I. DẪN NHẬP
Giới luật là mạng mạch của Phật
pháp. Giới luật còn là Phật pháp còn. Đức Phật dạy rằng, người nào sống
không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào
sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
Trong kinh Di Giáo, trước khi vào Niết bàn, đức Phật khuyên các thầy Tỳ
kheo: Sau khi Như Lai diệt độ rồi, các Tỳ kheo phải lấy Ba-la-đề-mộc-xoa
(Giới luật) làm Thầy cũng như ta còn tại thế. Nếu ta còn tại thế mà Tỳ
kheo các ông không y theo giới Ba-la-đề-mộc-xoa thì cũng như ta đã diệt
độ.
Sau khi nghe đức Phật giải thích
về việc tại sao phải cần chế giới luật, ngài Xá Lợi Phất thỉnh cầu đức
Phật chế luật, đức Phật trả lời: “Hãy chờ! Như Lai sẽ biết thời.”
Khác với Điều răn được cho là mặc
khải từ đấng gọi là God của các tôn giáo Thần khải (Kyto giáo, Hồi giáo,
Ấn giáo, Do Thái giáo), buộc tín đồ phải tuân thủ một cách tuyệt đối
(nhưng thực chất đó là những giáo điều phi lý, ràng buộc, làm mất hết tự
do của con người, thậm chí khiến người ta phải chống đối nhau, gây đau
khổ cho nhau - Phật giáo giáo gọi những giáo điều này là giới cấm thủ
kiến hay tà kiến), Giới luật Phật giáo chỉ ra đời sau khi đức Phật thành
đạo đã năm năm. Nghĩa là lúc đầu Tăng đoàn hoàn toàn trong sạch và vững
mạnh, không có những nội kết bất hòa hay những cá nhân sống không phạm
hạnh. Chỉ đến khi Tăng đoàn trở nên đông đúc thì bắt đầu phát sinh những
tệ nạn. Để ngăn ngừa những tệ nạn đó, giúp Tăng đoàn phát triển và hòa
hợp, giới luật đã ra đời.
Đức Phật không bao giờ tự chế ra
giới luật theo ý riêng của Ngài. Ngài chế giới khi có một cá nhân hay
tập thể nào đó trong Tăng có những việc làm gây phương hại cho sự tồn
vong của chánh pháp, làm mất hòa hợp thanh tịnh trong Tăng đoàn hay
những hành động khiến người đời chê bai. Có những trường hợp một điều
khoản nào đó đã được chế nhưng vì trở ngại cho Tăng đoàn về phương diện
nào đó, khi thưa lên Đức Phật, Ngài liền điều chỉnh hoặc hủy bỏ.
Giới luật Phật chế lại gồm hai
phần, Thông giới và Biệt giới, nên nó không chỉ dành cho giới xuất gia
mà dành cho tất cả mọi người, và cả loài vật nữa. Và đây là điểm đặc thù
của giới luật Phật giáo.
II. KHÁI QUÁT GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO
Đối với Phật giáo, giới luật giữ
một vị trí thiết yếu trong Tam tạng giáo điển. Trong ba môn học Giới,
Định, Tuệ thì Giới đứng đầu. Vì nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ.
Tuệ là mục đích sau cùng mà người tu theo đạo Phật phải đạt đến. Muốn
đạt đến đó thì phải khởi đầu bằng nghiêm trì giới luật. Đó là điều mà
chúng ta không thể làm khác được.
Giới luật theo kinh tạng Pàli được
Đức Phật chế định rất giản dị, không chi li, hệ thống như những bộ luật
sau này. Nhưng đây là tinh thần cốt lõi của giới luật. Trong Đại Kinh
Xóm Ngựa, thuộc Trung Bộ 1, Đức Phật trình bày nguyên tắc sống của một
thầy Tỳ kheo: “Sa môn! Sa môn! Này các Tỷ kheo, dân chúng biết các ngươi
là vậy, và nếu các ngươi có bị hỏi ‘Các ngươi là ai’ các ngươi phải tự
nhận ‘Chúng tôi là sa môn’. Này các Tỷ kheo, các ngươi đã được danh xưng
như vậy, đã tự nhận là như vậy thời này các Tỷ kheo, các ngươi phải tự
tu tập như sau: ‘Chúng ta phải thọ trì và thực hành những phép tắc tác
thành sa môn. Như vậy danh xưng này của chúng ta mới chân chánh và sự tự
nhận này của chúng ta mới như thật và những cúng dường chúng ta thọ
hưởng, y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bịnh có kết qủa
lớn, có lợi ích lớn cho chúng ta, và chúng ta xuất gia không thành vô
dụng, có kết qủa, có thành tích’.”
