Long Thọ (Nagarjuna) sinh ra vào khoảng thế kỷ II – III TL tại Ấn Độ, khi
xã hội có những biến động về kinh tế, chính trị, tư tưởng...Ngài đã sáng tác Trung
quán Luận là một bộ luận quan
trọng nhất, với triết lý Tính Không, với biện chứng pháp phủ định độc nhất vô
nhị. Nguồn gốc tư tưởng Đại thừa Phật giáo đã có từ thời
Đức Phật còn tại thế. Tư tưởng Đại thừa ban đầu bắt nguồn từ phía Nam Ấn Độ, nơi
căn cứ của Đại Chúng Bộ. Cũng ở đây đã nảy nở ra tư tưởng “Bát Nhã”, cội nguồn
của tư tưởng “Không”.
Long Thọ Bồ Tát được gọi là Thích Ca Mâu Ni thứ 2
Nếu như Mã Minh Bồ Tát
là người khởi sướng ra tư tưởng Đại thừa thì Long Thọ đã có công hệ thống, chú
thích, luận giải và hệ thống những kinh điển đã có sẵn trên tinh thần Đại thừa,
từ đó khẳng định tư tưởng Đại thừa đã có sẵn trong kinh điển gốc Nguyên thủy
như: Đại Phẩm Bát Nhã gồm 25000 bài
tụng tức Phóng Quang Bát Nhã; Tiểu Phẩm
Bát Nhã gồm 8000 bài tụng, tức là Hành Đạo Bát Nhã, để hiểu biết được chư
pháp đều là không; Duy Ma Kinh cũng
chủ trương tư tưởng “không”(1). Điểm chung trong kinh điển là tư tưởng về bản thể Không, mà Long Thọ đã nắm
bắt, thể hiện trong Trung Quán Luận.
Có thể nói nguồn gốc tư tưởng của Trung
Quán Luận ở ngay trong hệ thống kinh điển vốn có của Phật giáo Nguyên thủy.
Đặc biệt là bộ Kinh tạng Bát Nhã -
một bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, mà Long Thọ đã chú thích, luận giải tư
tưởng “không” trong đó một cách hệ thống trên tinh thần mới mẻ của Đại thừa, và
cũng như sau này ông sáng tác thành công Trung
Quán Luận bất hủ.
Tóm lại, về mặt tư tưởng, Long Thọ tiếp thu tư tưởng Đại thừa
của các nhà tư tưởng Phật giáo đi trước, và với trí tuệ xuất sắc “biện tài nghị
biện vô ngại”, và ông được coi là một trong những triết gia đầu tiên trong cuộc
cách tân lịch sử tư tưởng Phật giáo Đại thừa.
- Kinh Bát Nhã - một bộ kinh tối cổ của
Phật giáo Đại thừa
Về niên đại của văn bản, Kinh
Bát Nhã là một bộ kinh tập hợp lâu dài nhất, qua nhiều thế kỷ, từ thế kỷ I
TCN tới thế kỷ III SCN, và còn tiếp tục về sau. Đây chính là bộ kinh Đại thừa
đồ sộ xuất hiện sớm nhất.
