Mỗi
khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc
nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác
phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng
dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì
Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của
văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
này thì ta được biết rằng cha của Hermann Hesse đã từng sống ở
Ấn Độ trong ba năm với tư cách một nhà truyền giáo và quan trọng hơn
nữa là cha của mẹ ông là tiến sĩ Hermann Gundert, một
người rất thông thái về tư tưởng Ấn Độ lại có cả một thư
viện lớn về Ấn Độ học. Tiểu sử cũng cho biết rằng Hermann
Hesse đã từng chôn vùi tuổi trẻ của mình trong thư viện
này.
Dù chi tiết có nhiều điểm
khác nhau nhưng Lại-Tra-Hòa-La và Siddharta có điểm giống nhau là cả
hai đều sanh ra trong gia đình quí tộc của xã hội Ấn Độ đương
thời.
Nếu Hermann Hesse đã để cho
nhân vật chính của mình là Siddharta mỗi lần dạo bước qua phố
phường với vầng trán vương giả đã khiến cho các cô gái quí tộc Bà La
Môn thấy lòng mình rộn lên niềm yêu thương thì
Lại-Tra-Hòa-La cũng thế, khi các bạn biết Lại-Tra-Hòa-La có
ý định từ bỏ gia đình để theo chân Đức Phật thì các bạn đã
khuyên Lại-Tra-Hòa-La như thế này:
“Lại-Tra-Hòa-La con trai cư
sĩ, người bạn mềm mại, thân hình đẹp đẽ, thường nằm ngồi trên
giường tốt, nay bạn không biết khổ sao? Lại-Tra-Hòa-La, bạn hãy mau
đứng dậy sống với đời dục lạc mà bố thí, sung sướng tu phước
nghiệp. Vì sao ? Lại-Tra-Hòa-La, cảnh giới của Đức Thế Tôn
rất khó, rất khó! Xuất gia học đạo lại càng khó hơn.” Và
cũng như Siddharta của Hermann Hesse đã phải cầu xin cha
nhiều lần để được rời gia đình theo các Sa Môn nhưng lần
nào cũng bị cha từ chối, Siddharta phải áp lực cha mình
bằng cách quì suốt đêm cho đến khi nào cha chấp thuận thì
mới đứng dậy. Cuối cùng cha của Siddharta đã miễn cưỡng chấp
nhận để Siddharta ra đi. Cũng vậy, Lại-Tra-Hòa-La cũng phải khẩn
khoản cầu xin cha mẹ đến những ba lần với lời thưa thống thiết
như thế này :
“Thưa cha mẹ, như con biết
đối với giáo pháp mà Đức Phật đã dạy, nếu con sống tại gia
đình, bị tù hãm trong những sự phiền toái, không thể trọn đời thanh
tịnh tu hành phạm hạnh được. Cúi xin cha mẹ cho con ở trong
chánh pháp luật này mà chí tín lìa bỏ gia đình, sống không
gia đình học đạo.” Và cả ba lần Lại-Tra-Hòa-La đều bị từ
chối với lí lẽ “Lại-Tra-Hòa-La, cha mẹ chỉ có một mình con
hết sức yêu thương chiều chuộng, lòng những quyến luyến
không kể xiết. Giả sử con có chết đi, cha mẹ còn không muốn
rời bỏ, huống gì con sống mà lỡ xa lìa, không nhìn thấy
được mặt sao?”.
Và cuối cùng cũng như
Siddharta của Hermann Hesse, Lại-Tra-Hòa-La đã phải áp lực cha mẹ
bằng cách “ liền vật mình xuống đất rồi nói: Từ nay con không
đứng dậy, không uống, không ăn, cho đến khi nào cha mẹ cho
con ở trong chánh pháp luật này chí tín lìa bỏ gia đình,
sống không gia đình học đạo”. Cứ như vậy Lại-Tra-Hòa-La “
trải qua một ngày không ăn, cho đến hai ngày, ba ngày, bốn
ngày, nhiều ngày không ăn”. Dù đã hết lời năn nỉ, nhưng
Lại-Tra-Hòa-La lại lặng im không đáp. Sau đó, cha mẹ
Lại-Tra-Hòa-La phải nhờ bà con và cả các quan lại địa phương đến
khuyên bảo nhưng Lại-Tra-Hòa-La vẫn nằm im bất động. Cuối cùng,
phải nhờ đến các bậc thiện tri thức và bạn bè nhưng vẫn
không lay chuyển được ý chí sắt đá của Lại-Tra-Hòa-La. Sau
cùng các vị thiện tri thức đưa ra đề nghị với cha mẹ
Lại-Tra-Hòa-La : “ Hai bác nên cho Lại-Tra-Hòa-La ở trong
chánh pháp luật này chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia
đình học đạo. Nếu anh thích sống như vậy, thì ngay trong
đời này còn có thể gặp nhau. Nếu anh ấy chán cảnh sống nơi ấy
thì tự nhiên sẽ trở về lại với cha mẹ. Bây giờ nếu không cho anh ấy
đi, nhất định anh ấy sẽ chết, không nghi ngờ gì nữa, như thế
có ích gì? ” Và cha mẹ Lại-Tra-Hòa-La không còn cách nào
hơn là phải đồng ý với đề nghị này và “ Lại-Tra-Hòa-La nghe
vậy, vui mừng khôn tả, hân hoan, sinh ái, sinh lạc, bèn
đứng dậy, dần dần bồi dưỡng thân thể. Khi thân thể đã bình
phục, liền rời khỏi thôn Thâu-Lô-Tra, đi đến chỗ Phật cúi
sát chân Phật và bạch rằng :
“Bạch Đức Thế Tôn, cha mẹ đã
cho con ở trong pháp luật này, chí tín lìa bỏ gia đình, sống
không gia đình học đạo. Ngưỡng mong Thế Tôn cho con theo Thế Tôn
xuất gia học đạo, thọ giới cụ túc, được làm Tỳ Kheo.”
Và cuối cùng thì có sự khác
nhau giữa Siddharta của Hermann Hesse và Lại-Tra-Hòa-La của
Trung A Hàm là, Siddharta sau khi đã gặp Đức Phật thì Siddharta biết
chắc rằng đây là con người vĩ đại đầu tiên và cũng là cuối
cùng mà mình đã gặp. Thế nhưng Siddharta vẫn phải từ giã
Đức Phật để ra đi tìm kiếm trong cô độc, còn Lại-Tra-Hòa-La
thì chấp nhận ở lại dưới cái bóng vĩ đại ấy.
Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La sau
khi xuất gia học đạo, thọ giới cụ túc, sống cô độc ở nơi xa
vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn. Ngài đạt đến mục đích
mà một thiện nam tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, chí tín lìa
bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo, là chỉ cầu hoàn
thành vô thượng phạm hạnh, ở ngay đời hiện tại này tự tri,
tự giác, tự chứng ngộ, thành tựu an trụ, biết như thật
rằng: “Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã
làm xong, không còn tái sanh nữa.”
Khoảng mười năm sau khi đắc
quả giải thoát, một hôm Lại-Tra-Hòa-La chợt nhớ đến cha mẹ và
lời hứa năm xưa nên Lại-Tra-Hòa-La xin Đức Phật trở về lại quê quán
để thực hiện trọn vẹn lời hứa đó. Được Đức Phật cho phép,
Lại-Tra-Hòa-La liền lên đường trở về quê. Khi Lại-Tra-Hòa-La
về đến làng thì trời đã tối nên Lại-Tra-Hòa-La quyết định
nghỉ qua đêm tại khu vườn Thi Nhiếp Hòa nằm phía Bắc thôn
Thâu-Lô-Tra.
Sáng hôm sau, như thường lệ,
Lại-Tra-Hòa-La đắp y mang bình bát vào làng để khất thực.
Lại-Tra-Hòa-La nhớ lại lời căn dặn của Đức Phật là khi đi khất thực
thì không được phân biệt giàu nghèo, mà phải thứ tự từ nhà này
sang nhà khác. Khi Tôn Giả Lại-Tra-Hòa-La đến trước của nhà
mà Tôn giả đã sanh ra và lớn lên thì “lúc ấy cha của Tôn
giả đứng trong cửa, đang chải tóc cạo râu thì chợt thấy một
Sa môn mang y bát bước vào thì ông lập tức quát mắng một
cách thậm tệ: “Sa môn trọc đầu này bị quỷ đen trói chặt,
tuyệt chủng không con cái, phá hoại gia đình ta. Ta có một
đứa con hết sức thương yêu, chiều chuộng, lòng những quyến
luyến không thể nào kể xiết, thế mà nó dẫn đi mất-đừng cho nó ăn”.
Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La nghe
cha mình chửi mắng như vậy thì vội vàng bỏ đi nhưng “lúc đó
người nô tì trong nhà xách một giỏ đồ ăn thiu thối, định vất vào
đống rác” thì Lại-Tra-Hòa-La liền lên tiếng: “Này cô em, nếu đồ
ăn thiu thối này đáng bỏ đi thì nên bỏ vào bình bát của
tôi, tôi sẽ ăn”. Trong khi đổ đồ ăn vào bình bát người nô
tì chợt nhận ra rằng, đây không phải là một Sa môn nào xa
lạ, mà chính là Lại-Tra-Hòa-La con của ông chủ nhờ cô nhận
ra bàn tay và đôi chân nhất là giọng nói.
Lập tức người nô tì vào nhà
báo cho ông chủ mình biết, ông chủ mừng quá nhưng khi ra đến nơi
thì “thấy Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La đang ngồi quay mặt vào vách ăn đồ
thiu thối” mà người nô tì vừa đổ vào bình bát cho Tôn giả.