Theo Thích Hạnh Bình, trong bài
kinh này, đức Phật còn đưa ra bảy nguyên tắc làm nên một vị sa môn: Biết
tàm qúy, thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh,
mạng sống thanh tịnh, hộ trì các căn, chú tâm cảnh giác. Và ông kết
luận, bảy nguyên tắc này về sau đức Phật hay các đại đệ tử Phật xây dựng
và hình thành Luật tạng một cách chi tiết và hệ thống.
Về thuật ngữ Giới Luật, tuy là một
từ nhưng thật ra Giới và Luật có ý nghĩa khác nhau. Giới thuộc phần chỉ
trì (tiêu cực), luật thuộc phần tác trì (tích cực). Giới do đức Phật
chế định trong những hoàn cảnh cụ thể, luật là những quy định sinh hoạt
trong Tăng đoàn, do đức Phật và Tăng đoàn quy định.
Trước hết chúng ta nói về khái niệm giới luật. Theo Phạn ngữ, Giới luật có bốn nghĩa như sau:
Vinàya: Có nghĩa là điều phục, điều phục gì? Điều phục những sai trái của thân, khẩu, ý.
Pràtimoksa: Dịch là biệt giải thoát.
Sìla: Dịch là giới, là thanh lương,
nghĩa là sự tươi mát. Còn có nghĩa là phẩm chất tốt đẹp của con người,
là sự phòng hộ các căn. Tức nhờ sự phòng hộ của giới mà thân tâm trở nên
tươi mát, an lạc, thanh tịnh.
Vinaya: Dịch là luật.
Tuy có bốn tên khác nhau, nhưng cùng chung một nghĩa nên ghép chung thành “giới luật”.
Trong bốn nghĩa trên thì Sìla và Pràtimoksa thuộc về giới, hai từ còn lại thuộc về luật.
Nói một cách chi tiết, Giới (sìla)
là đề phòng những điều sai quấy và dừng chỉ mọi điều ác, cũng có nghĩa
là “chỉ ác tác thiện”, tức là ngưng làm mọi điều ác, thực hành mọi hạnh
lành.
Giới (Pràtimoksa - Ba- la- đề- mộc-
xoa) ngoài nghĩa biệt giải thoát còn có nghĩa xứ xứ giải thoát hay tùy
thuận giải thoát. Biệt giải thoát là giữ giới phần nào giải thoát phần
đó, giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít.
Tùy thuận giải thoát là tùy vào sự trì giới của hành giả bằng cách nào
thì kết qủa theo đó mà thành tựu hữu vi hay vô vi. Pràtimoksa còn có
nghĩa là trói buộc, giữ gìn, thúc liễm những hành động của thân, khẩu, ý
không để tạo nghiệp ác.
Giới còn có nghĩa là điều phục,
chế ngự, chế ngự bằng tỉnh giác, bằng tri kiến, bằng kham nhẫn, bằng
tinh tấn làm cho ba nghiệp thanh tịnh. Giới luật, vì vậy, cũng đồng
nghĩa với nếp sống đạo đức, nếp sống hướng thượng.
Thực ra, giới nguyên nghĩa là tự
nhiên, thói quen. Như thế, giới vốn là thực tại với những quy luật vận
hành rất tự nhiên và không mang một ý nghĩa đạo đức nào cả. Nhưng chúng
ta vượt ra ngoài quy luật vận hành tự nhiên ấy, chúng ta hành động trái
với quy luật thực tại chúng ta sẽ gặp trở ngại trên cuộc đời và trên con
đường giải thoát. Tựa như một người ăn uống không bình thường sẽ bệnh
tật, nếu làm hại kẻ khác sẽ bị pháp luật trừng trị. Như vậy, giới là một
phương tiện ngăn chặn tội phạm, thuận theo cuộc sống tự nhiên và quy
luật xã hội.
