,
hai
nhận định của phe giới luật bảo thủ có thể vượt qua bằng một hoặc cả
hai
điểm sau đây : i) trong những trường hợp ngoại lệ Tăng đoàn có thể áp
dụng việc truyền giới Tỳ-kheo-ni do nhất- bộ-tăng thực hiện, dựa trên
lời dạy của Đức Phật: “ Này các Tỷ kheo, ta cho phép các thầy truyền
giới Tỳ-kheo-ni”; ii) để duy trì hình thức truyền giới do nhị-bộ-tăng
thực hiện, Tăng đoàn Nguyên Thủy có thể kết hợp với một Ni đoàn từ một
nước Đông Á theo “ Tứ Phần” Luật Pháp Tạng Bộ.
Phương cách truyền giới này có thể không thoả mãn được yêu cầu khắc
khe
nhất của lý thuyết Luật Tạng Nguyên Thủy bảo thủ, nghĩa là, việc
truyền
giới phải được thực hiện bởi nhị bộ Tỳ-kheo-tăng và Tỳ-kheo-ni, và
những vị này phải được thọ giới từ những Tỳ-kheo-tăng và Tỳ-kheo-ni
Nguyên Thủy của một dòng truyền thừa không đứt đoạn. Nhưng làm cho đòi
hỏi không thể thực hiện này trở thành một yêu cầu không khoan nhượng
trong vấn đề phục hoạt giáo đoàn Tỳ-kheo-ni thì có vẻ khắt khe một
cách
vô lý. Theo quan điểm của nhiều vị tăng Nguyên Thủy uyên thâm, chính
yếu
xuất phát từ Tích lan, thì chấp nhận một trong hai phương cách đã nêu
trên sẽ đưa đến đỉnh cao là một cuộc truyền giới Tỳ-kheo-ni đúng luật
và
cùng lúc đó điều này sẽ ban cho phụ nữ cơ hội được sống cuộc đời phạm
hạnh theo đúng phương cách Đức Phật đã có ý định muốn cho ni chúng
được
theo đuổi - đó là cuộc sống của những Tỳ-kheo-ni đã thọ đại giới.
Đại
giới đàn Tỳ-kheo-ni được tổ chức tại Bồ Đề Đạo Tràng dưới sự bảo trợ
của
Tu Viện Phật Quang Sơn, đã kết hợp cả hai phương cách trên. Phương
pháp
này đem lại kết quả mỹ mãn hơn là chỉ theo một trong hai phương cách
mà
thôi. Lễ đại giới đàn đã qui tụ Tỳ kheo thuộc nhiều truyền thống khác
nhau - Đại thừa Trung quốc, Nguyên Thủy, và Tây Tạng – cùng với các
Tỳ-kheo-ni Đài loan và Tây phương để cử hành lễ thọ đại giới gồm đầy
đủ
nhị bộ tăng theo truyền thống Trung quốc. Những vị ni được thọ giới
gồm
có các ni Nguyên thủy từ Tích lan và Nepal, cũng như các ni Tây phương
theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Người ta có thể nghĩ rằng đây là
nghi lễ của Đại thừa và các ni được thọ giới sẽ trở thành Tỳ-kheo-ni
Đại
thừa, nhưng đây là một sự hiểu lầm. Trong khi các tăng ni Trung quốc
là
những vị theo Phật giáo Đại thừa, truyền thống Giới Luật mà họ tuân
thủ
không phải là Giới Luật Đại thừa nhưng là Giới Luật Pháp Tạng Bộ (
Dharmaguptaka), đó là bộ luật thuộc về truyền thống Phân Tích Bộ
(Vibhajyavada)
của tông phái Nguyên Thủy cổ sơ ở phương nam. Đây chính là bộ phái
tương đương với tông phái Nguyên Thủy ở tây bắc Ấn Độ, với bộ sưu tập
kinh điển, Luận A-tỳ-đàm và một Luật Tạng phần lớn tương ứng với Luật
Tạng Pali. Như vậy đại giới đàn do Tăng đoàn Trung quốc thực hiện ở Bồ
Đề Đạo Tràng truyền đại giới thuộc dòng Pháp Tạng Bộ, và theo ngôn ngữ
giới luật, các vị ni này bây giờ là những Tỳ- kheo-ni thọ đẩy đủ đại
giới theo dòng truyền thừa của Giới Luật Pháp Tạng Bộ.
Tuy
nhiên, các Tỳ-kheo-ni ở Tích lan muốn trở thành những người kế thừa
dòng
Luật Tạng Nguyên Thủy để có thể được tăng đoàn Tích lan chấp nhận.