Khi nhìn thấy cảnh xót xa này
thì người cha liền lên tiếng: “Lại-Tra-Hòa-La con, người con rất
mềm mại, thân hình đẹp đẽ, thường ăn thức ngon. Tại sao nay con
lại ăn đồ thiu thối như thế này ? Và vì lẽ gì con đã về đến
thôn Thâu-Lô-Tra này mà không về nhà cha mẹ”.
Tôn giả trả lời bằng cách
nhắc lại lời chửi bới của người cha khi Tôn giả đứng trước cửa nhà
mình: “Thưa cư sĩ, con đã vào nhà cha, nhưng không được bố thí
mà lại còn bị rủa xả rằng “Sa môn trọc đầu này bị quỷ đen
trói chặt, tuyệt chủng không có con cái, phá hoại gia đình
ta, ta có một đứa con hết sức thương yêu chiều chuộng lòng
những quyến luyến không kể xiết thế mà nó dẫn đi mất, đừng
cho nó ăn”. Con nghe như vậy nên vội vàng bỏ đi.
Khi nghe con mình nhắc lại
những lời đau đớn này thì người cha liền xin lỗi và mời
Lại-Tra-Hòa-La vào nhà rồi bảo vợ lo cơm nước để đãi Lại-Tra-Hòa-La.
Nhưng khi cơm nước xong, mẹ của Lại-Tra-Hòa-La không mời con
mình ăn mà “bà liền mang tiền bạc ra để giữa nhà một đống
lớn. Đống tiền lớn đến nỗi một người đứng bên này, một
người đứng bên kia không trông thấy nhau. Dồn một đống lớn
xong bà đi đến trước mặt Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La nói:
“Đây là phần tiền của mẹ, còn
phần tiền của cha con thì nhiều vô lượng trăm ngàn, không thể
tính được. Nay giao hết cho Lại-Tra-Hòa-La con, con nên xả giới bỏ
đạo, sống đời dục lạc mà bố thí, sung sướng tu phước nghiệp.
Vì sao như vậy? Vì cảnh giới của Thế Tôn rất khó, rất khó!
Xuất gia học đạo lại càng khó hơn”.
Nhìn đống vàng bạc Tôn giả
Lại-Tra-Hòa-La muốn thưa với mẹ mình một lời nhưng không biết mẹ
mình có đủ bình tĩnh để đón nhận một sự thật mà đối với những
người đang tham đắm như cha mẹ mình có chịu nhận ra sự thật
hay không ? Nhưng rồi cuối cùng Lại-Tra-Hòa-La vẫn quyết
định nói lên sự thật dù sự thật đó có làm đau lòng cha mẹ
mình đến đâu đi nữa. Lại-Tra-Hòa-La cẩn thận thưa trước với
mẹ:
“Con nay có một điều muốn nói, mẹ có chịu nghe không?”
Bà mẹ đáp:
“Này con, có điều gì con cứ nói, mẹ sẵn sàng lắng nghe.”
Tôn giả lễ phép thưa với mẹ:
“Mẹ nên may bao vải mới, đựng
đầy tiền, dùng xe chở đến sông Hằng, đổ xuống chỗ sâu. Vì sao
vậy? Vì do tiền này làm cho con người lo khổ, sầu thương, khóc lóc,
không được an vui.”
Thấy tiền bạc không dụ dỗ
được thì bà bèn dùng nữ sắc bằng cách xúi giục những người vợ cũ của
Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La đến quyến rũ Tôn giả. Bà bày mưu tính
kế cho các cô dâu cũ của mình: “Các con ơi, các con nên
dùng ngọc anh lạc. Trước khi trang điểm thân thể, thứ ngọc
ngà mà Lại-Tra-Hào-La lúc ở nhà rất ưa thích, dùng thứ anh
lạc này trang điểm rồi các con cùng nhau đến
Lại-Tra-Hòa-La, mỗi đứa ôm chân mà nói rằng: “Không biết
Hiền lang có thiên nữ nào đẹp hơn tôi mà khiến cho Hiền lang bỏ tôi
để tu hành phạm hạnh vì nàng?”
Các cô dâu cũ sau khi làm
theo lời dặn của mẹ chồng nghĩa là trang điểm sửa soạn rồi thì đồng
loạt đến trước Tôn giả Lại-Tra-Hào-La ôm chân Tôn giả mà nhắc
lại lời mẹ chồng đã bày.
Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La nghiêm chỉnh đáp lại lời các cô vợ cũ của mình rằng:
“Này các cô em, các cô nên
biết, tôi không vì thiên nữ mà tu phạm hạnh. Sở dĩ tôi tu phạm
hạnh là để đạt được quả vị giải thoát. Nay tôi đã đạt được mục đích
ấy. Những điều Phật dạy, nay tôi đã làm xong.”
Mặc cho các cô vợ cũ trách móc, Lại-Tra-Hòa-La quay sang phía cha mẹ mà thưa rằng:
“Thưa cư sĩ, nếu có thí cơm đúng giờ thì nên thí, tại sao phải làm phiền với nhau?”
Cha mẹ Lại-Tra-Hòa-La liền
đứng dậy đích thân mời Lại-Tra-Hòa-La thọ thực. Sau khi thọ
thực xong, Lại-Tra-Hòa-La bèn dùng Vô Lượng Phương Tiện để thuyết
pháp cho cha mẹ. Rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, Lại-Tra-Hòa-La nói
lên bài kệ như thế này:
Hãy nhìn hình bóng trang sức này
Trân bảo ngọc ngà và các thứ
Tóc uốn lượn buông xuôi phía hữu
Nốt ruồi xanh, mắt kẻ, mi dài
Trò dối trá gạt người si dại
Nhưng lừa sao được kẻ sang bờ!
Với bao nhiêu gấm vóc lụa là
Mong làm đẹp thân hình xú uế
Trò dối trá gạt người si dại
Nhưng lừa sao được kẻ sang bờ!
Và bao nhiêu hương liệu bôi xoa
Châm chấm điểm phấn vàng son đỏ
Trò dối trá gạt người si dại
Nhưng lừa sao được kẻ sang bờ!
Áo tịnh diệu trang hoàng thân thể
Những nguyên hình huyễn hoặc còn trơ
Trò dối trá gạt người si dại
Nhưng lừa sao được kẻ sang bờ!
Khi nai đã đạp tan lưới bẫy
Và phá tung cổng nhốt một đời
Ta bỏ lại miếng mồi, đi mất
Ai yêu gì trói buộc thân nai.
Vậy là chỉ trong một bài tụng
ngắn gọn Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La đã nói lên tất cả cái lố bịch
mà cha mẹ của Tôn giả đã bày trò từ khi Tôn giả bước vào nhà cho đến
khi Tôn giả ra đi.
“Kinh nói rằng sau khi nói
xong bài tụng Lại-Tra-Hòa-La đã “ dùng như ý túc nương hư không
mà đi”. Tôn giả về lại rừng Thâu-Lô-Tra, đi vào rừng, trải ni sư
đàn ngồi kiết già dưới gốc cây Tì Hê Lặc.
Việc Lại-Tra-Hòa-La một người
trẻ tuổi giàu có đi theo Đức Phật chẳng những đã gây xúc động
lớn trong dân chúng ở thôn Thâu-Lô-Tra mà còn cả đến vị vua đang cai
trị ở vùng đất này có tên là Câu-Lao-Bà nữa. Khi nghe tin
Lại-Tra-Hòa-La đã về lại nguyên quán Câu-Lao-Bà rất đỗi vui
mừng liền ra lệnh các thợ săn hãy đi tìm Lại-Tra-Hòa-La
đang dừng chân ở đâu, để Câu-Lao-Bà đến thăm viếng. Những
người thợ săn sau khi dò biết Tôn giả đang ở trong rừng
Thâu-Lô-Tra, trải tọa cụ ngồi kiết già dưới cây Tì-Hê-Lặc
thì nhà vua lập tức truyền lệnh sửa xa giá để tự mình đích
thân đến rừng Thâu-Lô-Tra yết kiến Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La.
Khi thấy vua Câu-Lao-Bà đến nơi, Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La nói:
“Đại vương, nay đến đây, muốn ngồi đâu tự nhiên ngồi thì ngồi, có được chăng?
Vua Câu-Lao-Bà đáp:
“Hôm nay, tuy tôi đến bờ cõi của mình, nhưng ý tôi muốn thiện nam tử Lại-Tra-Hòa-La mời tôi ngồi”.
Tôn giả liền mời vua Câu-Lao-Bà:
“Đây có chỗ ngồi riêng, xin mời đại vương ngồi”.
Sau khi đã ngồi xuống, nhà
vua liền nói lên sự thắc mắc của mình về việc xuất gia học đạo
của Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La.
Nhà vua hỏi:
“Có phải Ngài vì gia đình suy
sụp mà xuất gia học đạo chăng? Nếu vì không có tài vật nên sống
đời học đạo thì này Lại-Tra-Hòa-La trong nhà của Câu-Lao-Bà vương
giả này có nhiều tài vật, tôi sẽ xuất tài vật cho
Lại-Tra-Hòa-La, khuyên Lại-Tra-Hòa-La xả giới bỏ đạo, sống
đời dục lạc mà bố thì, tùy ý tu phước nghiệp. Vì sao như
vậy? Lại-Tra-Hòa-La, giáo pháp của Thế Tôn rất khó, xuất
gia học đạo lại càng khó hơn”.