Về phân loại giới thì có nhiều
cách. Thứ nhất là phân loại thành Biệt giải thoát giới và Bồ tát giới.
Biệt giải thoát giới đã nói ở trên. Còn Bồ tát giới còn gọi Thông giới
để phân biệt với Biệt giải thoát giới của hàng xuất gia, giới của hàng
Thanh Văn. Giới Bồ tát được nói trong kinh Phạm Võng là những hành vi,
những giới hạnh, những học pháp đưa đến thành tựu Bồ đề tâm, giải thoát
và trở thành Phật.
Thứ hai, theo quan điểm Đại thừa,
giới chia làm ba loại: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và
Nhiêu ích hữu tình giới. Nhiếp luật nghi giới là giới dành cho từng bậc
tu hành khác nhau, bao gồm giới tại gia và xuất gia. Đó là năm giới, Bát
quan trai giới, thập thiện giới, Sa di giới, Tỳ kheo giới, Thức xoa ma
na, Tỳ kheo ni giới, Bồ tát giới. Nhiếp thiện pháp giới là chuyên thực
hành những hành vi thiện coi đó là trì giới. Nhiêu ích hữu tình giới là
lấy mục đích lợi lạc chúng sanh làm giới.
Đứng về mặt tương đối, giới chia
làm hai loại, giới Thế gian và giới Xuất thế gian. Giới thế gian là giới
đưa đến qủa báo hữu lậu, đưa đến hưởng phước báu nhân thiên. Giới xuất
thế gian là giới đưa hành giả đến qủa vô lậu, giải thoát khỏi tam giới.
Dựa vào căn cơ và nghiệp lực của
chúng sanh, giới chia làm ba loại, giới bậc hạ, bậc trung và bậc thượng.
Giới bậc hạ là giữ giới vì cầu danh lợi. Giới bậc trung là giữ giới vì
mong cầu được phước đức cho riêng mình. Giới bậc thượng là giữ giới vì
cung kính giới, tin vào giới và vì mục đích lợi tha.
Về khái niệm luật, đây là khái
niệm rất rộng, nó liên quan đến những quy định về sinh hoạt của Tăng
đoàn. Do đó, về ý nghĩa cũng giống như luật thế gian nhưng vì mục đích
khác nên nội dung cũng khác. Mục đích của Phật đặt ra luật là để tạo
điều kiện cho một Tỳ kheo, một Thích tử đạt đến an ổn Niết-bàn. Còn mục
đích của luật thế gian là để lập trật tự cộng đồng, mang đến bình an cho
xã hội. Luật trong Phật giáo (Vinàya) có nghĩa là điều phục, huấn
luyện, đã huấn luyện thì phải có kỷ luật. Tất cả đều có luật là để huấn
luyện việc làm. Nên điều phục nghĩa là điều phục tâm. Điều phục có hai
phần là điều phục tập thể và điều phục cá nhân. Căn bản là tạo sự hòa
thuận. Điều phục trong tập thể tăng đoàn là nhằm tạo sự hòa hợp thanh
tịnh, đưa đến an lạc gọi là Tăng an lạc. Muốn vậy mọi hành vi, cử chỉ,
ăn nói, đi đứng trong Tăng phải phù hợp với luật. Và nhờ luật này mới
giải quyết những trường hợp sai phạm trong Tăng như trường hợp hai Tỳ
kheo A-thấp-bà và Phú-na-bà-sa sống trong một tụ lạc qua hệ với thế tục
khiến cho một người đức hạnh như Xá-lợi-phất đến đó khất thực mà không
ai cúng, phải mang bình bát về không. Sau Phật biết được khiến các Tỳ
kheo tác pháp đuổi hai vị ấy đi nơi khác. Điều phục cá nhân gọi là trừng
trị những người ngoan cố, tức là điều phục những kẻ chưa điều phục và
kẻ đã điều phục thì làm cho phát triển thêm.
