NHẬP ÐỀ
Thưa các Bạn Ðạo,
Buổi nói chuyện hôm nay được mạng danh là "Phật Pháp Cho
Sinh viên."
Tôi muốn nói rõ với các bạn rằng buổi nói chuyện nầy sẽ bàn
đến các điều chủ yếu và các nguyên lý căn bản, và đặc biệt dành cho các sinh
viên, tức là các người trí thức. Tôi sẽ bàn luận đến các nguyên lý rộng rãi về
Giáo pháp (Chơn lý Thiên nhiên), dưới hình thức vấn đáp, trước đặt câu hỏi với
các bạn, rồi sau sẽ cung ứng câu trả lời. Ðược nghe câu hỏi trước, các bạn sẽ
thấy câu trả lời dễ hiểu và dễ nhớ hơn. Tôi nghĩ rằng cách nầy phù hợp nhứt để
trình bày với các bạn sinh viên, tức là những người thông minh. Người ta thường
kể rằng, vào thời Ðức Phật, các bực thông minh chẳng hỏi gì ngoài các điểm chủ
yếu và các nguyên lý căn bản. Họ chẳng bao giờ chờ đợi những lời giải thích tẻ nhạt.
Ðiều đó có nhiều lợi điểm, nhứt là tiết kiệm được thời giờ.
Và đây là việc tôi sẽ làm ngày hôm nay: đặt một câu hỏi nêu
ra một đề tài cho chúng ta, rồi trả lời câu hỏi đó với các nguyên lý căn bản.
Bằng cách ấy các bạn sẽ có được các điều thiết yếu về một số lớn đề tài cùng
các sự kiện sẽ giúp các bạn dùng làm nền tảng tổng quátvà vững chắc. Có được
một nền tảng kiến thức sẽ đem lại thành quả tốt đẹp trong tương lai; nó sẽ giúp
các bạn nghiên cứu và hiểu rõ các diễn giả khác.
Một điểm nữa. Hình thức của buổi nói chuyện của tôi còn chuẩn
bị cho các bạn được sẵn sàng khi gặp người ngoại quốc, hoặc người thuộc tôn
giáo khác hỏi đến. Nó sẽ giúp các bạn trả lời các câu họ hỏi, trả lời đúng đắn,
chẳng gây thêm sự hiểu lầm nào liên quan đến Giáo pháp. Xin nhớ kỹ các điều vừa
nói, chúng hợp thành cốt lõi của vấn đề. Nếu các bạn khéo nhớ được chừng ấy,
thì đó sẽ là một việc rất tôt, và tôi tin rằng, sẽ có lợi thật to lớn cho tất
cả các bạn.
Giờ đây, tôi xin lần lượt bàn luận về các đề tài.
Thí dụ như chúng ta được hỏi:
01.- Ðức Phật đã dạy về đề tài nào?
Cách hay nhứt để trả lời điều ấy là viện dẫn lời nói của
chính Ðức Phật. " Nầy các tỳ kheo, Như Lai chỉ dạy về ÐAU KHỔ (Dukkha, đau
khổ, bất toại nguyện) và sự chấm dứt Ðau khổ."
Cho dầu các bạn có đồng ý với câu trả lời đó hay không, tôi
cũng xin bạn ghi nhớ lấy nó. Còn có nhiều cách khác để trả lời, nhưng lời giải
đáp nầy chính là lời của Ðức Phật đã tóm tắt lại tất cả giáo pháp của Ngài rất
ngắn gọn.
Ðức Phật chỉ chỉ dạy có Ðau khổ và sự dập tắt Ðau khổ. Ðiều
nầy đã khiến cho các câu hỏi chẳng liên quan trực tiếp đến sự chấm dứt Ðau khổ
trở thành chẳng thích nghi với vấn đề. Các bạn khoan nghĩ đến các câu hỏi khác,
như: "Sau khi chết, còn có tái sanh không?" hoặc: "Tái sanh diễn
ra như thế nào?" Các câu hỏi đó sẽ được cứu xét đến sau nầy.
Vậy thì, nếu một người Tây phương hỏi chúng ta câu hỏi trên,
chúng ta sẽ trả lời rằng: "Ðức Phật chẳng dạy điều gì khác hơn là Ðau khổ,
cùng sự chấm dứt Ðau khổ."
Tiếp theo câu hỏi vừa qua, chúng ta có thể được hỏi thêm:
02.- Ðức Phật đã dạy đặc biệt điều gì?