Tôn giả Lại-tra-Hòa-La sau khi nghe xong, nói rằng:
“Đại vương, nay bằng sự bất tịnh mà mời tôi, không phải bằng sự thanh tịnh mà mời.”
Vua Câu-Lao-Bà hỏi lại:
“Tôi phải làm sao để thỉnh mời Lại-Tra-Hòa-La bằng sự thanh tịnh không phải bằng sự bất tịnh?”
Tôn giả đáp:
“Đại vương, nên nói như thế
này: “nhân dân trong nước tôi an ổn, sung sướng, không có việc
kinh sợ, không có đấu tranh, không có hà khắc, không có nô dịch, lúa
gạo đầy đủ, khất thực dễ dàng, Lại-Tra-Hòa-La sống trong
nước tôi, tôi sẽ ủng hộ như pháp. Đại vương, nói như vậy
gọi là bằng sự thanh tịnh mà mời tôi, không phải bằng sự
bất tịnh mà mời.”
Như vậy, qua câu nói của
Lại-Tra-Hòa-La ta thấy rằng A La Hán (của Tiểu thừa) hay Bồ Tát (của
Đại thừa) đều không có gì khác nhau nghĩa là cả Tiểu thừa và
Đại thừa đều đặt sự an lạc của chúng sanh trên sự an lạc
của riêng mình. Nói cách khác, ngày nào còn có một chúng
sanh đau khổ, bị ngược đãi hay bị đối xử một cách hà khắc
thì ngày đó các bậc A La Hán hay Bồ Tát đều không thể an
nhiên hưởng bất cứ sự an lạc riêng tư nào cho chính bản
thân mình.
Việc một thanh niên trẻ tuổi
từ bỏ giàu sang phú quí để theo Đức Phật đã khiến vua
Câu-Lao-Bà phải đi đến quyết định là nhà vua thấy có bổn phận phải
lên tiếng bác bỏ tất cả những luận điệu xuyên tạc mà xã hội Ấn
Độ đương thời đã nêu ra đối với những người trẻ tuổi như
Lại-Tra-Hòa-La:
“Lại nữa, Lại-Tra-Hòa-La có
bốn trường hợp suy vi, do suy vi nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà
sa, sống không gia đình học đạo. Những gì là bốn? Đó là bệnh suy,
lão suy, tài sản suy, và thân tộc suy.”
Sau đó vua Câu-Lao-Bà đã giải
thích rõ ràng từng trường hợp và đi đến kết luận người thanh
niên trẻ tuổi Lại-Tra-Hoa-La không có bất cứ một trường hợp suy vi
nào trong bốn trường hợp trên:
“Lại-Tra-Hòa-La, thế nào là
bệnh suy ? Hoặc có người thường xuyên bị bệnh, bệnh tật rất nặng,
quá đau đớn, người ấy nghĩ rằng: “Ta trường kỳ bị bệnh, bệnh tật
rất nặng, quá đau đớn. Ta thật có dục vọng nhưng không sống
đời dục lạc được. Nay ta cạo bỏ râu tóc (…). Đó gọi là
bệnh suy.
“Lại-Tra-Hòa-La, thế nào là
lão suy ? Hoặc có người tuổi già, các căn đều suy yếu, tuổi thọ
gần hết, ta thật có dục vọng, nhưng không thể sống đời dục lạc
được, ta nay nên cạo bỏ râu tóc (…). Đó gọi là lão suy”.
“Lại-Tra-Hòa-La, thế nào tài
sản suy ? Hoặc có người bần cùng cô thế,người ấy nghĩ rằng: “ Ta
bần cùng cô thế, nên phải cạo bỏ râu tóc(…). Đó gọi là tài sản
suy.”
“Lại-Tra-Hòa-La, thế nào gọi
là thân tộc suy? Hoặc có người bà con tuyệt tự, chết tuyệt,
không còn một ai, người ấy nghĩ rằng: “ Ta nay bà con tuyệt tự, chết
tuyệt, không còn một ai. Ta nay nên cạo bỏ râu tóc (…). Đó
gọi là thân tộc suy.”
Và vua Câu-Lao-bà xác nhận
một nữa rằng, Lại-Tra-Hòa-La không có bất cứ một sự suy vi nào
trong bốn trường hợp suy vi trên:
“Lại-Tra-Hòa-La, khi xưa
không bệnh hoạn, an ổn trọn vẹn, đường tiêu hóa điều hòa, không lạnh
không nóng, bình chánh an lạc, thuận hòa không tranh chấp. Do
đó, các thứ đồ ăn dù mềm hay cứng đều được dễ dàng tiêu
hóa, an ổn. Như vậy Lại-Tra-Hòa-La chẳng phải vì bệnh suy
mà cạo bỏ râu tóc…”
“Lại-Tra-Hòa-La, khi xưa vào
tuổi niên thiếu, tóc đen óng mượt, thân thể khỏe mạnh, rồi xướng
ca tấu nhạc, mặc tình thỏa thích. Lại chưng diện thân thể, thường
thích dạo chơi. Lúc ấy bà con không ai muốn để Ngài xuất
gia học đạo, cha mẹ khóc lóc, lo sầu cũng không muốn Ngài
lìa bỏ gia đình. Nhưng Ngài đã cạo bỏ râu tóc…”
“Lại-Tra-Hòa-La ở trong thôn
Thâu-Lô-Tra này, về phần tài vật, gia đình Ngài là đệ nhất, là
tối đại, là tối thắng, là tối thượng, như vậy Lại-Tra-Hòa-La không
vì tài sản suy mà xuất gia học đạo.”
“Lại-Tra-Hòa-La ở trong thôn
Thâu-Lô-Tra này, các bà con giàu có đều còn sống. Như vậy
Lại-Tra-Hòa-La không phải vì thân tộc suy mà đi học đạo.”
Như vậy, vì nguyên nhân nào
khiến Lại-Tra-Hòa-La quyết định từ bỏ tất cả để xuất gia học
đạo? Đây là lời giải thích của chính Lại-Tra-Hòa-La cho vua
Câu-Lao-Bà :
“Này đại vương, Thế Tôn là
đấng đã biết, đã thấy, là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác,
đã thuyết giảng bốn sự. Tôi chấp nhận điều ấy, tôi thấy, nghe,
hiểu biết điều ấy, nên tôi tự nguyện sống không gia đình
học đạo.”
Những gì là bốn ?
“Đại vương, thế gian này
không được bảo vệ, không đáng nương tựa. Thế gian này nhất thiết
phải đi đến sự già nua. Thế gian này không thường, cần phải bỏ đi.
Thế gian này không có sự thỏa mãn, không có sự biết đủ, là
tôi tớ của ái.”
Vua Câu-Lao-Bà hỏi:
“Lại-Tra-Hòa-La, như ngài vừa
nói “thế gian này không được bảo vệ, không đáng nương tựa”.
Nhưng Lại-Tra-Hòa-La tôi có con, cháu, anh, em, bè đảng, tượng quân,
xa quân, mã quân, bộ quân, thảy đều giỏi bắn, giỏi chống cự,
nghiêm nghị, dũng mãnh như vương tử, lực sĩ, lại có người
xem tướng, có kẻ bày mưu, có người tính toán, có kẻ thông
hiểu điển sách, có người giỏi đàm luận, có quân thần, có
quyến thuộc, người trì chú, kẻ biết chú, bất cứ phương nào
có sự khủng bố thì có kẻ chế phục, ngăn cản. Nếu như
Lại-Tra-Hòa-La nói “thế gian này không được bảo vệ, không
đáng nương tựa” thì này Lại-Tra-Hòa-La nói như thế có nghĩa là gì ?”
Lại-Tra-Hòa-La đáp:
“Đại vương, bây giờ tôi hỏi
Ngài xin tùy theo sự hiểu biết mà trả lời, Đại vương thân này có
bệnh không?”
Vua Câu-Lao-Bà đáp:
“Lại-Tra-Hòa-La, nay thân này của tôi thường có phong bệnh.”
Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La hỏi:
“Đại vương, khi phong bệnh
bộc phát rất trầm trọng, rất đau đớn, thì này đại vương, lúc ấy
có thể bảo bọn con cháu, anh em, họ hàng thân thích, tượng quân, xa
quân, mã quân, bộ quân, thảy đều giỏi bắn, giỏi chống cự,
nghiêm nghị, dũng mãnh như vương tử, lực sĩ, Bát La Khiên
Đề, Ma Ha Năng Già, kẻ xem tướng, kẻ bày mưu,người tính
toán, kẻ thông hiểu hiển sách, người giỏi luận đàm, quân
thần, quyến thuộc, kẻ trì chú, người biết chú rằng: “ Các
người hãy đến, tạm thời thay thế ta chịu sự khổ sở đau đớn
để ta khỏi bệnh, an lạc, được chăng?”.
Vua Câu-Lao-Bà đáp:
“Không thể được. Vì sao vậy?
Tôi tự gây nghiệp, nhân bởi nghiệp, duyên bởi nghiệp, riêng một
mình tôi chịu khổ đau đớn”.
Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La lại nói:
“Đại vương, thế cho nên đức
Thế Tôn dạy rằng: “ Thế gian này không được bảo vệ, không đáng
nương tựa. Tôi muốn nhẫn lạc điều đó, tôi thấy, tôi nghe, hiểu biết
điều đó nên quyết chí xuất gia học đạo.”