Luật Phật chế định còn nói đến
quan hệ giữa tập thể Tỳ kheo và người ngoài đời. Quan hệ như thế nào để
không đánh mất phẩm hạnh của một Tỳ kheo.
Ngoài ra, luật còn quy định về
pháp Yết- ma như An cư kiết hạ, truyền giới và thọ giới, Tự tứ, thuyết
giới, Bố tát (tụng giới). . .
II. VAI TRÒ CỦA GIỚI LUẬT
1. Vai trò của Giới luật đối với đời sống Tăng già
Giới luật là con đường rèn luyện
người xuất gia. Thực hành giới luật là thanh tịnh hóa thân tâm, nuôi
dưỡng lòng từ bi và đạt đến giải thoát. Giới luật không phải là những
giáo điều. Giới luật giúp chúng ta biết những suy nghĩ, lời nói, hành
động nào giúp ta an lạc, và những tư tưởng, lời nói, hành động nào đưa
đến khổ đau.
Do đó, giới luật có vai trò rất
quan trọng trong hệ thống giáo lý Phật giáo. Giới là bước đi đầu trong
năm bước đi: Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến (tri
kiến biết rằng đã giải thoát).
Đức Phật thuyết pháp 49 năm, giảng
dạy vô số pháp môn tu, kinh điển để lại rất nhiều, nhưng tất cả lời dạy
ấy không ra ngoài ba môn học Giới, Định, Tuệ. Mục đích của người xuất
gia sau cùng là đạt đến trí tuệ và giải thoát. Nếu không đạt đến trí tuệ
và giải thoát coi như đã phí một đời xuất gia học đạo.
Muốn như thế, trước tiên phải dùng
giới luật kìm thúc thân tâm không để buông trôi theo dòng tục thế. Tâm
chúng ta từ vô thủy đến nay đã huân tập biết bao phiền não tập khí nhiễm
ô, nên chúng ta mới bị trôi lăn trong sanh tử, chịu nhiều nỗi khổ đau.
Muốn thoát khỏi cảnh khổ lụy đoạn trường đó, chúng ta phải nương nhờ vào
giới luật. Giới luật sẽ soi sáng, dẫn dắt chúng ta ra khỏi cảnh u tối
mê mờ. Khi đã ra khỏi cảnh đó rồi, ta tiếp tục trau dồi thiền định làm
lắng đọng thân tâm. Khi tâm lắng động thì trí tuệ hiển bày.
Ba đời mười phương chư Phật đều y
vào trí Bát nhã mà thành Phật. Vậy muốn đạt đến Phật quả, chúng ta cũng
phải có trí tuệ như Phật. Và lộ trình khởi đầu để đi đến đích tối hậu đó
là giới. Chúng ta không thể nào đảo ngược trật tự này được. Dù đức Phật
dạy ba môn học này có mối quan hệ mật thiết nhau, nhưng khi khởi sự tu
tập không ai có thể bỏ qua giới mà có định, tuệ. Trong luật Trường hàng
có nói “Phật dạy người xuất gia, năm hạ về trước ròng chuyên giới luật,
năm hạ về sau mới được nghe giáo tham thiền”. Điều đó cho thấy vai trò
của giới luật quan trọng biết bao.
Ngày nay, tại các nước phương Tây,
do ảnh hưởng vật chất qúa nặng, các vị Thiền sư thường dùng các môn
khoa học như tâm lý học, phân tâm học, huyền học. . . để gọi là bổ sung
chỗ khiếm khuyết trong Phật giáo đối với thiền sinh khi hành thiền.
Nhưng sự thật không có gì gọi là khiếm khuyết trong phương pháp tu tập
của Phật như Thanissaro nói:
Con đường của đức Phật không phải
chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉ và thiền Quán, nhưng bao gồm
các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản. Thật thế, các giới luật tạo
thành bước đi đầu tiên trên con đường đó, con đường Giới-Định-Tuệ.