A.- Như các bạn thấy, đây là một vấn đề lớn có thể trả lời
nhiều cách tuỳ theo qun điểm khác nhau. Nếu được hỏi như trên, chúng ta có thể
đáp, quan trọng hơn hết, Ngài dạy chúng ta đi theo con đường Trung Ðạo, đừng
quá khổ hạnh mà cũng đừng quá dể duôi; đừng ngã theo cực đoan nầy cũng chẳng
theo cực đoan kia. Một mặt, chúng ta tránh sự tự ép xác quá nhọc nhằn của các
phái du già (yiga) chỉ tạo thêm sự khó khăn và rối rắm. Mặt khác, chúng ta phải
tránh xa đường lối thực hành còn chấp thuận các thú vui nhục dục, cũng như bảo:
"Cứ ăn, cứ uống, cứ vui đùa, vì ngày mai chúng ta sẽ chết mất!" Ðấy
là lời nói rất trơ trẽn, chỉ thích hợp với hạng người đắm đuối trong thú vui
vật chất.
Ngược lại, con đường Trung Ðạo, một mặt chẳng tạo thêm các
cực nhọc cho ta, và mặt khác, chẳng chiều theo dục vọng để hưởng thọ các thú
vui nhục dục. Ði theo con đường Trung Ðạo sẽ mang đến cơ duyên nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho sự học tập và thực hành, và thành công trong việc chấm dứt
đau khổ. Từ ngữ Con Ðường Trung Ðạo có thể ứng dụng vào nhiều tình trạng khác
nhau. Nó chẳng thể nào đưa bạn đi lạc đường cả. Nó chủ trương sự tiét chế. Biết
các nguyên nhơn, biết các hậu quả, biết chính mình, biết đến mức nào gọi là đủ,
biết đúng thời, biết người khác, biết các cộng đồng: đó là Bảy Ðiều Hiểu Biết
Cao thượng lập thành các bước đi theo Con Ðường Trung Ðạo.
Ðó là một cách để trả lời câu hỏi trên.
B.- Chúng ta cũng có thể trả lời đúng đắn bằng cách nói rằng
Ðức Phật dạy Sự Tự Lực. Các bạn đều hiểu rõ cả thế nào là tự lực, chắc chẳng
cần phải giải thích thêm. Nói cách vắn tắt, chúng ta chẳng nên tin cậy vào thời
vận và định mạng. Chúng ta chẳng nên tin cậy vào các bực Trời, ngay cả bậc
thường được gọi là "Thượng Ðế". Chúng ta phải tự lực, trông cậy vào
chính mình. Viện dẫn chính lời Ðức Phật: "Ta là nơi nương tựa của
Ta." Ngay cả trong các tôn giáo hữu thần cũng nói rằng Thượng Ðế chỉ cứu
giúp những ai biết tự cứu lấy mình. Trong các đạo giáo khác, vấn đề tự lực có
thể được nói đến hoặc ít hoặc nhiều, nhưng trong Phật giáo, vấn đề tự lực rất
là quan trọng. Khi một người bị phiền muộn và bị lừa phỉnh, đau đớn và thống
khổ, người ấy phải biết quay về con đường tự cứu. Ðức Phật bảo: "Như Lai
chỉ chỉ con đường. Còn nỗ lực là điều mọi người phải tự mình làm lấy." Nói
cách khác, Ðức Phật dạy tự lực. Ta nên ghi nhớ kỹ điều ấy.
C.- Một cách khác để đáp câu hỏi trên là nhắc lại lời Ðức
Phật dạy rằng: "Mọi sự vật đều được gây nên và bị điều kiện hoá. Mọi sự
vật xuất hiện tùy thuộc vào nguyên nhơn và điều kiện, đúng theo định
luật." Lời phát biểu đó cũng giống với câu giải đáp của một vị tỳ kheo -
Tôn giả Át bệ (*) - cho Tôn giả Xá lợi phất (*) trước khi vị sau nầy gia nhập
Tăng Ðoàn: "Ðức Phật có dạy rằng, mọi sự vật khởi lên do nguyên nhơn. Ta
phải biết nguyên nhơn của sự vật đó cùng sự chấm dứt nguyên nhơn của nó."
Nguyên lý nầy của Giáo Pháp rất là khoa học, ngay tự nơi bản chất, và chúng ta
có thể khẳng định rằng các nguyên lý của Phật giáo đều phù hợp với khoa học.
Ðức Phật chẳng hề dùng các dữ kiện cá nhơn hay chủ quan để làm tiêu chuẩn; nói
cách khác, Phật giáo là một tôn giáo của Lý trí.
[*Át bệ = Asjavit; Xá lợi phất = Sariputta.]
D.- Lại còn một cách khác để giải đáp câu hỏi số 02, là Ðức
Phật đã dạy, như một qui tắc cho sự thực hành: "Hãy tránh các điều ác,
siêng làm các việc lành, thanh lọc tâm ý." Ba điều ấy hợp lại thành Ovàda
pàtimokkha (Khích lệ Giới bổn), có nghĩa là "tóm tắt các lời khuyến
khích": tránh điều ác, siêng làm lành, thanh lọc tâm ý cho trong sạch.