Vua Câu-Lao-Bà lại nói rằng:
“Đại vương. thế gian này
không được bảo vệ, không đáng nương tựa”-Này Lại-Tra-Hòa-La, tôi
cũng muốn nhẫn lạc điều đó. Vì sao vậy? Thế gian này quả thực
không được bảo vệ, không đáng nương tựa.”
Vua Câu-Lao-Bà lại hỏi:
“Như Lại-Tra-Hòa-La đã nói
“Đại vương, thế gian này tất cả đều đi đến chỗ già nua”.
Lại-Tra-Hòa-La nói như thế có nghĩa là gì?”
Tôn giả đáp:
“Đại vương, bây giờ tôi hỏi
Ngài xin tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Lúc đại vương còn hai
mươi bốn tuổi hay hai mươi lăm tuổi thì như thế nào? Khi ấy sự
nhanh nhẹn như thế nào đối với ngày nay? Khi ấy, gân sức,
hình thể, nhan sắc như thế nào đối với ngày nay?”
Vua Câu-Lao-Bà đáp:
“Khi tôi hai mươi bốn hay hai
mươi lăm tuổi, tự nhớ lại thời ấy, sự nhanh nhen, gân sức, hình
thể, nhan sắc không ai hơn tôi. Lại-Tra-Hòa-La nay tôi đã già nua,
các căn lụn bại, mạng sống sắp chấm dứt, tuổi đã tám mươi,
đâu có mạnh khỏe như xưa”.
Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La lại nói tiếp:
“Đại vương, thế cho nên đức
Thế Tôn dạy rằng “ thế gian này tất cả đều đi đến chỗ già nua”
tôi muốn tiếp nhận điều đó, tôi thấy, nghe, hiểu biết điều đó nên
quyết chí xuất gia học đạo.”
Vua Câu-La-Bà nói :
“Như Lại-Tra-Hòa-la đã nói: “
Đại vương, thế gian này tất cả đều đi đến chỗ già nua” tôi
cũng tiếp nhận điều đó. Vì sao vậy? Vì thế gian này quả thật tất cả
đều đi đến chỗ già nua.”
Nhà vua lại hỏi tiếp:
“Như Lại-Tra-Hòa-La đã nói: “
Đại vương, thế gian này vô thường, cần phải bỏ đi”.
Lại-Tra-Hòa-La nói như vậy có nghĩa là gì?”.
Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La đáp:
“Đại vương, bây giờ tôi hỏi
Ngài, xin tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Đại vương, có phải
nước Câu-Lâu-Sấu dồi dào, hậu cung dồi dào, kho tàng cũng dồi dào
không?”.
Vua Câu-Lao-Bà đáp:
“Đúng vậy!”.
“Đại vương, có nước
Câu-Lâu-Sấu dồi dào, hậu cung dồi dào, kho tàng dồi dào, nếu thời
gian đã đến, không thể nương tựa, chịu đựng sự tan vỡ, tất cả đời
này đều đi đến chỗ diệt vong, lúc đó nước Câu-Lâu-Sấu dồi
dào, hậu cung dồi dào, kho tàng dồi dào, có thể từ đời này
sang đời sau không?”
Nhà vua đáp:
“Không được. Vì sao vậy? Tôi phải đơn độc, cô thân, không bạn bè, từ đời này cho đến đời sau”.
Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La lại nói :
“Thế cho nên đức Thế Tôn dạy
rằng: “ Thế gian này vô thường, cần phải bỏ đi”. Tôi muốn nhẫn
lạc điều đó, tôi thấy, nghe,hiểu biết điều đó nên cạo bỏ râu tóc,
lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo”.
Vua Câu-Lao-Bà lại nói:
“Như Lại-Tra-Hòa-La đã nói: “
Đại vương, thế gia này vô thường, cần phải bỏ đi”. Tôi cũng
muốn nhẫn lạc điều đó. Vì sao? Vì thế gia này quả thật vô thường,
cần phải bỏ đi”.
Vua Câu-Lao-Bà lại hỏi:
“Như Lại-Tra-Hòa-La đã nói: “
Đại vương, thế gian không có sự thỏa mãn, không có sự biết
đủ, là tôi tớ của tham ái”. Lại-Tra-Hòa-La, nói như thế có nghĩa là
gì ?”
Tôn giả đáp:
“ Đại vương, bây giờ tôi hỏi
Ngài, xin tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Có nước Câu-Lâu-Sấu
dồi dào, hậu cung dồi dào, kho tàng dồi dào phải không?”
Nhà vua đáp:
“Đúng vậy!”
Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La lại hỏi:
“Có nước Câu-Lâu-Sấu dồi dào,
hậu cung dồi dào, kho tàng dồi dào. Nếu có một người từ Phương
Đông đến, đáng tín nhiệm, không lừa dối, nói với vua rằng: “ Tôi từ
Phương Đông đến, thấy nước ấy vô cùng giàu có, an vui,
nhân dân đông đúc. Đại vương, có thể đánh chiếm đoạt của
cải, nhân dân, lực dịch nước ấy. Vua có thể đi đánh chiếm
nước ấy không?”
Nhà vua đáp:
“Lại-Tra-Hòa-La, nếu tôi biết
có nước nào giàu có của cải, nhân dân đông đúc, lực dịch như
vậy, nhất định tôi sẽ đi đánh chiếm nước đó.”
“Cũng vậy, phương Nam, Phương
Tây, phương Bắc cũng như vậy. Từ bờ biển lớn, nếu có một
người đến đáng tín nhiệm nói với vua rằng: “ Tôi từ bờ biển lớn đến
đây, thấy nước đó vô cùng giàu có, nhân dân đông đúc, an lạc.
Đại vương, có thể chiếm đoạt của cải, nhân dân, lực dịch
nước ấy. Vua muốn đi đánh chiếm nước ấy không ?”
Vua Câu-Lao-Bà đáp:
“Lại-Tra-Hòa-La, nếu tôi biết
có nước nào giàu có của cải, nhân dân, lực dịch như vậy, nhất
định tôi sẽ đi đánh chiếm nước đó”
Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La lại hỏi:
“Đại vương, thế cho nên đức
Thế Tôn dạy rằng: “Thế gian này không có sự thỏa mãn, không có
sự biết đủ, là tôi tớ của tham ái” tôi muốn nhẫn lạc điều đó, tôi
thấy, nghe,hiểu biết điều đó nên tôi quyết chí xuất gia học
đạo”
Vua Câu-Lao-Bà lặp lại:
“Như Lại-Tra-Hóa-La đã nói:
“Đại vương, thế gian này không có sự thỏa mãn, không có sự biết
đủ, làm tôi tớ của tham ái”. Tôi muốn nhẫn lạc điều đó. Vì sao? Vì
thế gian này không có sự thỏa mãn, không có sự biết đủ, là
tôi tớ của tham ái”
Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La nhắc lại:
“Đức Thế Tôn là đấng đã biết,
đã thấy, là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, nói cho tôi
nghe bốn điều này. Tôi muốn nhẫn lạc điều đó nên quyết chí xuất gia
học đạo”
Thì ra, những lời than thở
của vua Câu-Lao-Bà với Tôn giả Lại-Tra-Hòa-La đệ tử của Đức Phật
tại một khu rừng Thâu-Lô-Tra ở Ấn Độ cách đây đã 25 thế kỉ: “ Khi
tôi còn hai mươi bốn tuổi hay hai mươi lăm tuổi, tự nhớ lại
thời ấy, sự nhanh nhẹn, gân sức, hình thể, nhan sắc, không
ai hơn tôi. Lại-Tra-Hòa-La, tôi nay đã già nua, các căn đã
lụn bại, mạng sống sắp chấm dứt, tuổi đầy tám mươi, đâu
còn mạnh khỏe như xưa.” Vẫn không có gì thay đổi, đối với
số phận bi thảm của con người, dù con người đã lên được Mặt
Trăng, và đang chuẩn bị đổ bộ lên sao Hỏa và các hành tinh
khác nữa. Nhưng chắc chắn con người sẽ vẫn tiếp tục than
thở như Câu-Lao-Bà đã từng than thở nếu mỗi người trong chúng
ta không tự làm một cuộc cách mạng trong chính tự bản thân của mình.
Cuộc cách mạng tự thân ấy phải bắt đầu từ đâu?
Trong kinh Khổ Ấm (II) Đức Phật đã nói với một cư sĩ có tên là Ma-Ha-Nam:
“Này Ma-Ha-Nam, có năm công
đức của dục, đáng yêu, đáng mơ tưởng, đáng vui thích, có liên
hệ đến dục, khiến cho người khoái lạc. Những gì là năm? Đó là sắc
được biết bởi mắt, âm thanh được biết bởi tai, hương được biết
bởi mũi, vị được biết bởi lưỡi, xúc được biết bởi thân. Do
đó mà vua và quyến thuộc của vua được khoái lạc hoan hỉ.
Này Ma-Ha-Nam, vị ngọt của dục chỉ cùng cực đến đó chứ
không thể hơn nữa, nhưng tai họa của nó thì rất nhiều”.
Như vậy, sở dĩ chúng ta chạy
theo lợi danh, địa vị, tiền bạc, hay sắc dục cũng chỉ mục đích
duy nhất là phục vụ cho năm cái mà Đức Phật đã gọi là “ năm công đức
của dục” ấy. Nhưng Đức Phật đã không quên cảnh cáo chúng
ta rằng: “ nhưng tai họa của nó thì lại rất nhiều”.
Và Đức Phật đã chỉ ra cái họa
ấy cho bản thân, cho gia đình, và cuối cùng là cho cả quốc gia,
xã hội nữa.