Khuynh hướng ngày nay thường khinh rẻ năm giới luật nầy, cho rằng đó chỉ
là các điều lệ của lớp giáo lý vỡ lòng bắt nguồn từ đời sống cổ xưa,
không còn thích hợp cho nếp sống tân tiến hiện đại. Quan niệm đó đã bỏ
sót vai trò mà đức Phật đặt ra cho giới đức: giới đức là phần căn bản
của chương trình trị liệu vết thương trong tâm trí. Giới đức đặc biệt để
dùng chữa trị hai thứ bệnh đã tạo ra mặc cảm tự ti: hối hận và chối bỏ.
Nhiều tăng sĩ ngày nay cảm thấy
khó chịu khi phải hành trì giới luật, dù là khi thọ giới đã tiếp nhận
giới rồi. Thật ra, giới luật, như trên đã nói, đâu có tính cách ràng
buộc mà chúng ta phải khó chịu? Giới luật chỉ có công dụng bảo hộ và
ngăn ngừa những điều đưa đến khổ đau mà thôi. Những người cảm thấy khó
chịu là vì, một là không hiểu giới luật và giá trị của nó; hai là do
buông lung tâm ý, chạy theo dục lạc tầm thường mà cho giới luật ràng
buộc, từ đó cảm thây khó chịu. Đó là nguyên nhân dẫn đến thoái hoá trong
Tăng đoàn Phật giáo. Từ đó cũng dẫn đến những phong trào đòi cách tân
giới luật (nghĩa là bỏ bớt một số điều khoản và chỉnh sửa một số điều
khoản). Lý do để một số vị đưa ra đề nghị đó là căn cứ vào câu nói của
đức Phật trước khi ngài diệt độ: Sau khi Như Lai nhập diệt, các thầy Tỳ
kheo có thể bỏ đi một số giới luật nhỏ. Nhưng Đức Phật không nói giới
luật nhỏ đó là những giới điều nào. Do đó, chúng ta không có quyền bỏ
bớt giới luật. Chúng ta không có đủ trí tuệ để xác định điều nào là điều
nhỏ. Thậm chí phải thêm điều khoản là khác. Vì trong thời đại này, với
đà phát triển của khoa học kỹ thuật như công nghệ thông tin, công nghệ
truyền hình, hệ thống thông tin liên lạc . . . và sự phong phú qúa mức
về vật chất, từ đó làm nảy sinh những điều bất thiện mới. Chính vì thế
Thiền sư Nhất Hạnh đã thêm vào giới bản những điều khoản mới như các
giới luật khi sử dụng Internet, khi lái xe, khi nghe điện thoại . . .
Một Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp
không thể không có giới luật. Ngay khi Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp
nhưng có vài cá nhân không thanh tịnh thì đã làm cho đoàn thể xáo trộn
“con sâu làm rầu nồi canh”; huống hồ là Tăng đoàn không giới luật thì
còn gì là Tăng đoàn nữa. Tăng có nghĩa là đoàn thể hoà hợp. Cái làm nên
sự hòa hợp đó là giới luật. Một Tăng đoàn không giới luật sẽ trở nên bạt
nhược, cằn cỗi, không còn sức sống nữa.
Người thọ trì giới luật được Đức
Phật ví như người mù mắt được sáng lại, như người nghèo gặp của báu.
Phải chăng Đức Phật qúa đề cao vai trò của giới luật? Không. Đức Phật
không bao giờ gạt chúng ta. Sở dĩ Ngài dạy như thế là vì Ngài muốn chúng
ta giảm bớt khổ đau trong cuộc sống. Muốn được an lạc, mỗi người phải
tuân theo một số nguyên tắc gọi là giới luật.
Không tuân giữ giới luật chẳng
những mang lại khổ đau, gây mất hòa hợp trong Tăng đoàn mà quả báo mình
phải gánh chịu, tùy theo mức độ vi phạm nặng nhẹ. Phẩm Hạt Muối (kinh
Tăng Chi) nói:
Một người dân đen đánh trộm một
con dê của một nhà giàu, có thế lực có thể bị đánh đập đổ máu ngay tại
chỗ và bị tù tội. Nhưng một đại quan của triều đình bắt trộm một con dê
của nhà giàu, có thế lực ấy thì không bị đánh đập, cũng không bị tù tội.