Tên bộ kinh lớn đầy đủ là Đại
Bát Nhã Ba La Mật Đa (Skrt: Maha-
Prajna paramita). Tiếng Phạn Prajna chuyển
âm Hán-Việt là Bát Nhã, nghĩa là trí tuệ,
thông thái rốt ráo, hoàn hảo. Kinh Bát Nhã nhờ phát hiện của Long Thọ
đã trở thành kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Song trước đó nó chỉ
được coi là văn học loại văn nghệ. Kinh Bát Nhã từ đó được coi là giáo pháp
thông cả ba thừa (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát) do chính đức Phật tổ thuyết
giảng. Cũng theo các Phật truyền thì Kinh
Bát Nhã được đức Phật giảng tại 16 hội khác nhau như: giảng tại núi Linh
Thứu, thành Vương Xá, Phật, tại Lâm Viên Kỳ Đà của Cấp Cô Độc, thuộc Thất La
Phiệt Thành, tại Ma Ni Bảo điện, cung Tha Hóa Tự Tại, cuối cùng Phật giảng tại
hồ Bạch Lộ thuộc tịnh xã Trúc Lâm Phật giảng hội 16. Toàn bộ truyền thuyết này nhằm chứng minh rằng Kinh Bát
Nhã là bộ kinh nguyên thủy nhất của giáo lý Đại thừa, vốn có từ thời đức
Phật tổ. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu bộ kinh này chưa được chú trọng, sau tới
khoảng 700 năm sau Phật diệt, khoảng cuối thế kỷ thứ II-III SCN, Long Thọ là
người đầu tiên sưu tập và hệ thống lại Kinh Bát
Nhã.
Nội dung tư tưởng của kinh Bát
Nhã từ nguyên thủy đã xác định rõ mục đích giải thoát, nhằm đạt tới Niết
Bàn là bằng đạo đức, trí tuệ và tu hành thiền định mà đức Phật tổ đã vạch rõ
trong Tứ Diệu Đế. Kimura Taiken có nhận định rằng: “Bát nhã là bộ kinh tối cổ và căn bản nhất trong các kinh Đại thừa.
Tư tưởng “không” trong kinh Bát nhã
là kết luận của Duyên - sinh - quan trong Nguyên thuỷ Phật giáo, là một tổng
hợp của các tư tưởng “không” đối với bộ phái Phật giáo mà đã đồng thời phát
đạt. Nhân - sinh - quan, thế - giới -
quan trong tất cả các kinh Đại thừa đều được xây dựng trên nền tảng Bát Nhã”(2).
Do vậy, tư tưởng Bát nhã chính là
“sản phẩm đầu tiên của Đại thừa, dù nói theo thể động hay thể tĩnh, nó đã trở
thành cơ sở của tất cả tư tưởng Đại thừa” ([2]). Hoà thượng Thích Trí Thủ đã
khẳng định trong chuyên khảo Bát Nhã Tâm Kinh rằng vai trò, vị trí đặc biệt của nó đối với
toàn bộ tư tưởng Đại thừa: “…nói đến Phật giáo Đại thừa là nói đến Bát nhã, vì
không có Bát nhã thì không thể có Phật giáo Đại thừa, Bát nhã là đầu mối, là
mạch nguồn để từ đó các trào lưu Đại thừa khởi dậy”(3).
Về
niên đại, hiện nay còn có ý kiến chưa thống nhất về niên đại xuất
hiện các tập Bát nhã này. Tuy nhiên,
có quan niệm khác cho rằng, những bản kinh nào có dung lượng lớn nhất thì là
những kinh nguyên thuỷ còn kinh ngắn là phần lược bớt của những người về sau
này(4).
Qua quá trình nghiên cứu, họ cho rằng, bản
kinh Bát Nhã xuất hiện sớm nhất chính
là Bát Thiên Tụng Bát Nhã (Astasahasrika
prajnaparamita) hay còn gọi là Tiểu phẩm
Bát Nhã. Bản kinh này xuất hiện vào khoảng thế kỷ I TCN và “Bát nhã-ba-la-mật-đa này được bắt đầu từ
phương Nam,
rồi truyền sang phương Tây, lại từ phương Tây truyền sang phương Bắc”(5).