Tránh điều ác và siêng làm lành chẳng cần phải giải thích
thêm; nhưng cách làm cho tâm thức con người trở nên trong sạch thì còn chưa
nhận thấy được hiển nhiên. Nếu một người cứ lo chụp nắm và bám níu, ngay cả vào
điều lành đi nữa, trong tâm thức người ấy sẽ khởi lên sự ô uế: lo sợ chẳng nhận
được điều lành, lo sợ bị từ khước các điều tốt đang có, ưu sầu, phiền muộn, và
quyến luyến cái nầy, cái nọ coi như là "của tôi". Tất cả những thứ đó
tạo nên đau khổ. Dầu cho chúng ta có thành công trong việc tránh ác và làm
lành, chúng ta vẫn còn phải biết cách làm sao cho tâm thức mình được thanh
tịnh. Ðừng chụp nắm và bám níu vào bất cứ sự vật gì coi như là ta, hoặc là của
ta. Bằng không, sẽ có khốn khó và đau khổ (dukkha) đè nặng trĩu lên. Nói cách
khác, chụp nắm và bám níu là gánh nặng trên mình. Ðeo bên vai hay đội trên đầu
một bịt ngọc ngà châu báu cũng nặng y như đang vác một bịt sỏi đá vậy. Vậy thì,
đừng mang sỏi đá, ngọc ngà chi cả. Hãy đặt chúng xuống. Bạn đừng để vật nặng
nào trên đầu (đầu , ở đây, có nghĩa là tâm thức). Thanh lọc tâm ý chính là
nghĩa đó.
Thứ nhứt tránh việc ác, thứ hai siêng làm lành, còn thứ ba là
thanh lọc tâm thức, đó là lời dạy của chư Phật.
E.- Và đây là một lời dạy quan trọng khác nữa đáng được nhắc
nhở luôn. Ðức Phật dạy rằng: "Tất cả những sự vật hữu vi (những vật tổ hợp
tức là tất cả mọi sự vật, mọi chúng sanh trên thế giới) đều chuyển trôi mãi
mãi, luôn luôn tan vỡ (nghĩa là đều vô thường). Mọi người phải nên luôn luôn
tỉnh thức!" Xin các bạn hãy nghe cẩn thận các chữ nầy: mọi vật trên cõi
đời nầy luôn luôn chuyển trôi, rồi tan vỡ; tất cả đều vô thường. Ðừng chạy theo
vui đùa với chúng! Chúng sẽ cấu xé bạn. Chúng sẽ tát vào mặt bạn. Chúng sẽ trói
buộc bạn thật chặt chẽ. Rồi bạn sẽ ngồi bệt xuống đất mà khóc than, và biết đâu
lại muốn ... tự tử!
Giờ đây, hãy đúc kết lại các cách khác nhau để trả lời câu
hỏi số 02. Nếu được hỏi, Ðức Phật đã dạy điều gì, ta sẽ trả lời bằng một trong
các câu sau đây:
- Ngài dạy chúng ta nên đi theo con đường Trung Ðạo;
- Ngài dạy chúng ta phải tự lực;
- Ngài dạy chúng ta phải quen thuộc với Ðịnh luật Nhơn quả và
thích ứng với nguyên nhơn để hưởng như ý muốn cái hậu quả sẽ theo sau;
- Ngài dạy chúng ta một nguyên tắc thực hành: tránh điều ác,
siêng làm lành, thanh lọc tâm ý;
- và Ngài nhắc nhở chúng ta phải biết các sự vật hữu vi đều vô
thường, luôn luôn chuyển biến và lúc nào chúng ta cũng phải tỉnh thức.
Giờ đây nếu gặp một người ngoại quốc hỏi:
03.- "Xin nói vắn tắt, thông điệp của Phật giáo là
gì?"
Có thể đáp ngay bằng lời nói vắn tắt của Ðức Phật:
"Chẳng có bất cứ điều gì có thể chụp nắm và bám níu vào cả."