Ví như một nắm muối thả vào một hồ nước lớn hay con sông lớn thì độ mặn
không đáng kể, nhưng nếu để nắm muối ấy vào một ghè nước thì độ mặn lại
đáng kể. Cũng thế, cùng phạm một tội, với người tâm tư bủn xỉn, không
tu tập Giới, Định, Tuệ thì kết quả có thể đi vào địa ngục; nhưng với
người có tu tập Giới, Định, Tuệ, có từ tâm rộng rãi thì xem qua như kết
quả không có (triệt tiêu).
Tuân thủ giới luật làm hành giả
thận trọng hơn trong những hành vi thiện trong lời nói và việc làm của
mình. Sống trong sạch, phẩm hạnh tốt, phòng hộ các căn, chánh niệm tĩnh
giác, đạt được sự thanh tịnh về thân, khẩu, ý.
Người hành trì giới luật còn đạt
được năm lợi ích lớn như trong kinh Phật dạy: Tiền của dồi dào qua công
việc làm đúng đắn; Tiếng lành đồn xa; Khi vào trong bất kỳ hội chúng
nào, hoặc xã hội, hoặc giới thượng lưu, hoặc giới Bà- la- môn, hoặc gia
chủ, hoặc những thành viên trong cộng đồng tôn giáo (Sa môn) … tâm vị ấy
không sợ hãi và bối rối; Chết không sợ hãi; Sau khi chết, vị ấy được
thác sanh vào cõi thiên giới.
Ta thấy qua kinh luật, Đức Phật
luôn đề cao giới luật. Bởi giới luật là con đường duy nhất đưa đến sức
mạnh hòa hợp của Tăng đoàn và thành tựu trí tuệ giải thoát. Giới là phần
đầu trong năm chi Phần, Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát và Giải Thoát Tri
Kiến.
Giới Luật còn giúp chúng ta thực
hiện tình yêu thương rộng lớn đối với tất còn chúng sanh. Nó được hiểu
qua hai phương diện, một là không làm tổn hại tất cả sinh mạng, hai là
cứu giúp tất cả sinh linh.
Giới luật vì thế là nguồn sinh lực bất tận, là thức ăn đây bổ dưỡng của Tăng già.
2. Vai trò của Giới luật đối với đạo đức xã hội
Giới luật Phật giáo và luật pháp
thế gian tuy khác mục đích, nhưng có cùng ý nghĩa như nhau. Đó là cải
thiện con người cá nhân và ổn định xã hội.
Giới luật Đức Phật ít nhiều cũng
lại có tương quan hệ với pháp luật thế gian như trường hợp Tỳ kheo
Đàn-ni-ca trộm gỗ của vua bị phạt năm tiền thì phạm Ba-la-di. Giới luật
Phật chế lại gồm cho cả hai giới xuất gia và tại gia, có Thông giới và
Biệt giới. Có thể nói giới luật Phật giáo bao hàm tất cả luật pháp thế
gian. Nhưng luật pháp thế gian lại không thể bao hàm được giới luật Phật
giáo. Vì thế, giới luật Phật giáo chẳng những mang lại an lạc cho người
xuất gia mà cả tại gia.
Chính vì vậy, giới luật Phật gíáo, ngoài việc nuôi dưỡng Tăng già, nó còn là nền tảng xây dựng đạo đức xã hội.
Theo Từ điển triết học, " Đạo đức
là một trong những hình thài ý thức xã hội, một chế định xã hội thực
hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lãnh vực của
đời sống xã hội".
Vậy, đạo đức là vấn đề liên hệ đến giá
trị tốt xấu, lành dữ của con người . Dựa vào các nguyên tắc đạo đức,
con người điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với đạo lý xã hội. Và
mục tiêu của sự điều chỉnh đó là nhằm manh lại hạnh phúc cho con người
như Banzeladze từng nói:
“Vấn đề lý tưởng tối cao và ý
nghĩa của cuộc sống thực chất là vấn đề hạnh phúc. Con người là giá trị
cao nhất, là cơ sở, là ngọn nguồn của mọi giá trị, mọi thứ đều là phương
tiện cho con người và cuộc sống của con người".