Về
tính chính truyền của văn bản, Kinh tạng Bát nhã được tập thành
tương đối muộn so với kinh tạng nguyên thuỷ, khoảng 400 năm sau Phật nhập Niết
bàn. Tuy nhiên, kinh Bát Nhã vẫn đảm
bảo được nội dung giáo lý căn bản của Phật dạy như: giáo lý Duyên khởi, Tứ đế, Thập nhị nhân duyên,
Bát chính đạo, Tứ niệm xứ, Ngũ uẩn... Bởi thế, các nhà Đại thừa sau này đều coi
kinh Tạng Bát Nhã là những kinh văn
chính truyền của Phật và được các đệ tử, luận sư triển khai rộng rãi theo nhu
cầu phát triển của Phật giáo mỗi giai đoạn cụ thể([4])
Theo Đại Trí Độ Luận (Maha
prajnaparamita sastra), là một tác phẩm luận giải quan trọng về tư tưởng Bát
nhã, khi nêu lên nghi vấn: “vì nguyên nhân gì mà Phật thuyết kinh Đại Bát Nhã”. Đại sư Long Thọ đưa ra
nhiều lý do để giải quyết vấn đề này: “vì muốn giảng đầy đủ các hạnh Bồ tát, vì
muốn phá vỡ những quan niệm cực đoan trong tâm thức đệ tử và đưa họ vào trung
đạo nên Phật thuyết Kinh Đại Bát Nhã-Ba-La-mật(6). Hay vì “… muốn dùng cách
khác để nói về Tứ niệm xứ, về Ngũ uẩn, nên Phật thuyết Kinh Đại bát nhã Ba-la-mật-đa”([6]). Thế nên, ngay từ thế kỷ II SCN
luận sư Long Thọ xác nhận kinh tạng Bát
nhã chính là “dùng kiểu khác” để lý giải về giáo lý nguyên thuỷ. Đó là lý
do mà các nhà Đại thừa sau này đều thống nhất khẳng định tính chính truyền của Kinh tạng Bát nhã cũng như một số kinh
điển khác của Đại thừa.
Tóm lại, trong các kinh điển Đại thừa, thì kinh Bát Nhã được hình thành sớm nhất và làm nền tảng tư tưởng cho sự
phát triển toàn bộ các nhánh phái Đại thừa về sau.
2.
Cốt
lõi tư tưởng của Bát nhã được Long Thọ phát triển trong Trung Quán Luận
Hoà thượng
Thích Thiện Hoa có nhận xét rằng: “Phật nói kinh Đại Bát Nhã, tại 4 chỗ, 16 hội, chép đến 600 quyển mới
hết (Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm). Kinh
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, gọi tắt là Kinh Kim Cương là tóm tắt cô
đọng nhất toàn bộ kinh Đại tạng Bát Nhã.
Rút gọn lại hơn trong một bài kinh là "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm
Kinh, gọi tắt là Tâm Kinh, gồm 260 chữ. Hơn nữa, Phật còn dạy:
"Ta không nói một chữ”(7).
Hình ảnh Long Thọ Bồ Tát thế kỷ II- III SCN
Tư tưởng cốt lõi của kinh Bát Nhã là
bàn về bản thể “Không của vạn pháp”. Hiểu được chữ “Không” này là hiểu được
toàn bộ hệ thống Kinh Bát Nhã.
Trọng tâm của Kinh Bát Nhã Ba La Mật là dùng trí Bát Nhã, phá trừ rốt ráo (Ba la mật) các vô minh vọng chấp: ngã,
pháp hay bốn tướng" (Ngã, Nhân, Chúng sinh và Thọ giả), để vượt ngoài mọi
đối đãi nhị nguyên.
Dựa
trên tư tưởng Tính không này trong kinh Bát nhã mà Long Thọ đã triển
khai phát triển thành tư tưởng “Trung Đạo” xuyên suốt trong tác phẩm Trung
Quán Luận. Mục đích của Trung Quán Luận là nhằm phá hai thứ chấp căn
bản của Phật giáo Tiểu thừa, và khả năng chuyển biến cái giá trị căn bản của nhân
sinh, và đưa nhân sinh tới chỗ vượt hẳn sự đối lập nhị phân về khổ-vui,
giầu-nghèo, mê-ngộ, hay thiện-ác(8).