Lời Phật, "Chẳng có chi để chụp nắm và bám níu vào
cả" là là một câu cách ngôn, ngay trong tầm tay của ta, đâu cần mất thêm
thời giờ đi tra cứu trong Tam Tạng Kinh Ðiển (các lời dạy về Giáo pháp được ghi
chép lại), vì câu ngắn gọn ấy nói lên đầy đủ và rõ ràng. Trong tất cả các bản
Kinh, trong toàn thể Giáo pháp, nhiều đến tám vạn bốn ngàn đề tài, tất cả đều
có thể tóm gọn trong một câu duy nhứt: "Chẳng có chi để chụp nắm và bám
níu vào cả." Câu ấy dạy ta rằng hễ chụp nắm sự vật và bám níu vào chúng là
đau khổ (dukkha). Một khi đã hiểu rõ được lời nói ấy, thì có thể bảo là đã biết
tất cả các lời Phật đã thốt ra, toàn bộ tám vạn bốn ngàn Pháp môn. Và hễ đem
câu ấy ra thực hành, đó là đang thi hành trọn vẹn Giáo pháp, trong mọi giai
đoạn và dưới mọi hình thức.
Lý do vì sao một người thất bại trong việc giữ gìn giới cấm,
chính là vì y đã chụp nắm và bám níu vào sự vật. Nếu y biết tự kềm chế chẳng
chụp nắm và chẳng bám níu vào bất cứ sự vật chi và dẹp đuợc sự thèm khát cùng
sự oán ghét, thì y chẳng thể nào phạm vào giới được. Lý do vì sao tâm trí một
người lại luôn xao lãng và chẳng định tâm được, là vì y đang chụp nắm và bám
níu vào một điều gì. Lý do vì sao một người còn thiếu trí huệ cũng giống như
vậy. Một khi anh ta đã biết tập tánh buông bỏ chẳng chụp nắm nữa, liền đó anh
tiến theo Con Ðường Chánh Ðạo, đạt được Quả vị và cuối cùng chứng đắc Niết bàn
(Pali = Nibbàna; Phạn = Nirvàna).
Ðức Phật là người chẳng hề nắm bắt điều chi cả. Chánh Pháp
chỉ dạy sự thực hành việc buông bỏ chẳng bám níu và quả vị của sự từ khước nắm
bắt. Tăng già (Cộng đồng các vị thánh đệ tử của Ðức Phật) gồm có các vị thực
hành sự chẳng chụp nắm, một số vị còn đang tập luyện, một số đã hoàn tất.
Khi được yêu cầu tóm tắt Giáo pháp của Ngài trong một câu ngắn,
Ðức Phật đã đáp: "Chẳng có bất cứ điều nào mà ta nên chụp nắm và bám níu
vào cả."
04.- "Làm thế nào để thực hành việc chẳng chụp nắm và
chẳng bám níu?"
Khi bạn gặp một người ngoại quốc hỏi, bằng cách nào mà thực
hành được việc chẳng chụp nắm, thì bạn nên, một lần nữa, đem câu nói của chính
Ðức Phật ra mà trả lời. Khỏi cần đưa ý kiên riêng của chúng ta ra. Ðức Phật dạy
thật đầy đủ như sau:
"Khi mắt thấy một vật, chỉ thấy vật ấy. Khi tai nghe một
tiếng, chỉ nghe tiếng ấy. Khi nũi nguủi một mùi, chỉ ngửi mùi ấy. Khi lưỡi nếm
món gì, chỉ nếm món đó. Khi có cảm xúc trên dahay trên thân, chỉ biết đến cảm
xúc ấy. Và khi một ý nghĩ, một đối tượng tâm linh, khởi lên trong tâm, như một
tư tưởng xấu chẳng hạn, chỉ biết tư tưởng ấy."
Tôi xin hãy đọc trở lại lời dạy trên, để giúp những bạn chưa
từng nghe đến câu ấy. Khi nhìn thấy, chỉ có sự thấy mà thôi. Nếu có thể được,
khi đang thấy, chỉ thấy thôi; khi nghe, chỉ nghe; khi ngửi mùi, chỉ ngửi mùi;
khi nếm vị, chỉ nếm; khi nhận một cảm giác trên da hay trên thân, chỉ thể
nghiệm cảm giác ấy; và khi một đối tượng tâm linh khởi lên trong tâm thức, chỉ
biết đang có đối tượng đó. Ðiều nầy có nghĩa là chẳng nên để cho tư tưởng về
thân kiến (ý nghĩ về ta) khởi lên. Ðức Phật dạy, nếu một người năng thực tập
như htế, cái ta (cái tự ngã) chẳng thể nào khởi sanh được; rồi thì sự vắng mặt
của cái ta (tự ngã) tức là sự chấm dứt đau khổ (dukkha).
"Nhìn thấy một vật qua con mắt, chỉ thấy mà thôi."