Những
Tỳ kheo Tích lan đã bảo trợ cho việc thọ đại giới cũng lo ngại rằng
nếu
các vị Tỳ-kheo-ni này trở về Tích lan với việc thọ đại giới từ Trung
quốc mà thôi, thì những người đồng đạo của họ sẽ xem việc thọ giới ấy
chính yếu là thuộc tông phái Đại thừa. Để tránh việc này, chỉ một thời
gian ngắn sau đó, các vị tân Tỳ-kheo-ni đi đến thành phố Sarnath, nơi
đó
chư ni lại trải qua một cuộc thọ đại giới khác được tiến hành bằng
tiếng
Pali do các vị Tỳ-kheo Nguyên thủy ở Tích lan thực hiện. Việc truyền
giới này không phủ nhận việc truyền đại giới trước đây do nhị bộ tăng
thuộc Tăng đoàn Trung quốc thực hiện, nhưng chỉ bổ túc và ban cho việc
thọ đại giới ấy một hướng đi mới. Việc truyền đại giới do nhị bộ tăng
thực hiện ở Bồ Đề Đạo Tràng công nhận chư ni ấy là Tỳ-kheo-ni, nhưng
là
những vị được truyền thừa từ dòng Luật Pháp Tạng Bộ, và cuộc truyền
giới
tiếp theo do Tăng đoàn Nguyên Thủy thực hiện ở Sarnath đã chính thức
đưa
các vị Tỳ-kheo-ni này vào Giáo đoàn Nguyên Thủy. Bây giờ các vị
Tỳ-kheo-ni được quyền tuân theo Luật Tạng của kinh điển Pali và thực
hiện những nhiệm vụ cần thiết của các giới tràng cùng với huynh đệ của
họ trong Giáo đoàn Nguyên Thủy của Tích lan.
Trong
lúc việc truyền đại giới với đầy đủ nhị bộ tăng chắc chắn là phương
cách
tốt hơn khi nào có điều kiện thực hiện, một trường hợp khác cũng được
nêu
lên để chứng minh việc truyền đại giới có thể chỉ do tăng đoàn Nguyên
Thủy thực hiện mà thôi. Người ta có thể lập luận rằng trong những
trường
hợp ngoại lệ, khi một Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni đã đứt đoạn, thì tăng đoàn
Nguyên Thủy được quyền đưa ra trường hợp thời cổ sơ như là một tiền lệ
khi chưa có Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni, và phục hồi điều lệ của Đức Phật đã
cho phép chỉ một mình Tăng đoàn truyền đại giới cho Tỳ-kheo-ni. Điều
lệ
này có thể được bảo vệ dựa trên nguyên tắc loại suy: khi một phương
cách
ngoại lệ được sử dụng trong một số những trường hợp để đạt được mục
đích
mong muốn, thì trong một số trường hợp tương tự như thế về mọi phương
diện, nếu không còn phương cách nào để đạt được mục đích mong muốn,
chúng ta có thể áp dụng lại phương cách ngoại lệ ấy. Trong trường hợp
này, chúng ta tìm thấy hoàn cảnh xuất phát điều lệ ấy vào thuở Giáo
đoàn
Tỳ-kheo-ni đầu tiên được hình thành, khi Tăng đoàn bị đặt vào một hoàn
cảnh tiến thối lưỡng nan. Điều lệ thứ sáu của Bát Kỉnh Pháp đòi hỏi
việc
truyền giới Tỳ-kheo-ni phải do nhị bộ tăng thực hiện, nhưng thời đó
chưa
có Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni. Vậy làm thế nào Tăng đoàn vượt qua khó khăn
bế
tắc này ? Theo kinh điển, thì Đức Phật đã dạy:” Ta cho phép các thầy
truyền giới Tỳ-kheo-ni”. Và vì thế, các Tỳ-kheo tiếp tục truyền giới
cho
các Tỳ-kheo-ni cho đến khi nhị bộ tăng trở thành qui định hiện thực.
Hoàn cảnh này gần như giống y hệt hoàn cảnh chúng ta gặp phải gần đây,
khi có những phụ nữ muốn được thọ đại giới Tỳ-kheo-ni theo truyền
thống
Nguyên Thủy nhưng không có Tỳ-kheo-ni Nguyên thủy nào để truyền giới
cho
họ. Vì thế, một giải pháp đã được đề nghị là cho phép Tỳ kheo tăng
Nguyên Thủy sử dụng sự ủy quyền, vốn chưa bao giờ bị hủy bỏ, để truyền
giới Tỳ-kheo-ni cho đến khi một Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni có chức năng
hoạt
động thực sự được hình thành. Đây là phương cách mà tăng đoàn Tích
lan
đã áp dụng ở Sarnath để ban cho các Tỳ-kheo-ni Tích lan lần truyền
giới
thứ hai và chính thức đưa các vị này vào Tăng đoàn Nguyên Thủy.
Tuy
nhiên, bây giờ thì Ni đoàn Nguyên Thủy đã được phục hoạt tại Tích lan,
không còn lý giải nào để biện minh cho việc truyền đại giới do nhất bộ
tăng thực hiện mà thôi. Nếu một phụ nữ muốn thọ giới Tỳ-kheo-ni theo
truyền thống Nguyên Thủy, người ấy phải được huấn luyện giới hạnh
Thức-xoa-ma-ni và cuối cùng sẽ thọ đại giới Tỳ-kheo-ni ở Tích lan.