Tư tưởng “chân không diệu hữu” của Kinh Bát Nhã chính là cốt lõi cơ bản của
tư tưởng Đại thừa Phật giáo, mà Trung
Quán Luận của Long Thọ đã kế thừa phát triển.
3. Giới
thiệu chung về Trung Quán Luận
Dần
theo thời gian 300, 400 năm sau Phật nhập Niết Bàn, các bộ phái cứ tiếp tục ra
đời và con số đã lên đến 20. Mỗi một học phái chủ trương theo một đường lối
nhận thức khác nhau. Vào khoảng thế kỷ thứ I, II SCN, các quan niệm về Đại thừa
có từ thời kỳ Bộ phái dần định hình và Phật giáo Đại thừa xuất hiện như một
khuynh hướng tư tưởng tự do của Phật giáo lúc đó. Song, những tư tưởng, nhận
thức sai lầm, xuyên tạc lời và ý Phật cũng không ít. Đứng trước tình cảnh hỗn
loạn của tư tưởng giới Phật học Ấn Độ đương thời, Bồ tát Long Thọ bắt đầu
trước tác bộ Trung Quán luận bằng phương pháp phủ định biện chứng nhằm
thống nhất giáo lý Phật giáo trên tư tưởng Đại thừa trước các lý luận bảo thủ
cố chấp và ngoại đạo tà giáo. Đóng góp của Trung
Quán Luận là đáp ứng đòi hỏi về tư tưởng triết học của Phật giáo trong
một thời kỳ phát triển mới về chất.
3.1.
Giới thiệu về văn bản, dịch bản của Trung Quán Luận
Tác
phẩm gốc của bộ luận này nguyên văn bằng tiếng Sanskrit được soạn tại Ấn Độ.
Cũng giống tình trạng các kinh điển, nhiều luận điển có liên quan đến Phật
giáo Đại Thừa hầu hết đã bị thất lạc do quá trình tranh chấp giữa các
đạo với Phật giáo, nhằm hạ gục nhau về mặt tư tưởng giáo lý, cách sinh hoạt tu
tập hằng ngày... Nhưng những bản dịch
sang Trung ngữ, Nhật ngữ và Tây Tạng ngữ thì hiện vẫn còn được lưu
giữ khá tốt đã góp phần bảo tồn một cách hiệu quả nhiều kinh điển của Phật
giáo Ấn Độ.
Trung Quán Luận nó được coi là nền tảng của trường phái Trung Quán ở Ấn Độ, đến thế kỷ V đã được
truyền sang Trung Quốc và được dịch sang Hán ngữ để truyền bá và phổ cập, rồi
được coi là một trong ba kinh điển nền tảng của phái Tam Luận Tông ở Trung Quốc(9).
Chính
vì để thực hành quán tưởng nên mặc dù nhan đề của ngài Long Thọ là Trung Luận hay Trung Đạo Luận, nhưng về sau, các đại sư Trung Quốc (nhất là Tam Luận tông) lại thêm vào chữ Quán
thành Trung Quán Luận. Điều này cũng
hợp lý vì mỗi phẩm theo bản dịch của Cưu Ma La Thập đều bắt đầu bằng chữ Quán hay
Phá. (10).
