Hệ thống Bát Nhã và đối tượng nghiên cứu
của nó là Tánh Không rất là quan trọng đối với tư tưởng nền tảng của
đạo Phật. Quan trọng không phải vì kinh điển về Bát Nhã chiếm khối lượng
lớn nhất trong Ðại Tạng (chỉ riêng bộ Ðại Bát Nhã đã gồm 600 quyển
125.000 bài tụng), mà vì Tánh Không được nói đến trong hầu hết kinh điển
chính yếu và hầu hết tông phái. Kinh Hoa Nghiêm (làm căn bản cho Hoa
Nghiêm Tông) nói trong chương thứ nhất (phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm) : ”
Phật nói pháp tánh đều vô tánh. Rộng lớn rất sâu chẳng nghĩ bàn” . Kinh
Pháp Hoa nói trong phẩm Pháp Sư: ” Pháp Không làm tòa ” . Trong kinh
Lăng Nghiêm 25 vị từ A La Hán đến Bồ Tát chứng viên thông đều nhờ thấu
đạt Tánh Không mà thành quả vị. Kinh Duy Ma Cật trong bài kệ tán thán
đức Phật : ” Ðảnh lể Như Không vô sở y ” . Tông Duy Thức – mà nhiều học
giả cho là bất đồng ý kiến với Không luận tông – cũng nói trong Duy Thức
tam thập tụng : ” Dựa trên ba tánh này. Lập ra ba vô tánh.Nên Phật mật ý
thuyết. Tất cả pháp vô tánh ” Căn bản của Mật tông cũng là Tánh Không,
kinh Ðại Tỳ Lô Giá Na thành Phật – bộ kinh chánh của Mật tông – nói: ”
Chữ A là chữ căn bản của mật chú, A có nghĩa là tất cả pháp chẳng sanh
vậy. Bồ Ðề là tất cả pháp vô tướng vậy ” . Tịnh Ðộ tông, mục đích là
sanh về Tây Phương cực lạc, ở cõi ấy vẫn lấy Tánh Không làm cứu cánh
chứng đắc. Cõi Tây phương được diễn tả trong Quán Vô Lượng Thọ kinh như
sau : ” Tám thứ gió mát từ quang minh xuất, khua động nhạc khí, diễn nói
: khổ, Không, vô thường, vô ngã” .” Sanh qua cõi ấy rồi, thấy sắc thân
Phật và chư Bồ Tát đầy đủ các tướng tốt đẹp, rừng báu quang minh, diễn
thuyết diệu pháp. Nghe rồi liền ngộ Vô sanh pháp nhẫn” (Vô sanh pháp
nhẫn là chứng đắc Tánh Không)... Chính vì thế mà kinh Ðại Bát Nhã nói:” Y
theo Bát Nhã này, người nào muốn thành Tu Ðà Hoàn sẽ đắc quả Tu Ðà
Hoàn, muốn thành A La Hán sẽ đắc quả A La Hán, muốn thành Bích Chi Phật
sẽ đắc quả Bích Chi Phật, muốn thành Bồ Tát sẽ đắc quả Bồ Tát, muốn
thành Phật sẽ đắc quả Phật, cũng xuất sanh 12 bộ kinh từ tu đa la đến ba
đề xá vậy”
. Tánh Không là sự vinh quang của đáo Phật. Ðó là sự chiến thắng vinh
quang của những con người đã ” Soi thấy năm uẩn đều Không, vượt khỏi mọi
khổ ách” để đến Bờ Bên Kia( Ba la mật). Lời ca chiến thắng ấy đã được
Ðức Phật thốt ra trong buổi sáng giác ngộ:
Xuyên qua nhiều kiếp luân hồi, Ta miên man đi mãi
Ta đi tìm mãi mà không gặp, Ta đi tìm người thợ xây cất căn nhà này
Lập đi lập lại sự xây cất trong sinh tử muộn p hiền
Nay hởi người thợ làm nhà, Ta đã tìm được ngươi
Từ đây, ngươi không còn cất nhà nhốt Ta được nữa
Tất cả sường vách đều gãy, cây đòn dông ngươi dựng cũng bị phá tan
Như Lai đã chứng quả Vô Sanh Bất Diệt bằng tận diệt bằng mọi ái dục vô
minh.