Cần giải thích thêm điều nầy. Khi có vật tiếp xúc với mắt, hãy quan sát cùng
nhận ra vật ấy và biết cần phải làm điều gì khi thấy vật đó. Nhưng đừng để cho
thương, thích hay ghét, chê khởi lên. Nếu bạn nổi lên thương, bạn sẽ ham muốn
vật đó. Nếu bạn để cho ghét nổi lên, bạn sẽ muốn phá hủy nó. Như thế là hiện
đang có mặt ở đó cả người thương lẫn kẻ ghét. Ðấy là điều được gọi là cái Ta,
cái Tự ngã. Theo con đường của cái Ta là đang đau khổ và thất vọng. Khi một vật
được nhìn thấy, cần phải có trí thông minh cùng sự nhận biết. Ðừng để cho các ô
nhiễm trong tâm buộc bạn phải chụp nắm và bám níu. Ðào luyện trí thông minh để
biết điều gì cần làm cho đúng và thích hợp. Nếu thấy chẳng cần làm gì, thì quên
vật đó ngay đi. Nếu đang chờ đợi một kết quả nào về vật ấy, thì cứ tiến hành
làm ngay, với sự nhận biết của trí thông minh, mà chẳng để cho thân kiến (ý
tưởng vể cái ta) có dịp sanh khởi lên được. Bằng cách ấy, bạn có được kết quả
bạn mong muốn mà chẳng có sự đau khổ nào xảy ra cả. Ðấy là một nguyên tắc thực
hành Giáo pháp rất gọn, đáng được xem là tuyệt hảo.
Ðức Phật dạy: "Khi thấy, chỉ thấy. Khi nghe, chỉ nghe
(...) Khi nhận biết một đối tượng tâm linh, chỉ nhận biết nó." Hãy ngưng
lại ngay đó, và trí huệ tự nhiên sẽ chuyển động. Hãy chọn lấy lối đi đúng đắn
và thích hợp. Ðừng khai sanh thêm "người thương" hay "kẻ
ghét", và tùng theo đó là cái ý muốn hành động theo sự thương hay sự ghét,
vì đấy chính là sự khởi sanh ra cái tự ngã trong tâm. Một tâm tư như thế trở
nên náo động, chẳng được tự do. Tâm tư ấy hoạt động chẳng có chút trí huệ nào
cả.
Tại sao ta lại chẳng nêu lên giới, định, huệ, tạo phước đức
hay bố thí liên quan đến một công đức đầy thắng quả như thế? Các điểm ấy (giới,
định, v.v.) là những trợ duyên giúp cho hành giả, chớ chúng chẳng phải là cốt
tủy của Giáo Pháp, còn chưa phải là phần thiết yếu. Chúng ta tạo phước đức, bố
thí, giữ giới, tập định, và phát triển trí huệ, chính là để trở thành người an
định. Khi đang thấy, chỉ thấy; khi đang nghe, chỉ nghe. Thực hiện điều nầy,
chúng ta trở thành an định. Chúng ta có được sự an định, sự chẳng lay chuyển và
thế quân bình. Mặc dầu cảnh vật bên ngoài đến tiếp xúc với chúng ta hằng ngày,
dưới nhiều hình thức qua các nẻo của giac quan, cái tự ngã (Ta) cũng chẳng sanh
khởi ra được. Tạo phước đức, bố thí là những phương cách để loại trừ cái Ta ra.
Giữ giới là phương thức giúp chúng ta làm chủ mà trị được cái Ta, sự luyện tập
định lực cũng có hiệu lực như thế. Phát triển trí huệ dùng để tiêu diệt cái Ta.
Nơi đây, chúng ta chẳng bàn đến nhiều vấn đề khác nhau, chúng ta chỉ nói đến
một vấn đề khẩn cấp hằng ngày. Hằng ngày, đôi mắt chúng ta nhìn thấy vật nầy,
món nọ, tai chúng ta nghe tiếng nọ, tiếng kia; mũi chúng ta ngửi mùi nầy, hương
nọ, và rồi cho chí đến sáu cửa của các giác quan. Chỉ riêng có công phu thực
tập nầy cũng đủ bao trùm hết mọi công phu. Nó chính là bản chất, là tinh túy,
của sự thực hành Giáo pháp.
Nếu có người ngoại quốc nào hỏi bạn câu số 04 trên đây, xin
hãy trả lời như vừa nói.
Thí dụ như một người ngoại quốc hay một người khác tôn giáo
với bạn, đến hỏi bạn rằng:
05.- "Nơi nào chúng ta có thể tu học được?"
Lại một lần nữa, chúng ta đáp bằng cách trích dẫn lời nói của
Ðức Phật, "ngay trong tấm thân 'một thước tám' nầy, với các tri giác và
các hoạt động tâm linh." Tu học ngay trong tấm thân của con người cùng với
các tri giác và hoạt động tinh thần. Tấm thân "thước tám" nầy, còn đang
sống động, cùng với các tri giác, các hành động tâm thức, tất cả các phần đó
lập thành con người. Sự hiện diện của tâm thức bao hàm các tri giác, và sự hiện
diện của các hoạt động tâm linh bao hàm các kiến thức và tư tưởng.