Những bản dịch về Trung Quán Luận thì rất
nhiều, mỗi thời có những dịch giả khác nhau: Bản dịch Hán văn Trung Quán Luận của Cưu Ma La Thập đến này vẫn được giới Phật học
coi là văn bản chuẩn mẫu mực nhất. Bản dịch này liên tục được dịch tiếp sang
các thứ tiếng khác trong quá trình tryền bá và phát triển Phật giáo Đại thừa
nói chung và Thiền Tông Trung Quốc nói riêng. Bên cạnh bản dịch, còn có các bản
chú giải khác như: Ngài Vô Trước (Asvagosha) chú giải và Cù Đàm Bát Nhã Lưu Chi
(Gautama- Prajnaruci) dịch với tựa đề “Thuận
Trung Luận Nhập Đại Bát Nhã Ba La Mật Sơ Thẩm Pháp Môn” gồm 2 quyển; Cưu Ma
La Thập (đời Hậu/ Diêu Tần) dịch sang Hán, được coi là văn bản mẫu mực nhất đến
nay; Trung Quán Thích Luận do An Tuệ
chú giải, Duy Tịch đời Tống dịch ra Hán văn, lấy tựa là Đại thừa Trung Quán Thích Luận, gồm có 9 quyển; Bát Nhã Đăng Luận Thích của Thanh Biện
chú giải, Ba La Phả Mật Đa La dịch ra Hán văn với lời bạt có tên Bát Nhã Đăng Luận Thích, gồm 15 quyển.
Hiện nay có một số bản dịch Trung Quán Luận
sang Tiếng Việt như là: Bản
dịch Việt ngữ Trung Quán Luận
của HT Thích Tâm Thiện, từ “bản Hán dịch của Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La
Thập”, có dẫn chứng nguyên văn bản gốc bằng tiếng Phạn của tác phẩm Trung Quán
Luận của Long Thọ Bồ tát, có kèm theo bản dịch của Cưu Ma La Thập dịch sang Hán
văn, và do Thanh Biện chú giải. Bản Dịch và giải của Chánh Tấn Tuệ về Trung Quán Luận vào năm 2001, Nxb Tôn
Giáo. Bản dịch và giảng của Thích Thanh
Từ về Trung Quán Luận vào năm 2008,
Nxb Tôn giáo. Ngoài ra còn có nhiều bản dịch và chú giải khác của nhiều dịch
giả và Phật học ở phương Đông cũng như phương Tây([9]).
Nhìn
chung trong số bản dịch trên, bản dịch đã lấy được các ý cho mọi người dễ hiểu,
bất chấp là dài hay ngắn, mục đích là câu cú đời thường dễ hiểu. Ví dụ như theo
kệ chữ Hán là 4 câu năm chữ, nhưng khi dịch sang nghĩa tiếng Việt thì lại nhiều
chữ hơn: “Bất sinh diệc bất diệt” dịch là: “Tất cả pháp vốn không sinh cũng
không diệt”(11).
3.2.
Khái lược nội dung và kết cấu của Trung Quán Luận
- Về nội dung Trung Quán Luận, mỗi chương đều có những nội dung riêng
biệt với mục đích chính là lý giải cho được tư tưởng chính của Phật về các pháp
đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, thực tướng của chúng là Tính Không; Mục
đích là nhằm để “phá” sai lầm của cả Tiểu thừa cũng như của Đại thừa, trong
tiến trình dựng xây kiến giải mới, cũng như “phá” chấp để phục hưng chính pháp.
27 chương đó có thể chia thành nhiều cách khác nhau cũng là biện pháp để nghiên
cứu thấu đáo hơn tư tưởng triết học của Long Thọ. Song nếu nhìn khái quát toàn
bộ, Trung Quán Luận là một bộ luận có
tính khái quát cao, trình bày một cách hệ thống khúc chiết các vấn đề cơ bản
của Phật giáo Đại thừa: Nguyên lý Tính Không (Sunyata), phương pháp Trung đạo,
Duyên khởi cũng chỉ là một trong “chân như diệu hữu” hay “trung đạo”.
Cũng
như nhiều nhận định của các nhà nghiên cứu cho rằng: “Bồ Tát Long Thọ dựa trên
tư tưởng Kinh Kim cương Bát Nhã sáng
tác bộ Trung Quán Luận, đưa ra học
thuyết Chân Không (Sunya), một tư tưởng luận lý mới mẻ, chặt chẽ, tinh vi, làm
xáo động học lý truyền thống tôn giáo Ấn Độ thời bất giờ. Các triết gia, học
giả phương Tây ngày nay cũng khâm phục, tán dương phương pháp lý luận của Bồ
Tát Nagajuna có một không hai”(12).