” Người thợ làm nhà” đây là năm ấm (hay
năm uẩn) xây cất nên căn nhà ” thân tâm” lập đi lập lại trong sanh tử
muộn phiền. Bằng Trí Huệ, Ðức Phật đã ” soi thấy năm uẩn dệt nên toàn bộ
thân tâm này đều Không ” , khiến mọi ràng buợc đều tan biến, tất cả mọi
cơ cấu xây cất đều bị phá tan, chứng đắc Vô Sanh Bãt Diệt (mà các nhà
Ðại thừa gọi là chứng đắc Tánh Không). Tánh Không là sự vinh quang của
đạo Phật, là sự tự do tối thượng cho những ai thấu đạt nó. Nhưng cũng vì
cái chữ Không (viết hoa)ấy (như cửa Thiền được gọi là cửa Không), mà
đạo Phật cũng chịu nhiều hiểu lầm, chê bai, bài bác: nào là chán đời, bỏ
đời, bi quan, nào là tiêu cực, hư vô, viễn tưởng v.v…Chỉ nói riêng hai
chữ sanh tử và giải thoát, có thể nêu lên vấn đề sanh tử là bi quan
chăng? Dầu nói đến sanh tử hay không , thì làm người ai cũng có ít nhất
một lần sinh ra và một lần chết đi. Trái lại, không phải bằng thái độ
lẩn tránh như con đà điểu rút đầu dưới cát, mà bằng cách đối diện thẳng
với vấn đề sanh tử, nhìn thẳng vào cơ cấu sanh tử, để thấy toàn bộ tánh
cách duyên sanh của nó, mà tất cả nút thắt sanh tử đều mở phá. Ðó là
thái độ can đảm và thực tiển của đạo Phật. Thái độ đó, sự chiến thắng đó
không phải chỉ diển ra một lần ở ÐứcPhật, mà còn xảy ra ở các vị A La
Hán và Bồ Tát tiếp diễn về sau suốt cả chiều dài lịch sử của đạo Phật
cho đến ngày nay. Thiết nghĩ, sự tìm hiểu về Tánh Không là sự quan trọng
trong những ai muốn tìm hiểu đạo Phật, muốn có một khái niệm đúng về
bản thể họa của đạo Phật, tự giải thoát mình khỏi những điều mơ hồ cho
đạo Phật là hư vô chủ nghĩa, là đạo chán đời…Không phải là không có ý
nghĩa, khi bằng ngôn ngữ Tây phương, nhà học giả nổi tiếng về Trung Quán
luận là T.R.V.Murti đã dịch Tánh Không bằng danh từ Thê Absolute (Tuyệt
Ðối thể) trong cuốn The central philosophy of Buddhism. Sau đây, chúng
ta sẽ tìm hiểu những ý nghĩa của Tánh Không để có một cái nhìn rõ hơn về
Phật pháp. Nhưng sự tìm hiểu ấy chỉ là một phần rất nhỏ của cái mà hệ
thống Bát Nhã gọi là văn tự Bát Nhã. Chỉ bằng Văn tự Bát Nhã, chỉ bằng
sự mô tả, hình dung về Tánh Không, dầu có thuộc lòng cả bộ Ðại Bát Nhã,
chúng ta cũng không thể thực sự hiểu Tánh Không. Tánh Không không thể
hiểu được nếu chỉ có phần tìm hiểu về mặt văn tự (Văn tự Bát Nhã), Tánh
Không chỉ có thể bắt đầu hiểu được khi chúng ta đi vào sự tu tập (Quán
chiếu Bát Nhã) để thực chứng Thật Tướng Bát Nhã. Củng như quá trình Văn,
Tư, Tu của kinh Lăng nghiêm, ban đầu là Nghe (Văn), nhưng chỉ có nghe
thì chưa đủ, phải Suy nghĩ (Tư) và Tu hành (Tu) thì mới hiểu được đáo
Phật. Muốn đạt đến Thực Tướng Bát Nhã, có một hố sâu phải nhảy qua, hố
sâu đó là sự thực hành Quán chiếu Bát Nhã. Cái hố sâu của sự thực hành
tiền quán đó, cũng là hố sâu ngăn cách khoa học với đạo Phật. Khoa học
xét một cách nghiêm túc trong cái nhìn đạo Phật, chỉ nằm trong Văn tự
Bát Nhã, chỉ nằm trong phạm vi ý thức (tức là thức thứ 6, trong khi sự
nghiên cứu của đạo Phật soi tận đến Tạng thức, tức là thức thứ 8). Bởi
thế khoa học chưa có thể thay đổi một cách toàn triệt toàn bộ tâm thức,
của con người để giải phóng nó ra khỏi 8 thức sanh diệt. Bởi thế mà nhà
vật lý lý thuyết của trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp Basarab
Nicolescu trong bài Khoa học và Truyền thống (Unesco 11-86) đã nêu lên
một thắc mắc của hầu hết các nhà khoa học : ” Cách nhìn này (của truyền
thống tôn giáo) về thế giới chẳng phải gần Người thợ làm nhà” đây l2 năm
ấm (hay năm uẩn) xây cất nên căn nhà ” thân tâm” lập đi lập lại gũi với
cách nhìn hiện đại của chúng ta đến mức đáng kinh ngạc đấy sao? Nhưng
tại sao có sự chênh lệch giữa cuộc đời bình thường của con người hiện
đại với sự hiểu biết hiện đại của y đến như thế ” . Bằng khoa học hiện
đại, con người đã hiểu rằng thế giới là liên tập, là một toàn thể tương
giao, một thế giới sanh diệt trong từng phần triệu giây, thế mà con
người ấy vẩn chẳng có gì thay đổi, vẫn cô lập, ích kỷ, vẫn ham chiếm
đoạt cho riêng mình, vẫn sợ chết, vẫn tự trói buộc lấy mình y như thân
phận của con người hồi Ðức Phật còn tại thế,dầu sự tự trói buộc ấy thực
hiện bằng những hình thức khác. Sự chênh lệch (chữ dùng của ông) giữa
một bên là kiến thức khoa học và một bên là thói quen ù lì của tâm thức
con người là một điều khoa học chưa thể giải quyết nổi, kể cả tâm lý học
chiều sâu tức là phân tâm học.