Trong tấm thân "thước tám" đó cùng với các tri giác
và các hoạt động tâm linh, đấng Như Lai (Ðức Phật) đã cho biết rõ ràng thế
giới, nguồn gốc của thế giới, sự tận diệt của thế giới, cùng đường lối thực
hành để hoàn tất sự diệt tận đó. Khi Ngài nói đến nguồn gốc của thế giới, sự hoại
diệt của thế giới, cùng đường lối thực hành đưa đến sự tiêu diệt hoàn toàn thế
giới đó, Ngài muốn nói rằng toàn thể Giáo Pháp đều phải tìm thấy ngay trong
thân tâm nầy. Tu học ngay nơi đó. Ðừng đi học ở trường, ở nơi hang động, ở cảnh
rừng hoang, trên ngọn núi cao, hay ở trong tu viện. Các nơi đó đều nằm bên
ngoài chúng ta. Hãy xây dựng một ngôi trường bên trong, thiết lập một đại học
đường ngay trong thân thể. Rồi hãy nghiên cứu, học tập, điều tra, sưu tầm, thám
thính đó đây, tìm cầu chơn lý về sự tạo khởi của thế giới, vì đâu thế giới lại
là suối nguồn của đau khổ, thế giới có thể được huỷ diệt hoàn toàn chăng (tức
là sự huỷ diệt của đau khổ) và làm cách nào để tận diệt được nó. Nói cách khác
hơn để diễn đạt lại ý nầy, đó là hãy tự mình khám phá trở lại Bốn Chơn Lý Nhiệm
Mầu (Tứ Diệu Ðế). Bực Ðại Giác (Ðức Phật) đôi khi dùng danh từ "thế
giới", đôi khi dùng danh từ "đau khổ" (Dukkha). Bản chất của thế
giới, của sự đau khổ, bản chất của sự sanh khởi và nguồn gốc của thế giới, bản
chất của sự diệt tận hoàn toàn của thế giới, của đau khổ, cùng với bản chất của
công phu tu tập theo Giáo Pháp để đi đến sự chấm dứt đau khổ: những vấn đề đó
cần được tìm tòi và nhân thấy ra ngay trong thân tâm nầy, chớ chẳng ở nơi nào
khác. Nếu ai đã tìm thấy các vần đề đó tại một nơi nào khác, thì đó chỉ là bản
tường trình ghi trong sách vở, hoặc là lời đồn đãi, hay là danh từ rỗng suông
mà thôi, chớ chẳng phải là Chơn lý. Nếu đã được tìm thấy ngay trong tấm thân
"thước tám" nầy (fathom long body), cùng với tâm thức, thì đó mới thật
là Chơn lý.
Vậy thì, nếu được hỏi, cần phải tu học ở nơi nào, bạn sẽ đáp,
chúng ta tu học ngay trong tấm thân "thước tám" nầy, cùng với các tri
giác và các hoạt động tâm linh.
Giờ đây, chúng ta có thể được hỏi tiếp, để được hiểu thêm rõ
ràng về Chánh Pháp:
06.- "Chánh Pháp được so sánh với điều gì?"
Ðức Phật nói: "Chánh Pháp có thể được so sánh với chiếc
bè," Ngài đã dùng chữ chiếc bè, vì ngày xưa chiếc bè thường được xử dụng
để vượt sang sông và cách giải thích Chánh Pháp như thế rất dễ hiểu. Nhưng lời
ví dụ nầy mang một ý nghĩa thật quan trọng. Ta chẳng nên quá quyến luyến vào
Chánh Pháp đến nổi quên cả chính mình, quá hảnh diện mình là "ông
thầy", một nhà học giả, hay một bực trí thức học rộng. Nếu ta quên mất
rằng Chánh Pháp chỉ như chiếc bè, các nguy cơ ấy sẽ lại nổi lên. Chánh Pháp là
một chiếc bè, một phương tiện chuyên chở, để đưa ta sang đến bờ bên kia. Ðã đến
bờ bên kia và bước chơn lên đất liền, ta chẳng điên khùng gì mà mang vác chiếc
bè đi theo ta nữa.