Tuy
vậy, điểm gặp nhau của kết quả nghiên cứu nghiêm túc Trung Quán Luận là đều lĩnh hội được tư tưởng “nhất thiết pháp
không” của Long Thọ thể hiện nhất quán qua tất cả các chương, các quyển([11]).
- Về
kết cấu Trung Quán Luậ: Theo Thích Tâm Thiện đã chia kết cấu Trung Quán Luận gồm có 4 quyển, thành 27
phẩm, với 446 bài tụng. Mỗi bài tụng gồm 4 câu, mỗi câu có năm chữ, tổng cộng
gồm 1784 câu, tương đương 8920 chữ([11]). Cách chia này khá chi tiết, rõ ràng
và phù hợp với nhu cầu nghiên cứu về lịch sử tư tưởng và tư tưởng triết học của
đề tài Luận văn này. Song để chính xác hơn, có thể so sánh với một vài cách
chia kết cấu khác.
Nếu
như căn cứ vào nguyên bản Hán văn về Trung
Luận do Diêu Tần Tam Tạng Cưu Ma La Thập dịch thì Trung Luận được chia làm
bốn quyển: Quyển một bao gồm 27 phẩm:
từ phẩm 1. Quán nhân duyên...cho tới phẩm 27. Quán tà kiến. Nguyên bản dịch Hán văn của La
Thập có kết cấu gần với nguyên bản Sanskrit cũng là một tư liệu để chung ta
khảo cứu ý nghĩa của Long Thọ về mặt tư tưởng trong Trung Quán Luận.
Ngoài
ra còn các kết cấu khác, chẳng hạn, Chánh Tấn Tuệ cũng cho rằng kết cấu nội
dung của Trung Quán Luận có thể chia
thành 27 phẩm, trong mỗi phẩm đó gồm các bài tụng như phẩm 1. gồm 16 bài tụng;
2. gồm 25 bài tụng;…; 27. gồm 31 bài tụng. Tổng cộng gồm 426 bài tụng, mỗi bài
tụng có 4 câu, mỗi câu gồm 5 chữ, tổng cộng 8.680 chữ. Cách phân chia này giúp
cho người học, nghiên cứu, tu tập dễ tránh được nhầm lẫn, song cách chia theo
phẩm là chương vậy không đi sâu vào khai thác kết cấu tư tưởng trong đó(13).
Theo Hoàng Thị Thơ, kết cấu 27 chương của Trung Quán Luận nếu chia kết cấu theo tư
tưởng triết học thì có thể chia thành 2 phần chính: 25 chương đầu là phá chấp
của Đại thừa, còn 2 chương cuối là phá mê chấp của Tiểu thừa(14).
Đoàn
Trung Còn cho biết thêm rằng, “Bộ Trung
Luận kêu trọn chữ là Trung Quán Luận,
hiệp lại bốn quyển, minh ra cái lý chơn thiệt của nền Trung đạo Đại thừa. Do
ngài Long Thọ Bồ tát soạn hồi thế kỷ thứ hai, ngài Thanh Mục Bồ tát thích và
ngài Cưu Ma La Thập dịch ra Hán văn. Tất cả 500 câu kệ (nhưng thiệt ra chỉ có
496 câu), 27 phẩm, 25 phẩm đầu phá sự mê chấp của Đại thừa… Còn 2 phẩm cuối phá
sự mê chấp của Tiểu thừa…”. Ban đầu bộ luận này chỉ có 596 bài kệ sau này thành
500 bài kệ, có lẽ La Thập Dịch xong rồi thêm bốn bài kệ cho đủ 500 bài kệ,
thuận cho việc dễ nhớ dễ nghiên cứu, hiểu Trung
Quán Luận hơn(15). Tuy nhiên xét trên bình diện khách quan của các phẩm thì
chúng ta thấy các cách chia kết cấu trên đều có lý, cũng có thể làm cơ sở để
khảo cứu sau này về Trung Quán Luận.