Nếu cần trích thêm ở đây, chúng ta có thể nhắc đến nhà vật lý cơ học
lượng tử R. Feynman, giả Nobel vật lý 1965, trong một cuốn sách về những
vấn đề của vật lý hiện đại, ông đã kết luận rằng:” Trong tương lai gần,
các định luật vật lý sẽ được khám phá hết, khoa học vật lý sẽ chấm dứt
nhiệm vụ, nhưng vẫn còn hai lãnh vực đối với nhân loại, đó là lãnh vực
khoa học xã hội và ở trên nó là lãnh vực triết học và tôn giáo ” ( Chỉ
xin nói thêm, chữ ” tôn giáo” đây, đối với đạo Phật là sự thực hành, vì
ngoài sự thực hành, không có đạo Phật)
Sự chênh lệch hay cái hố sâu ngăn cách
giữa khoa học và đạo Phật chỉ có thể giải quyết bằng Thiền quán, nghĩa
là bằng cách đem cái nhìn của khoa học về một thế giới biến chuyển trong
từng khoảng khắc thời gian (nói theo danh từ PH là vô thường) vào trong
chính mình để tạo thành cái nhìn của chính con người mình (mà không
phải cái nhìn của máy móc). Ðưa một cái nhìn của khoa học về một vũ trụ
sanh diệt trong từng sát na, để phát huy nơi chính mình một cái nhìn
đúng về con người và thế giới,lúc ấy con người mới có thể có một thế
giới quan mới, một thế giới quan thoát khỏi tham sân si. Sự chênh lệch
đó sẽ vượt qua bằng Quán chiếu Bát nhã để đạt đến thực Tướng Bát Nhã.
Qua nhận xét nhỏ nầy, chúng ta cũng thấy được giới hạn của sự tìm hiểu
của chúng ta, sự tìm hiểu nằm trong Văn tự Bát Nhã, và nếu không có sự
thực hành Quán chiếu Bát Nhã của chính mỗi người chúng ta thì những điều
tìm hiểu sau vẫn mãi mãi chỉ là văn tự, là một loại kiến thức, như kiến
thức khoa học,, chẳng thay đổi chút nào con người bên trong của chúng
ta. Chúng ta có thể nói về một thế giới sanh diệt trong từng niệm niệm
(hay nói theo Bát Nhã thì các pháp đều vô tự tánh), nhưng một hạt cát
cũng làm cho chúng ta khởi ra một trời giận dữ; chúng ta có thể nói về
một thế giới liên lập, tương dung tương nhiếp, trùng trùng duyên khởi,
nhưng chúng ta chẳng bao giờ thoát khỏi bản ngã hư dối nhỏ hẹp và u mê
thu góp của mình. Có lần , nhà bác học mở đầu cho vật lý hiên đại,
Albert Eindtein nói một câu tưởng như đùa: ỀNgười ta phá vở một nguyên
tử dễ dàng hơn phá vở một thành kiếnỂ. Phải chăng điều đó cũng đồngmột
tư tưởng của đạo Phật mà Ðức Phật đã nói ra: ỀChiến thắng một sự vật bên
ngoài không bằng chiến thắng chính mình. Sự chiến thắng chính mình mới
giải quyết tất cảỂ. Với Quán chiếu Bát Nhã, chẳng những cái thành kiến
thô thiển thế gian ai cũng thấy được, mà các kiến chấp vi tế, những kiến
chấp trói buộc không cho con người hưởng được sự tự do tối thượng, cái
tự do vô thuỷ vô chung vốn là định mệnh của mỗi chúng sanh, tri giả,
kiến giả, mạng giả, tác giả, khởi giả v.v…(phẩm Tam Giả) đều bị Trí Huệ
Kim Cang Bát Nhã phá tan để đưa tất cả trở về Tánh Không bổn lai thanh
tịnh, trong đó tất cả sanh tử, Niết Bàn, phàm thánh, giải thoát hay
chẳng giải thoát v.v…đều chẳng thể được (phẩm Như Hoá ).
Tãt cả đều nhờ vào Bát Nhã Ba la mật.