Trước hết, Đức Phật đã chỉ
cái họa cho bản thân một cách cụ thể rõ ràng rằng: “ Người ấy
gặp lạnh phải chịu lạnh, gặp nóng phải chịu nóng, bị đói khát mệt
nhọc, bị muỗi mòng châm chích, nó phải lắm nghề nghiệp như thế
để mong kiếm được tiền của”. Nhưng khi đã có tiền của rồi
lại phải chịu cái khổ khác nữa, đó là cái khổ vẫn theo Đức
Phật: “ sanh yêu quí, gìn giữ, chôn giấu. Vì sao vậy? Vì nó
nghĩ: “ Tài vật này của ta, đừng để cho ai cướp đoạt, hay
lửa thiêu hư hoại, mất mát, hoặc xuất tài mà vô lợi hoặc
làm việc mà không thành tựu”.
Sau cái họa cho bản thân thì đến cái họa cho gia đình và cả dòng họ nữa:
“Lại nữa, này Ma-Ha-Nam, vì
chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên mẹ
tranh cãi với con, con tranh cãi với mẹ, cha con, anh em, chị em, bà
con dòng họ tranh cãi lẫn nhau. Vì tranh cãi với nhau như
vậy nên mẹ nói xấu con, con nói xấu mẹ. Cha con, anh em,
chị em, bà con dòng họ nói xấu lẫn nhau”.
Và cuối cùng, Đức Phật không
quên nêu ra thủ phạm chính là cái dục chứ không ai khác đã
đang và sẽ đốt cháy thế giới này:
“Lại nữa, Ma-Ha-Nam, vì chúng
sanh nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên vua
tranh giành với vua, Bà Là Môn tranh giành với Bà La Môn, cư sĩ
tranh giành với cư sĩ, dân tranh giành với dân, nước này tranh
giành với nước nọ. Bởi tranh giành nên nghịch nhau, rồi
dùng binh khí để giết hại lẫn nhau, hoặc nắm tay thoi, ném
đá, hoặc dùng gậy đánh, dao đâm chặt. Trong khi giao đấu
hoặc chết, hoặc sợ hãi, thọ cực trọng khổ…”
Dường như, tất cả những cuộc
chiến tranh trong lịch sử của nhân loại từ xưa đến nay dù được
những người chủ trương giải thích có hợp lí như thế nào đi nữa thì
thực tế cũng chỉ để che đậy cái dục nghĩa là lòng tham vô
đáy của họ mà thôi, như vua Câu-Lao-Bà đã thú nhận với Tôn
giả Lại-Tra-Hòa-La, đệ tử của Đức Phật tại khu rừng
Thâu-Lô-Tra ở Ấn Độ cách đây 25 thế kỉ: “ Lại-Tra-Hòa-La,
nếu tôi biết nước nào giàu có của cải, nhân lực, lực dịch
như vậy, nhất định tôi sẽ đánh chiếm nước đó!”
Cái dục mang tai họa đến
chẳng những cho bản thân, gia đình mà còn cả xã hội loài người một
cách nguy hiểm như vậy, nên Đức Phật đã chỉ bày rất rõ ràng cụ
thể phương pháp diệt dục mà chính Ngài đã thực hành, để rồi
cuối cùng Ngài đã diệt trừ nó, nghĩa là Ngài đã làm cuộc
cách mạng vĩ đại đó trong chính tự thân của mình.
Trong kinh có tên là Kinh Niệm, Đức Phật thuật lại:
“Ta thực hành như vầy: sống
viễn ly, cô độc, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, nếu
sanh tâm niệm dục, ta liền biết là đang sanh tâm niệm dục, hại mình,
hại người, hại cả hai, diệt trí tuệ, nhiều phiền nhọc, không
chứng đắc Niết Bàn. Biết rằng, hại mình, hại người, hại cả
hai, diệt trí tuệ, nhiều phiền nhọc không chứng đắc Niết
Bàn nó liền bị tiêu diệt nhanh chóng”.
Và đoạn sau đây ta sẽ thấy
Đức Phật đã chiến đấu quyết liệt như thế nào đối với tai họa
khủng khiếp của dục:
“Khi sanh tâm niệm dục, Ta
không thọ nhận, mà đoạn trừ, loại trừ, tống khứ, sanh tâm niệm
nhuế, tâm niệm hại cũng không thọ nhận, mà đoạn trừ, loại trừ, tống
khứ. Vì sao vậy? Vì Ta thấy rằng, nhân nơi đó mà sanh vô
lượng pháp ác bất thiện. Vì như vào tháng cuối xuân, vì đã
trồng lúa nên đất thả bò không được rộng. Người chăn bò thả
bò nơi đồng ruộng, bỏ vào đất người, nó liền cầm roi đến
ngăn lại. Vì sao vậy? Vì người chăn bò biết rằng nhân nơi
đó mà có lỗi lầm là sẽ bị chửi, bị đánh, bị trói. Do đó,
người chăn bò cầm roi đến ngăn lại. Ta cũng như vậy, sanh
tâm niệm dục, không thọ nhận, mà đoạn trừ, loại trừ, tống khứ.
Sanh tâm niệm nhuế, tâm niệm hại cũng không thọ nhận, mà đoạn trừ,
loại trừ, tống khứ. Vì sao vậy? Vì Ta thấy nhân nơi đó mà
sanh vô lượng ác bất thiện”
Nhưng khi một người đã tiêu
diệt hoàn toàn lòng dục, không còn tham sân si chi phối thì khi
bước xuống cuộc đời nghĩa là phải đối mặt với những con người đầy
tham ái, ích kỷ, thì họ phải đối phó với những người đó như
thế nào? Tôn giả Xá-Lợi-Phất, vị tôn giả mà trong kinh Phân
Biệt Thánh Đế đã được Đức Phật ca ngợi là: “ Bậc thông
tuệ, tốc tuệ, minh đạt tuệ, biện tài tuệ, quảng tài tuệ,
thâm tuệ, xuất yếu tuệ” đã một lần bị một vị Tỳ Kheo vu
khống trước Đức Phật là: “ Tôn giả Xá-Lợi-Phất đã khinh mạn
con, rồi đi trú trong nhân gian”.
Rồi câu chuyện được đem ra
giữa Đức Phật và đại chúng Tỳ Kheo. Trước Đức Phật và chúng Tỳ
Kheo, có cả vị Tỳ Kheo đã vu khống mình, Tôn giả Xá-Lợi-Phất trình
bày rằng chỉ Tỳ Kheo nào “ không niệm thân trên thân thì
người ấy mới khinh mạn đồng phạm hạnh”. Tôn giả Xá-Lợi-Phất
khẳng định với Đức Phật và chúng Tỳ Kheo rằng: “ Con có
niệm thân trên thân thì vì sao con lại đi khinh mạn một
đồng phạm hạnh rồi đi trú trong nhân gian?”.
Sau đó, tôn giả Xá-Lợi-Phất
bằng tất cả “biện tài tuệ” của mình đã đưa ra nhiều ví dụ
vì sao tôn giả có thể “ như như bất động” giữa xã hội loài người
đầy hận thù này. Và đây là một trong mười ví dụ mà tôn giả đã
trình bày trước Đức Phật và đại chúng Tỳ Kheo trong kinh có
tên là Sư Tử Hống:
“Bạch Thế Tôn, cũng như mặt
đất dung nạp tất cả đồ sạch, đồ bẩn, đại tiện, tiểu tiện, nước
mũi, nước miếng. Đất không phải vì thế mà khởi sự thương ghét, không
lấy làm sỉ nhục, xấu xa, không hổ, không thẹn. Bạch đức
Thế Tôn, con cũng như vậy. Tâm con như mặt đất kia, không
ghét, không oán,cũng không sân nhuế, không não hại, rộng
lớn, vô biên, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian thành
tựu và an trụ”.
Có lẽ chính vì thế mà ta
chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi D.T.Suzuki nhà thiền học được tôn
xưng là vĩ đại nhất của thế kỉ 20, vẫn thường trích dẫn câu
chuyện về chiếc cầu đá của thiền sư Triệu Châu ở Trung
Quốc, như một thông điệp về tình yêu và sự bao dung mà ông
muốn gởi đến cho nhân loại ở thế kỉ 20, một thế kỉ đầy dẫy
những ý thức hệ cuồng tín luôn luôn kích động lòng hận thù:
“Một hôm có vị sư đến thăm
Triệu Châu, nói: “Thưa thầy, chiếc cầu đá của thầy được nói đến
khắp nơi, nhưng khi tôi nhìn thấy thì nó chỉ là cây cầu gỗ ọp ẹp”.
Triệu Châu trả lời:
“Ông chỉ thấy cây cầu khập khễnh của mình nên khó lòng nhìn thấy cây cầu đá thực sự”.
Nhà sư hỏi:
“Thế nào là cầu đá?”
Triệu Châu đáp:
“Người đi qua trên đó, lừa cũng đi qua trên đó”.
Và đây là lời bình của D.T.Suzuki:
“Cây cầu của Triệu Châu cũng
như cát của sông Hằng, bị đủ loại súc sinh giẫm đạp và vấy bẩn.