Tóm
lại, bàn về nguồn gốc tư tưởng của Trung
Quán Luận, chúng ta đi sâu phân tích lịch sử Kinh Bát Nhã - một bộ kinh tối cổ của Phật giáo Đại thừa, và làm rõ
cốt lõi tư tưởng được Long Thọ phát triển từ Kinh Bát Nhã là tư tưởng
Tính Không. Long Thọ đã tiếp thu tư tưởng Không của Bát Nhã để xây dựng thành
công tư tưởng Trung đạo của mình, làm cơ sở để hệ thống hoá toàn bộ kinh điển
Đại thừa và cổ xuý cho Phật giáo Đại thừa hưng thịnh và lan toả cho tới hôm
nay.
Qua
Trung Quán Luận của Long Thọ giới
thiệu rõ, sự ra đời , văn bản và bản dịch, kết cấu nội dung, từ góc độ triết
học tư tưởng Trung đạo, kết cấu của Trung
Quán Luận có nhiều cách chia bố cục, song
cách phân chia kết cấu có khác nhau, song đều nhằm làm sáng tỏ, dễ hiểu
nội dung và tư tưởng Không, hay Trung đạo mà Long Thọ muốn gửi gắm trong Trung Quán Luận.
**********
(1) Thích Thanh
Kiểm, Lược Sử Phật Giáo Ấn Độ, Quê
Hương Tái Bản Lần Thứ Nhất, 1971, tr.231-235.
([2]) Kimura
Taiken, Nguyên Thuỷ Phật giáo tư tưởng
luận, Thích Quảng Độ dịch, Nxb Thành Hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành,
1998, tr.63.
(3) Thích
Trí Thủ dịch, Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật,
Phổ Hiền Tùng Thư, TP. Hồ Chí Minh, 1996, tr.1.
([4])
Đoàn Văn An, “Tư tưởng triết học trong Kinh Kim Cương” Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội,
2011, tr.39-40.
(5) Kimura Taiken (1998), Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Thích Quảng Độ dịch, Nxb Thành
Hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1998, tr.57.
([6]) Thích Thiện Siêu, Luận Thành Duy Thức. Nxb. Phật Học Viện Quốc tế,n 1997, tr.21.
(7) Thích Thiện
Hoa, Phật Học Phổ Thông, Thành Hội
Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 2008, tr.557.
(8) Thích Hạnh Bình, Triết Học Có Và Không, Nxb. Phương Đông. Hà Nội, 2007.
([9]) Hoàng Thị Thơ, Lịch Sử Tư Tưởng
Thiền Từ VêĐa Ấn Độ Tới Thiền Tông Trung Quốc, Nxb. Khoa Học Xã Hội. Hà Nội, 2005, tr.150.
(10) David J,
Kalupahana dịch và chú dịch, Mulamadhyamakakatika
Of Nagajuna, Delhi,
1996.
([11]) Thích Tâm Thiện, Lịch Sử Tư Tưởng
Và Triết Học Tánh Không, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr.130.
(12) Thích
Quảng Liên dịch và giải, Trung Quán Luận,
Nxb Tôn Giáo, 2007, tr.2-3.
(13) Chánh Tấn Tuệ dịch và giải, Trung Quán Luận, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội,
2001, tr.11.
(14) Hoàng Thị Thơ, “Triết học Ấn Độ Qua Một Số
Tác Phẩm Tiêu Biểu” Dành Cho Cao Học Chuyên Triết Tại Học Viện Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, (Niên học 2010- 2012), tr.22.
(15) Đoàn Trung
Còn, Phật Học Từ Điển, Nxb. Tổng Hợp,
TP. Hồ Chí Minh, 2008, tr.1438.