Tuy nhiên, có những nguyên tắc đạo
đức không đáp ứng nhu cầu hạnh phúc của con người, hoặc chỉ có giá trị
trong một giai đoạn. Nghĩa là không mang tính phổ quát. Chẳng hạn, ở
những quốc gia Hồi giáo mà Kinh Koran được sử dụng làm Hiến pháp như
Iran, một đứa bé lấy cắp một ổ bánh mì, có thể bị chặt tay. Hay như thời
Trung cổ ở Châu Âu, ai nói điều gì trái với Cựu Ước và Tân Ước của
Thiên chúa giáo sẽ bị tòa án Dị giáo của tôn giáo này đưa lên dàn hỏa
thiêu sống!
Đạo đức Phật giáo được xây dựng
trên nền tảng giới luật, mà giới luật đó được xác định là mang lại hạnh
phúc đích thực cho con người; giới luật ấy lại ra đời từ thực tiễn đời
sống. Chính vì vậy, nó mang giá trị phổ quát và hết sức thiết thực.
Một người Phật tử giữ gìn giới
luật không phải là tuân thủ những giáo điều khô cứng mà giữ gìn giới
luật là nhằm hướng thượng hành vi của mình, thanh lọc thân tâm, khiến
anh ta dễ dàng nhận ra giá trị đích thực cuộc đời. Từ đó, mang đến niềm
vui, tin yêu và hy vọng.
Trong khi hành trì giới luật mà
anh ta không có hạnh phúc là anh ta đã lạc vào “giới cấm thủ”. Anh ta
cần điều chỉnh lại cho phù hợp với tinh thần giới luật.
Nền tảng đạo đức Phật giáo trên phương diện giới luật là Năm giới và Thập thiện giới.
Trước tiên là Năm giới: không sát
hại sinh mạng, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối, không uống
các chất gây say. Giữ được năm giới này coi như đã an định được xã hội.
Những tội ác gây ra của con người đều là do không tuân thủ năm giới này.
Người ta phạm tội gì? Giết người, cướp của, ngoại tình đưa đến đổ vỡ
hạnh phúc gia đình, rượu chè say sưa gây ra những tội ác, nói dối gây
chia rẽ, hận thù. Và những tội khác điều có liên hệ đến năm giới như cha
con bất hòa, chiến tranh, tham ô hối lộ. . . Và người ta sợ hãi cũng
chung quanh năm giới: Sợ bị giết hại, mất của, sợ người khác nói oan cho
mình, sợ người bạn đời ngoại tình, sợ nghiện ngập, hút sách, sợ chiến
tranh, sợ tù tội . . . Nếu không còn ai gây ra những tội lỗi đó thì lấy
gì sợ? Thế giới này có phải hòa bình an lạc vĩnh viễn không?
Nói về năm giới, một học giả Tây phương nhận định:
Năm giới này cho thấy 5 hướng
chính mà người phật tử tự mình kiểm soát để ( hành trì ) tri hành . Đó
là giới thứ nhất răn người phật tử kiềm chế nóng giận, giới thứ hai kiềm
chế tham đắm vật chất, giới thứ ba kiềm chế nhục dục, giới thứ tư kiềm
chế sự khiếp nhược và ác ý ( nguyên nhân không chân thật) và giới thứ
năm kiềm chế lòng ham muốn các sự kích thích nhơ bẩn.
Thứ đến là Thập thiện giới: Thập
thiện giới chia làm ba nhóm, thân: không sát sanh, không trộm cắp, không
tà hạnh; khẩu: không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thêu dệt, không
nói lời hung ác; ý: không tham lam, không sân hận, không si mê. Mười
giới này là căn bản cho cả tại gia và xuất gia. Nó còn gọi là Thập thiện
nghiệp đạo. Hành trì mười giới này là đi đến giải thoát như trong kinh
Tăng Chi III, Phật dạy: “Một người thực hành 10 điều bất thiện thì cuộc
sống của họ là phi đạo đức đồng thời không đạt được mục tiêu hạnh phúc".