Nhưng cát vẫn không một lời ta thán. Một dấu chân để lại của các
tạo vật đủ loại trong phút chốc đều bị xóa tan, và cũng như
bao rác rưởi của chúng, hết thảy đều bị cuốn trôi đi, trả
lại cho sự trong sạch ban đầu. Cây cầu đá của Triệu Châu
cũng vậy, không những lừa ngựa đi qua mà ngay cả xe tải hay
xe lửa cũng đi qua đó mà nó vẫn (tận tậm), thích nghi tất
cả. Ngay cả khi họ tận dụng nó, nó cũng không phiền toái
chút nào”.2
Có một thanh niên trẻ tuổi
nữa tên là Phất-Ca-Sa-Lợi, người thanh niên trẻ tuổi này có lẽ
đặc biệt hơn Lại-Tra-Hòa-La. Sở dĩ tôi nói đặc biệt là vì
Lại-Tra-Hòa-La sau khi gặp Phật và nghe Phật thuyết pháp rồi mới từ
bỏ để xuất gia học đạo nhưng Phất-Ca-Sa-Lợi thì chưa hề gặp
Đức Phật mới chỉ nghe giáo pháp gián tiếp của Đức Phật thì
nhất quyết từ bỏ gia đình mà xuất gia học đạo.
Câu chuyện về người thanh
niên trẻ tuổi Phất-Ca-Sa-Lợi được ghi lại trong Phân Biệt Lục Sứ
Kinh như thế này:
“Một thời Đức Phật Trú tại
nước Ma-Kiệt-Đà, ở thành Vương Xá. Bây giờ đức Thế Tôn đến nhà
người thợ gốm nói rằng:
“ Này thợ gốm, ta nay muốn tạm trú ở phòng làm đồ gốm một đêm, ông có thuận chăng?”
Thợ gốm trả lời:
“Con chẳng trở ngại gì cả.
Nhưng vì đã có một Tỳ Kheo đã trú trong đó trước rồi. Nếu vị ấy
thuận thì xin tùy ý.”
Bấy giờ đức Thế Tôn ra khỏi nhà thợ gốm, đi vào phòng làm gốm, nói với Tôn giả Phất-Ca-Sa-Lợi rằng:
“Này Tỳ Kheo, ta nay muốn tạm trú một đêm ở phòng làm gốm, thầy có thuận chăng?”
Tôn giả Phất-Ca-Sa-Lợi đáp:
“Thưa Hiền giả, tôi không trở
ngại. Vả lại, ở phòng làm gốm này có chỗ ngồi bằng cỏ đã trải
xong nếu hiền giả muốn ở lại thì tùy ý”.
Nghe vậy, đức Thế Tôn từ
phòng gốm đi ra ngoài rửa chân rồi mới trở vào, lấy ni sư đàn trải
lên chỗ ngồi bằng cỏ mà ngồi kiết già suốt đêm yên lặng tĩnh tọa
định ý.
Tôn giả Phất-Ca-Sa-Lợi cũng suốt đêm yên lặng, tĩnh tọa, định ý.
Bấy giờ, đức Thế Tôn suy nghĩ
như thế này: “Tỳ Kheo này đi đứng tịch tĩnh, thật kì lạ, thật
hiếm có. Ta hãy hỏi Tỳ Kheo này: “Thầy của bạn là ai? Y theo ai mà
bạn xuất gia, học đạo và thọ pháp?”
Tôn giả Phất-Ca-Sa-Lợi đáp:
“Này Hiền giả, có Sa môn
Cù-Đàm, dòng họ Thích, đã từ bỏ tông tộc, cạo bỏ râu tóc, khoác y cà
sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo, đã
giác ngộ vô thượng chánh Đẳng Chánh Giác. Vị ấy là thầy của
tôi. Tôi y theo vị ấy mà xuất gia học đạo, thọ pháp.”
Đức Thế Tôn lại hỏi:
“Tỳ Kheo,đã từng thấy thầy ấy chưa?”
Tôn giả Phất-Ca-Sa-Lợi đáp:
“Chưa thấy!”
Thế Tôn lại hỏi:
“Nếu gặp Thầy ấy,bạn có nhận ra không?”
Tôn giả Phất-Ca-Sa-Lợi đáp:
“Không biết. Nhưng này hiền
giả, tôi nghe rằng Thế Tôn là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh
Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài là thầy
của tôi. Tôi theo y theo Ngài mà xuất gia học đạo, thọ
pháp.”
Khi ấy, Thế Tôn lại suy nghĩ
như vầy: “Thiện nam tử này, y theo Ta mà xuất gia, học đạo, thọ
pháp. Ta nay có nên thuyết pháp chăng?”
Suy nghĩ như vậy rồi Thế Tôn bèn nói với Tôn giả Phất-Ca-Sa-Lợi:
“Này Tỳ Kheo, nay ta sẽ
thuyết pháp cho thầy, phần đầu toàn thiện, phần giữa cũng toàn thiện
và phần cuối cũng toàn thiện, có nghĩa, có văn đầy đủ, thanh
tịnh, hiền thiện phạm hạnh. Đó gọi là “phân biệt sa giới”
thầy hãy lắng nghe, khéo suy tư và ghi nhớ.”
Đức Phật đã giảng cho
Phất-Ca-Sa-Lợi về sáu giới tụ, sáu xúc xử, mười tám ý cận hành, bốn
thắng xứ. Sau khi nghe xong bài pháp, Phất-Ca-Sa-Lợi đắc pháp,
và nhận ra đây chính là Đức Phật bèn xin sám hối vì không
biết nên đã gọi là “Hiền Giả”.
Cuối bài pháp Đức Phật đã dạy Phất-Ca-Sa-Lợi những lời vô cùng quan trọng như thế này:
“Này Tỳ Kheo, ai nghĩ rằng
“tôi đang là” ấy đang là tự đề cao. Rằng “tôi sẽ hiện hữu” ấy
là tự đề cao. Rằng “tôi sẽ không hiện hữu” ấy là tự đề cao. “Tôi sẽ
có sắc” ấy là tự đề cao. “Tôi sẽ không có sắc” ấy là tự đề
cao. “ Tôi sẽ có tưởng” ấy là tự đề cao. “Tôi sẽ không có
tưởng” ấy là tự đề cao. “Tôi sẽ không có tưởng, không phải
không có tưởng” ấy là tự đề cao. Đó là cống cao, là kiêu
ngạo, là phóng dật.”
Câu trên khiến ta liên tưởng
đến câu nói lừng danh của triết gia Pháp Descartes: “Tôi tư
duy nên tôi tồn tại”.(I think. There for I am).
Có lẽ Đức Phật không hề bận
tâm đến “tồn tại” hay “không tồn tại” như Descartes mà Đức Phật
chỉ khuyên dạy Phất-Ca-Sa-Lợi hãy vượt qua chẳng những Ngã (àtman)
thôi còn cả Vô Ngã (anàtman) nữa để tiến thẳng đến chân lí
tuyệt đối ( Paramàrtha-satya) nghĩa là Tánh Không (Sùnyatà)
nơi mà hoàn toàn nằm ngoài sự “tồn tại” hay “không tồn
tại”.
Chỉ khi ấy, Đức Phật giảng tiếp cho Phất-Ca-Sa-Lợi rằng:
“ Này Tỳ Kheo, nếu không có
tất cả những sự tự đề cao, cống cao, kiêu ngạo, phóng dật ấy thì
ý tịch tĩnh.
Này Tỳ Kheo, ý tịch tĩnh thì
không chán ghét, không ưu sầu, không lao nhọc, không sợ hãi, vì
sao? Vì Tỳ Kheo ấy đã thành tựu Pháp nên không còn chán ghét, không
chán ghét thì không ưu tư, không ưu tư thì không sầu não,
không sầu não thì không lao nhọc, không lao nhọc thì không
sợ hãi. Nhân nơi không sợ hãi nên sẽ đắc Niết Bàn, biết như
thật rằng: “ Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần
làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa”
Nhưng Đức Phật không chỉ đến
với những người trẻ tuổi như Lại-Tra-Hòa-La hay Phất-Ca-Sa-Lợi
nghĩa là những thanh niên trí thức này luôn luôn bận tâm đến những
vấn đề lớn của nhân sinh, mà Ngài còn đến cả những người trẻ
tuổi rất bình thường như người thanh niên có tên là
Thiện-Sinh (Singalovàda) mà kinh Thiện Sinh đã ghi lại như
sau:
“Bấy giờ khi đêm đã qua, vào
buổi sáng sớm, Đức Thế Tôn đắp y, cầm bát, vào thành Vương Xá để
khất thực. Khi đức Thế Tôn vào thành Vương Xá để khất thực, thì từ
xa trông thấy Thiện-Sinh, con trai vị cư sĩ, vào lúc sáng
sớm, tắm gội, mặc áo Sô-ma mới, tay cầm lá Câu-Xá còn tươi,
đi đến bờ sông, chắp tay lạy sáu phương:
“Ở Phương Đông, nếu có chúng
sanh nào thì tôi hết lòng cung kính,, cúng dường, lễ bái, thờ
phụng chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ
bái, thờ phụng chúng sanh đó rồi, thì chúng sanh đó cũng hết
lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.
Cũng như vậy Phương Nam,
Phương Tây, Phương Bắc, trên, dưới, nếu có chúng sanh nào thì tôi
cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh
đó.”
Đức Thế Tôn thấy thế, liền đến gần hỏi Thiện-Sinh, con trai cư sĩ:
“Này con trai cư sĩ, ông thọ
nhận giáo hóa của Sa môn, Bà La Môn nào? Ai dạy ông cung kính,
cúng dường, lễ bái, thờ phụng sáu phương? Mà mỗi buổi sáng tắm rửa,
mặc áo Sô-ma mới, tay cầm lá Câu-xá còn tươi, đến bờ sông
rồi chắp tay lạy sáu phương?”