Chắc
chắn đây đúng lúc là cơ hội để việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni được
truyền
bá rộng rãi ở Tây phương.
Kết luận
Sự
kiện Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni bị đứt đoạn đã đặt ra cho chúng ta một hoàn
cảnh không được đề cập rõ ràng trong Luật Tạng, và như vậy đó là một
hoàn cảnh không có được một phương cách giải quyết rõ ràng. Theo như
tôi
hiểu, chúng ta không thể đọc Luật Tạng bằng một thái độ định kiến như
là
cho phép vô điều kiện hoặc hoàn toàn ngăn cấm việc phục hoạt Giáo đoàn
Tỳ-kheo-ni. Những thái độ đó là kết quả của việc diễn giải, và việc
diễn
giải thường phản ảnh thái độ của người diễn giải trong khuôn khổ
những
nhận định của người ấy, cũng như phản ảnh ngôn từ của văn bản Luật mà
người ấy sử dụng.
Theo
ý kiến của tôi, để giải quyết vấn nạn này, câu hỏi trước tiên chúng ta
phải nêu lên là :” Đức Phật muốn các vị đệ tử trưởng lão của ngài
làm gì trong tình huống như vậy, bây giờ, trong thế kỷ thứ 21 này ?”.
Có phải Ngài muốn chúng ta áp dụng những qui luật điều hành việc thọ
đại
giới theo phương cách loại bỏ phụ nữ ra khỏi đời sống xuất gia đầy đủ
phạm hạnh, để cho chúng ta trình bày với thế giới một tôn giáo trong
đó
chỉ có nam giới được quyền sống đời xuất gia trọn vẹn ? Hay là thay
vào
đó, Ngài muốn chúng ta áp dụng những điều lệ của Luật Tạng theo một
phương cách từ bi, rộng lượng và bao dung, và từ đó hiến tặng cho thế
giới này một tôn giáo thật sự là biểu tượng của công lý và không phân
biệt đối xử ?
Chúng
ta không thể có câu trả lời ngay tức khắc cho những câu hỏi này trong
bất cứ một văn bản kinh điển hay truyền thống nào, nhưng tôi không
nghĩ
rằng chúng ta hoàn toàn bị rơi vào ý kiến chủ quan. Từ các văn bản
kinh
điển, chúng ta có thể thấy khi thực hiện những quyết định quan trọng,
Đức Phật đã biểu lộ cả lòng từ bi lẫn tính nghiêm minh của giới luật,
chúng ta có thể thấy là trong khi qui định những tiêu chuẩn hành xử
của
Tăng đoàn, Ngài đã xem xét những kỳ vọng về mặt văn hóa và xã hội của
những người đương thời với Ngài. Vì vậy, để tìm ra một giải pháp cho
vấn
nạn của chính chúng ta, chúng ta có hai kim chỉ nam hướng dẫn để hành
động. Một là cần phải đúng với tinh thần của Giáo Pháp – đúng cả chữ
nghĩa lẫn tinh thần, nhưng trên hết là đúng với tinh thần. Hai là phải
đáp ứng được những tầm nhận thức về mặt văn hoá, tri thức và xã hội
của
nhân loại trong thời đại lịch sử đặc biệt mà chúng ta đang sống, thời
đại mà chúng ta đang nỗ lực hình thành số phận tương lai của chính
chúng
ta và số phận tương lai của Phật giáo. Được nhìn trong ánh sáng này,
vấn
đề phục hoạt Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni có thể xem như một điều thực chất
tốt
đẹp phù hợp với tinh thần cốt lõi của Giáp Pháp, giúp cho việc hoàn
thành sứ mạng của chính Đức Phật là “ mở cánh cửa Bất tử” cho
tất
cả chúng sanh, cho nữ giới cũng như nam giới. Cùng lúc đó, sự hiện hữu
của một Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni có thể hoạt động như một công cụ tốt đẹp.
Điều này sẽ cho phép ni giới thực hiện nhiều đóng góp có ý nghĩa cho
Phật giáo bằng nhiều cách giống như tăng giới - họ có thể là những
giảng
sư, học giả, thiền sư, nhà giáo dục, cố vấn xã hội, và những vị hướng
dẫn nghi lễ - và có lẽ trong một vài trường hợp độc đáo chỉ dành cho
các
vị ni sư, thí dụ như là làm cố vấn tâm lý và người hướng dẫn cho nữ cư
sĩ. Một Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni cũng sẽ giúp cho Phật giáo nhận được sự
kính trọng của những bậc thức giả trên thế giới, những người xem vấn
đề
không phân biệt nam nữ là dấu hiệu của một tôn giáo thật sự xứng đáng
hài hoà với những khuynh hướng cao thượng của nền văn minh hiện đại.
Source :
"The Revival of Bihkkhuni Ordination in the
Theravada
Tradition" ? Buddhist Fellowship of
Singapore Website.
General News/Comment with regards to Bhikkhuni Ordination/5/11/09 )