Ví dụ đó dạy ta phải biết nhận chân ra và xử dụng chánh Pháp
như một phương tiện để đạt đến mục đích, chớ chẳng để chụp bắt và bám níu vào,
cho đến mức quên cả chính mình đi. Nếu ta chẳng nhận chân ra nhiệm vụ thật sự
của chiếc bè, chúng ta có thể giữ nó lại bên mình để phô trương hoặc để tranh
cãi với kẻ khác. Ðôi khi nó lại còn được đem dùng để đua thuyền, thật là hao
phí và vô dụng. Nó phải được xử dụng đúng theo chủ đích, để bơi sang sông, để
vượt dòng nước. Kiến thức về Chánh pháp cần phải được xử dụng để vượt qua biển
khổ. Nó chẳng nên được cầm giữ lại vì mục đích có hại, như để chiến đấu nhau
bằng miệng lưỡi sắc bén như gươm, hoặc để tranh luận, hay được dùng như một tế
vật để tôn thờ, lễ bái. Sau cùng, xin đừng chụp nắm và bám níu vào nó, để đến
nổi khi đã sang bờ bên kia, bước chơn lên đất liền rồi mà vẫn còn muốn mang kè
kè chiếc bè theo mình.
Chánh pháp kia, được xem giống như chiếc bè, áp dụng cả cho
người xuất gia cùng người vẫn còn sống trong gia đình. Giả dụ như chúng ta được
hỏi rằng:
07.- "Người Phật tử tại gia cần tu học những gì?"
Chúng ta đừng để mất thời giờ mà đi tìm cách trả lời theo ý
riêng của mình; nếu ai đã muốn như thế, thì cũng tốt, chẳng điều chi ngăn trở
anh ta làm như vậy. Nhưng nếu chúng ta muốn giải đáp đúng theo những gì Ðức
Phật đã dạy, thì chúng ta phải nên nói rằng: "Người Phật tử tại gia nên
học tất cả Kinh kệ, nghĩa là, tất cả những bản Kinh mà Ðức Như Lai đã dạy về
Tánh Không." (Sunnatà, sự rỗng vắng).
Các bản Kinh Kệ hợp thành một bản trần thuyết khéo hệ thống
hoá các lời giảng trong Giáo Pháp, là phần cốt tủy tinh tuý của các lời Phật
dạy. (...) Một bản Kinh là một bài giảng thật khéo sắp đặt, có thứ tự, và là
tinh túy vủa đề mục (...)
Xin nhớ cho rằng Kinh kệ chính là lời nói của Ðức Như Lai
(Tathàgata). Tất cả Kinh kệ của Ðức Phật thuyết giảng đều liên hệ đến Tánh
Không (Sunnatà, sự rỗng vắng). Về vấn đề nầy, khi có người còn tại gia thưa
hỏi, họ cần tu học và thực hành những gì để được lợi lạc to lớn và được hạnh
phước, Ðức Phật đáp: "Các Kinh kệ là những lời nói của Như Lai, rất cao
sâu, ý nghĩa thâm trầm, là những phương cách để vượt thoát cõi thế gian , và
đều liên hệ đến Tánh Không."
Danh từ Tánh Không, Sunnatà, xem như quá xa lạ đối với các
bạn, nhưng xin đừng vội chán nản, vì đây là một chữ quan trọng vào bực nhứt
trong Phật học. Chữ Sunnatà có thể được dịch là sự rỗng vắng; nhưng rỗng, vắng
thường có nhiều nghĩa và cách dùng khác nhau. Chữ Tánh Không, Sunnatà, trong
Phật học chẳng phải là sự rỗng vắng về vật chất; nó chẳng phải là một khoảng
trống không chẳng chứa đựng một chất vật liệu nào. Chẳng phải thế! Ðây là một
trường hợp rỗng vắng theo cái nghĩa chẳng có được chút bản thể thiết yếu nào,
bởi vì tất cả mọi sự vật khác vẫn còn hiện diện đầy đủ ở đó. Vẫn còn có đủ muôn
vàn hình vật khác tràn đầy khắp thế giới, thế mà Ðức Phật dạy rằng, muôn vật
đều rỗng vắng, hay là muôn vật đều có tánh cách rỗng vắng, chỉ vì chẳng có một
chút gì nơi muôn vật đó đáng được xem là tự ngã, là Ta (là chính mình) và thuộc
về của Ta, thuộc về tự ngã của Ta. Lời dạy ấy nhằm mục tiêu là chỉ rõ, lại một
lần nữa, là chẳng có gì để chụp nắm và bám níu vào cả.
Người còn tại gia cần tu học đặc biệt về các lời nói của Ðức
Phật liên quan đến Tánh Không. Thông thường, đề mục nầy bị hiểu lẩm là quá cao
xa đối với người đời. Lý do giản dị là rất ít người vui lòng thực hành theo các
lời dạy đó của Ðức Phật. Vậy xin các bạn ghi nhớ cho rằng, chẳng riêng gì cho
các tỳ kheo, người tại gia cũng phải học hỏi, thực hành và nhiên hậu mới khám
phá ra ý nghĩa của Sunnatà, của Tánh không.