Thiện-Sinh, con trai cư sĩ thưa rằng:
“Bạch đức Thế Tôn, không có
vị Sa môn hay Bà La Môn nào dạy con cả. Bạch Thế Tôn, khi cha con
sắp lâm chung, nhân sáu phương mà trối lại con, khéo dạy, khéo
quở con rằng: “Này Thiện Sinh, sau khi cha mất, con phải
chắp tay mà lạy sáu phương”
Đức Thế Tôn sau khi nghe như vậy, Ngài mới nói rằng:
“Này con trai cư sĩ, ta nói
có sáu phương, chứ không nói là không có. Này con trai cư sĩ,
nếu có người phân biệt sáu phương, xa lìa những nghiệp ác bất thiện
ở sáu phương. Người đó ngay trong đời này đáng được cung
kính, tôn trọng. Sau khi thân hoại mạng chung, chắc chắn sẽ
sanh đến nơi thiện xứ. Này con trai cư sĩ, chúng sanh có
bốn loại nghiệp, bốn loại ô uế. Những gì là bốn? Này con
trai cư sĩ, sát sanh là một loại nghiệp, một loại ô uế của
chúng sanh. Lấy vật không cho, tà dâm, vọng ngôn, là một
loại nghiệp, một loại ô uế của chúng sanh.”
Rồi Đức Phật giảng cho Thiện
Sinh nghe sáu phi đạo, tức là sáu nguyên nhân, đưa một gia
đình đến hao tài và cuối cùng là phá sản:
“Này con trai cư sĩ, kẻ mong
cầu của cải nên biết sáu điều phi đạo. Sáu điều đó là gì? Một
là chơi bời các thứ cờ bạc mà mong cầu tài vật là phi pháp. Hai là
rong chơi không phải lúc mà mong cầu tài vật là phi pháp. Ba
là đam mê rượu chè mà mong cầu tài vật là Phi Pháp. Bốn là
gần gũi ác tri thức mà mong cầu tài vật là phi pháp. Năm là
đam mê kĩ nhạc mà mong cầu tài vật là phi pháp và sáu là
lười biếng mà mong cầu tài vật là phi pháp.”
Với tuổi trẻ thì bạn bè đóng
một vai trò vô cùng quan trọng trong việc thành công hay thất
bại cho chính cuộc đời của họ. Đức Phật hiểu rõ điều này nên khuyên
Thiện Sinh nên tránh bốn loại bạn sau đây:
“Một là xúi việc bài bạc, hai
là xúi rong chơi không phải thời. Ba la xúi uống rượu và bốn là
thân cận bạn ác.”
Và Đức Phật cũng thấy những
cạm bẫy vô cùng vi tế mà tuổi trẻ vì nông nỗi có thể nhẹ dạ
tin theo. Chẳng hạn, Ngài khuyên Thiện Sinh đừng giao tiếp với những
loại người như thế này:
Người ấy biết làm việc
Nói năng rất êm dịu
Sợ, vì lợi hùa theo
Biết chẳng thân, tuồng thân
Nên xa lìa kẻ ấy
Như đường có hiểm họa
Và Đức Phật cũng không quên đưa ra bốn tiêu chuẩn mà Ngài gọi là bạn lành:
“Này con trai cư sĩ, nên biết
có bốn hạng bạn lành. Những gì là bốn? Một là cùng chịu khổ
vui, nên biết đó là bạn lành. Hai là thương tưởng, nên biết đó là
bạn lành. Ba là khuyên điều lợi, nên biết đó là bạn lành. Bốn
là giúp đỡ, nên biết đó là bạn lành.”
Và cuối bài pháp, Đức Phật nói với Thiện Sinh:
“Này con trai cư sĩ, trong
pháp luật của bậc Thánh cũng có sáu phương là: Đông, Nam, Tây,
Bắc, Trên, Dưới.
1) Phương Đông có nghĩa là phải có bổn phận với cha mẹ.
2) Phương Nam phải có bổn phận với thầy trao truyền kiến thức
3) Phương Tây phải có bổn phận với vợ con.
4) Phương Bắc phải có bổn phận với người thân.
5) Phương Dưới phải có bổn phận với kẻ giúp việc.
6) Phương Trên phải có bổn phận với bậc Sa môn.
Có nhiều người vẫn ngộ nhận
rằng đạo Phật chỉ bận tâm giải quyết những vấn đề lớn của kiếp
người như sanh, lão, bệnh, tử nghĩa là ra khỏi thế gian mà quên đi
những vấn đề thực tế của cuộc sống. Nhưng đọc kinh Thiện
Sinh ta mới nhận ra rằng Đức Phật là người thực tế trên cả
những người thực tế nữa. Như Ngài đã từng xác nhận như vậy
trong kinh Samyutta Nikaya:
“Trong chính thân xác dài một
trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng Như Lai tuyên bố thế
gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn
đến sự chấm dứt của thế gian.”
Như vậy, đối với đạo Phật
chẳng phải mọi sự phải khởi đầu từ tấm thân dài một trượng đang mò
mẫm bước đi trên mặt đất đen tối này hay sao?
Nhưng tại sao bao nhiêu những
người trẻ tuổi của Ấn Độ đương thời đã dám từ bỏ tất cả để đi
theo bước chân của một người hoàn toàn cô độc?
Đọc kinh Nhu Nhuyến, kinh mà
Đức Phật đã kể lại về tuổi trẻ mà Ngài đã từng trải qua thì ta có
thể biết lí do tại sao:
“Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ Kheo:
“Chính ta ngày trước ra đi
xuất gia học đạo là ra đi từ chỗ ưu du, từ chỗ thong dong, nhàn
nhã, từ đời sống cực kì êm dịu khi ta còn ở nhà, phụ vương
Duyệt-Đàn-Đầu (vua Tịnh Phạn) tạo cho ta đủ thứ cung điện, cung
điện để ở vào mùa Xuân, cung điện để ở vào mùa Hạ, cung
điện để ở vào mùa Đông.
“Bởi ta thích du ngoạn, nên
cách hoàng cung không bao xa, Người lại tạo không biết bao nhiêu
là ao sen: ao sen xanh, ao sen hồng, ao sen đỏ, ao sen trắng.
trong các ao đó trồng đủ các loại hoa dưới nước. Nước thì
luôn luôn đầy, hoa thì luôn trổ, mà những người sai dịch
chăm sóc không thông suốt được hết.
Bởi ta thích du ngoạn nên
trên bờ ao trồng các loại hoa: hoa Tu-ma-ca, hoa Bà-sư, hoa
Chiêm-Bặc, hoa Tu-Kiền-Đề, hoa Ma-Đầu –Kiền-Đề, hoa A-Đề-Mu-Đa, hoa
Ba-La-Đầu.
“Bởi ta thích du ngoạn nên
Người sai bốn người tắm rửa cho ta. Tắm rửa cho ta rồi lại xoa
hương Chiên-Đàn đỏ vào khắp thân ta, xoa hương vào thân ta rồi lại
khoác vào mình ta chiếc áo thật mới. Trên, dưới, trong,
ngoài, đều mới. Suốt ngày đêm luôn luôn cầm lọng che cho
ta, không để cho Thái tử phải nhiễm sương hay bị nóng háp.
Như nhà dân thường được ăn
đại mạch thô, cơm gạo tẻ, cháo đậu, gừng cho đó là đồ ăn bậc
nhất, những người sai dịch thấp nhất của phụ vương ta lại cho là rất
dở,chỉ ăn nếp trắng, và hào soạn mới cho là đồ ăn bậc nhất.
Lại nữa, nếu có cầm thú nơi
đồng ruộng, loại cầm thứ ngon nhất như Đề-Đế,La-hòa-tra,
Kiếp-tân-xà-la, Hề-mã-hề,Lê-xê-na,Thi-la-mễ. Các loại cầm thú nơi
đồng ruộng, loại cầm thú ngon nhất như vậy ta thường được ăn.
“Ta nhớ khi xưa, lúc còn ở
với phụ vương ta, suốt ba tháng Hạ, mỗi khi lên chánh điện đều
không có người nam, chỉ toàn là kĩ nữ để ta cùng vui chơi, không hề
trở xuống.
“Rồi khi ta muốn đến công
viên, tức thì có ba mươi danh kị thượng thặng được tuyển chọn với
những hàng đại thuẫn đi dẫn đường hộ tống trước sau, không kể
những tiểu tiết khác…”
Tất nhiên, ta đã biết rằng
Thái tử Tất-Đạt-Đa đã từ chối những lạc thú phù du này. Nhưng
điều quan trọng là, cách từ chối của Ngài thật vô cùng độc đáo. Độc
đáo ở chỗ từ sự đau khổ của chính bản thân mình Ngài biết
tôn trọng sự đau khổ của người khác. Vì sao? Vì nói cho
cùng, thì con người có khác nhau về địa vị, về giai cấp, về
giàu nghèo nhưng sự đau khổ thì hoàn toàn chẳng có gì khác
nhau:
“Ta còn nhớ khi xưa, lúc ta
thăm ruộng, khi người làm ruộng nghỉ ngơi trên đám ruộng, ta đi
đến dưới gốc cây Diêm Phù ngồi kiết già, li dục, ly pháp ác bất
thiện, có tầm, có tứ, hỉ lạc do viễn ly sanh, chứng đắc được
sơ thiền, thành tựu và an trụ. Ta nghĩ rằng: “Phàm phu ngu
si không đa văn, tự sẵn có bệnh tật, không thoát khỏi bệnh
tật, nhưng thấy người bệnh tật thì ghê tởm, khinh bỉ, không
yêu, không thích, mà không tự quan sát chính mình.