" Này các Tỳ kheo, sát sinh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục,
nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân
hận và tà kiến, đây gọi là phi pháp và phi mục đích”.
Trong ba nghiệp trên thì ý đứng
đầu. Nó ẩn bên trong và chỉ đạo tất cả hành vi của thân, miệng. Vì vậy,
Duy thức nói về ý: “công vi thủ, tội vi khôi” (Về công nó đứng đầu, về
tội nó cũng chiếm vị trí số một). Do đó, đạo đức Phật giáo hướng dẫn con
người tu tập hoàn thiện bản thân, xây dựng đạo đức xã hội chú trọng đến
tâm nhiều hơn là thân.
Tóm lại, ba nghiệp thanh tịnh là
góp phần làm cho xã hội thanh tịnh. Sự an lạc của xã hội tùy thuộc vào
sự an lạc của tâm chúng ta. Xã hội này có đạo đức hay không là tùy thuộc
mỗi chúng ta có hành trì giới luật hay không mà thôi.
IV. KẾT LUẬN
Giới luật Phật giáo mang giá trị
phổ quát và thực tiễn. Giới luật ra đời do nhu cầu thực tế cùa đời sống.
Giới luật không phải là giáo điều do một đấng quyền năng tạo ra. Nó ra
đời là vì lợi ích của từng cá nhân, tạo điều kiện cho cá nhân đó đạt đến
thánh quả và tạo sự hòa hợp thịnh tịnh trong Tăng đoàn.
Bất cứ thời nào và ở đâu, con
người cũng có những nỗi khổ niềm đau, những thói hư tật xấu, tham lam,
tranh chấp. Và mong ước tối hậu của con người là muốn mình có hạnh phúc
an lạc. Vai trò của giới luật Phật giáo là làm thế nào để điều chỉnh
hành vi con người hướng theo hướng tốt; đồng thời an định tập thể, xã
hội.
Đối với người xuất gia, giới luật
là để chúng ta chấp trì nhằm chế ngự, điều phục ba nghiệp của mình để
đạn đến an lạc, giải thoát. Việc kêu gọi điều chỉnh giới luật là việc
làm cần chấm dứt. Phải hiểu bản chất giới luật là bảo hộ, nuôi dưỡng
chúng ta. Lý tưởng của chúng ta là mong cầu giác ngộ, giải thoát thì
không bao giờ xa rời giới luật mà thành tựu được.
Đối với xã hội, giới luật nếu được áp
dụng, chỉ cần trong Năm giới và Mười giới thì xã hội sẽ được thái bình,
con người sẽ hạnh phúc mãi mãi. Luật pháp loài người cho dù đạt đến mức
hoàn chỉnh nhất cũng không thể nào ra ngoài phạm vi Năm giới và Mười
giới này. Nó là nền tảng của mọi hệ thống đạo đức.
Kim Liên tự, Xuân Quý Tỵ- 2013
Tâm Bình
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Thích Minh Phước (dịch), Tứ Phần Luật Hàm Chú Giới Bổn, Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2006.
Thích Hành Trụ, Sa- Di Luật Giải, Sài Gòn: Sen Vàng, 1972.
Thích Đạt Dương (dịch), Thiền Môn Trường Hàng Luật, Sài Gòn: KNXB, 1970.
Thích Tuệ Sỹ, “Những Khái Niệm Cơ Bản Về Luật,” Pháp Luân, (2006), số 28, 29 và 30, trang 28- 34, 35- 39 và 22- 27.
Thích Tâm Minh, Khảo Cứu Về Văn Học Pàli, không nơi xuất bản: NXB. Phương Đông, 2006.
Trần Phương Lan (dịch), Đức Phật Lịch Sử, Tp.HCM: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1997.
Thích Hạnh Bình, “Nền Tảng Xây Dựng Đời Sống Đạo Đức Theo Phật Giáo,” Tập Văn Phật Đản, (1992), không số, trang 35- 37 và 50.
Thích Minh Thông, Đề Cương Luật Học Phật Giáo Đại Cương.