“Rồi ta nghĩ: Ta tự sẵn có
tật bệnh, không thoát khỏi tật bệnh. Nếu ta thấy người tật bệnh
mà ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích, ta không nên như vậy,
vì ta cũng có trường hợp này. Quan sát như vậy rồi, tâm
cống cao phát khởi do không có tật bệnh liền bị tiêu diệt.
“Ta lại còn tự nghĩ phàm phu
ngu si không đa văn, tự có sẵn sự già, không thoát khỏi sự già,
nhưng thấy người già cả thì ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không
thích mà lại không tự quán sát mình.
“Rồi ta lại nghĩ ta tự có sẵn
sự già, không thoát khỏi sự già. Nếu ta thấy sự già mà ghê tởm,
không yêu thích. Ta không nên như vậy, vì ta cũng có trường hợp
này. Quán sát như vậy rồi, tâm cống cao phát khởi do chưa
đến tuổi già liền tự tiêu diệt.”
Rồi cuối bài pháp Đức Phật
cảnh cáo những người trẻ tuổi cùng những người chưa hề có bệnh
tật không nên tự mãn về sức khỏe của mình mà chìm đắm trong dục
vọng, vì cái bệnh và cái chết không phải chỉ dành riêng cho
những người già nua tuổi tác mà cho tất cả mọi lứa tuổi:
“Phàm phu ngu si không đa
văn, vì chưa bị bệnh tật, nên tâm tự cao, tự phụ, rồi do tham dục mà
sanh si ám, không tu tập phạm hạnh. Phàm phu ngu si không đa
văn vì còn trẻ trung nên tự cao tự phụ, không tu tập phạm
hạnh, rồi tham dục mà sanh si ám. Phàm phu ngu si không đa
văn vì thọ mạng nên tự cao tự phụ, phóng dật rồi do tham
dục mà sanh si ám, không tu tập phạm hạnh.”
Nhưng không phải đợi đến thời
đại ngày hôm nay mà vào thời đại của Đức Phật tại Ấn Độ cũng đã
có một quan điểm cực đoan trái ngược hẳn các triết thuyết đương
thời mà trong lịch sử tư tưởng Ấn Độ thường gọi là Tuyệt
diệt hay Đoạn kiến, tức là những người chủ trương sống theo
vật chất mà người sáng lập là Carvakas. Theo Carvakas thì
chết là hết, là chấm dứt tất cả, chỉ có cuộc sống hiện tại
là có thực, nên hễ còn sống là tận hưởng tất cả nhưng lạc
thú trần gian, còn đạo đức hay phạm hạnh chỉ là ảo tưởng
của những kẻ điên khùng mà thôi.
Nhưng nếu những lạc thú của
trần gian chẳng những là chóng tàn phai mà còn đem tai họa đến
cho bản thân, gia đình và cả xã hội nữa thì những người diệt dục
sống đời phạm hạnh có tìm thấy niềm vui vĩnh cửu để thay thế
cho niềm vui chóng tàn phai đó không? Nhất là niềm vui phải
đạt ngay trong đời hiện tại chứ không phải đợi đến thời
gian nào đó trong tương lai xa xôi?
Trong kinh có tên là Khổ Ấm
(II) có ghi lại cuộc đối thoại giữa Đức Phật và các Ni-Kiền-Tử mà
Đức Phật đã kể lại cho Ma-Ha-Nam nghe có thể giải đáp được cho ta
thắc mắc ấy:
“Thưa Sa môn Cù-Đàm, nay
chúng tôi muốn hỏi giữa vua Tần-Tì-Sa-La và Sa môn Cù-Đàm, ai sung
sướng hơn ai?”
Đức Phật trả lời:
“Này Ni-Kiền-Tử, ta nay hỏi
ông, tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Này Ni-Kiền, ý ông nghĩ
sao, vua Tần-Tì-Sa-La có đạt được sự tịch mặc vô ngôn như ý, nhân đó
mà được hoan hỉ, khoái lạc trong vòng bảy ngày bảy đêm
không?”
Ni-Kiền-Tử đáp:
“Không, thưa Cù-Đàm!”
Ta lại hỏi “thế có được hoan
hỉ, khoái lạc trong vòng sáu, năm, bốn, ba, hai hay một ngày
một đêm không?”
Ni-Kiền đáp:
“Không, thưa Cù Đàm!”
Ta lại hỏi “Này Ni-Kiền, ta
có đạt được sự tịch mặc vô ngôn như ý, nhân đó mà được hoan hỉ,
khoái lạc trong một ngày một đêm không?”
“Được, thưa Cù-Đàm.”
Ta lại hỏi: “Thế ta có được
hoan hỉ trong vòng hai, ba, bốn, năm, sáu, cho đến bảy ngày bảy
đêm không?”
“Được, thưa Cù-Đàm.”
Ta lại hỏi: “ Này Ni-Kiền, ý các ông nghĩ sao? Ai sung sướng hơn, vua Tần-Tì-Sa-La hay là Ta?”
Ni-Kiền đáp: “ Thưa Cù-Đàm,
như chúng tôi hiểu theo sự trình bày của Sa môn Cù-Đàm thì
Sa môn Cù-Đàm sung sướng hơn, vua Tần-Tì-Sa-La không thể bằng được.”
Và Đức Phật kết luận:
“Ma-Ha-Nam, vì vậy nên biết
là nơi dục lạc không có lạc, chỉ toàn khổ hoạn. Nếu đa văn
Thánh đệ tử không thấy như thật, như vậy sẽ bị bao phủ bởi dục, bị
quấn chặt bởi pháp ác bất thiện, nên không đạt được xả, lạc, vô
thượng tịch tĩnh, này Ma-Ha-Nam, như vậy đa văn Thánh đệ tử
kia nhân nơi dục mà bị thoái chuyển.”
Không nghi ngờ gì nữa, chính
vì muốn đạt được “sự tịch mặc vô ngôn như ý” này mà Thái tử
Tất-Đạt-Đa đã làm một cuộc từ bỏ vĩ đại như thái tử đã nói như vậy
với vua Bình-Sa-Vương khi nhà vua ngỏ ý mời thái tử ở lại vương
quốc của nhà vua để trị vì và cùng hưởng lạc thú trần gian
như kinh Khuddaka Nikaya đã ghi lại câu trả lời của thái
tử Tất-Đạt-Đa:
Giòng họ thuộc mặt trời
Sanh tộc là Thích Ca
Từ bỏ gia tộc ấy
Thưa vua ta xuất gia
Ta không có thiết tha
Đối với các loại dục
Bỏ chúng là an ổn
Ta sẽ đi, tinh tấn
Ý ta được hoan hỉ
(H.T Minh Châu dịch)
Ngoài những sự từ chối có thể
nói là quá vĩ đại này thì còn gì nữa? Còn tiếng rống của sư tử
chúa tể của sơn lâm chăng?
Trong kinh Thị Giả có thuật lại một hôm Đức Phật bảo thị giả A-Nan:
“Này A-Nan, người nên nằm như cách nằm của sư tử.”
Tôn giả A-Nan bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, sư tử chúa của các loài thú, nằm theo cách nào?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này A-Nan, sư tử chúa của
các loài thú, ban ngày đi tìm ăn, xong rồi vào hang. Khi
muốn ngủ, bốn chân xếp chồng lên nhau, ngay đuôi ra sau,
quay lại sau nhìn thân thể. Nếu sư tử chúa của các loài thú mà thân
thể không ngay thẳng thì khi thấy rồi, nó không vui. Nếu sư tử
chúa của các loài thú, mà thân thể được ngay ngắn khắp mọi
phía, thì khi thấy rồi nó liền vui mừng. Nó từ chỗ nằm đứng
dậy, ở trong hang đi ra, đi ra rồi gầm gừ, gầm gừ rồi lại
ngắm thân thể. Tự ngắm thân thể rồi nhìn khắp bốn hướng,
xoay nhìn khắp bốn hướng rồi liền rống lên ba lần, rống lên
ba lần rồi liền đi tìm ăn. Cách thức nằm của sư tử chúa là
như vậy.”
Kể từ khi Đức Phật công bố
giáo pháp vĩ đại nơi vườn Lộc Uyển (Ngài thường ví như
tiếng rống của sư tử chúa tể của sơn lâm) mà Đức Phật đã tự
chứng ngộ dưới gốc cây Bồ Đề, kể từ đó đến nay đã có biết bao nhiêu
người trẻ tuổi chẳng những chỉ có những người trẻ tuổi thời đó
như Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên, A-Nan, Lại-Tra-Hòa-La hay
Phất-Ca-Sa-Lợi mà cho đến cả thời đại hôm nay cũng đã có
biết bao nhiêu người trẻ tuổi nữa trên khắp thế giới đã
lắng nghe tiếng rống của sư tử mà thức tỉnh rồi từ bỏ đời
sống ngục tù của trần gian để lên đường đi đến chân trời
cao rộng với đại nguyện sấm sét:
“Dựng đứng lại những gì đã
quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường
cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để
những ai có mắt có thể thấy” giữa thế giới đầy tăm tối này.
Nha Trang, mùa Đông 2010
Thích Phước An
Chú thích:
1 Trung A Hàm, toàn bộ 3 tập, Tuệ Sĩ dịch, NXB Phương Đông và thư quán Hương Tích phát hành 2009.
2Tưởng niệm D.T.Suzuki, nhiều tác giả, Hạnh Viên dịch NXB TPHCM, tr.112-113.
Theo phusaonline