Tôi hi vọng rằng, các bạn còn tại gia sẽ chẳng còn quá lo sợ
về danh từ và đề mục Sunnatà, Tánh Không nữa. Hãy bước từng bước để gia tăng sự
hiểu biết và kiến thức về Tánh Không. Ðề tài nầy cần có sự giải thích tế nhị và
phức tạp, nên đòi hỏi nhiều thời giờ. Vì lẽ đó, chúng ta chỉ bàn ở đây các cốt
lõi của vấn đề, bản chất thật sự của nó mà thôi, và đấy cũng là đã khá đầy đủ
rồi, vì ý niệm về Tánh Không chỉ là sự rỗng vắng chẳng có cái Ta, hay cái gì
thuộc về Ta. Nếu tâm thức ai nhận chân ra rằng chẳng có gì là tự ngã ( cái Ta)
và chẳng có gì thuộc về tự ngã, thì tâm thức ấy được "rỗng vắng" và
tự do. "Thế giới nầy rỗng vắng" chỉ có nghĩa là như thế đấy.
Giờ đây, giả tỉ như có người hỏi, trong Phật học chữ nào là
chữ tối thượng, như hỏi rằng:
08.- "Amatadhamma, Vô sanh pháp, là gì?"
"Amata" có nghĩa là "chẳng hề chết",
"bất tử", "vô sanh" Và "Amatadhamma" là một
dhamma, một pháp (sự vật hay tình trạng) chẳng hề bị chết đi. Thế nghĩa là sao?
Ðức Phật có nói: "Sự chấm dứt tham, sân, si chính là amatadhamma, là vô
sanh pháp." Vô sanh pháp (vô sanh=bất tử, chẳng hề chết đi) là một cảnh
giới bất diệt, một tình trạng chẳng bao giờ bị tiêu diệt. Bất cứ khi nào còn có
tham, sân, si, thì gọi đó là tình trạng khả vong (sẽ bị chết mất). Ta thể
nghiệm sự đau khổ. Ta có ngã kiến (ý kiến về cái Ta), khiến cho ta phải chịu sự
sanh ra, sự già lão, bịnh tật và sự chết. Khi tham, sân và si chấm dứt (chấm
dứt si mê là hết ngu muội và hiểu biết sai lầm), thì ý niệm sai lầm về tự ngã
(về cái Ta) chẳng khởi lên , thì làm gì còn có cái Ta nữa để chết đi. Do đó,
nếu muốn đi tìm một cảnh giới bất tử (chẳng chết), amatadhamma, thì phải tìm
ngay nơi, hay tình trạng, hoặc điều kiện, nào mà tham, sân, si hoàn toàn vắng
mặt. Ðấy là lời dạy của Ðức Phật. Vô sanh pháp, Amatadhamma, mà ta thường nghe
nói đến, là chữ tối hậu, là lời dạy tối thượng của Phật học.
Các tôn giáo khác cũng có nói về sự "chẳng hề chết
đi" nhưng lại mang ý nghĩa khác với Phật giáo. "Bất diệt", theo
nghĩa amata trong Phật học, chỉ là sự chấm dứt tham, sân, si.
Dưới nhiều tên khác nhau, người ta đã nói đến Pháp (Chơn Lý)
cao thượng nhứt, thâm sâu nhứt. Thí dụ như có người hỏi:
09.- "Pháp nào là Pháp cao thượng và thâm sâu nhứt để
vượt khỏi thế gian và sự chết dưới mọi hình thức?"
Ðức Phật gọi Pháp đó là Sunnàtappatisamyuttà, nghĩa là Pháp
luận về Tánh Không (Sunnatà), hay là chính cái Tánh Không ấy. Pháp nào luận về
Tánh Không , đó là Pháp cao thượng nhứt và thâm sâu nhứt. Pháp ấy vượt cả thế
gian, sự chết, và chẳng là gì khác hơn Amatadhamma, tình trạng vô sanh, hay bất
diệt.
Giờ đây, ta tự hỏi, Chánh Pháp, theo các thuyết mới nhứt, gần
đây nhứt, là những gì? Ðức Phật nói: "Một bản Kinh, bất cứ thuộc loại nào,
thuộc cấp bực nào, dầu đã do một thi sĩ hay nhà hiền triết nào sáng tác, dầu
dưới hình thức văn vần, hoa lệ, âm vận du dương đi nữa, cũng chẳng theo đúng
Chánh Pháp nếu chẳng có liên hệ đến Tánh Không." Xin các bạn hãy nhớ kỹ
cho các chữ quan trọng nầy: "chẳng liên hệ đến Tánh Không". Vì thế,
nếu một bài Kinh nào chẳng liên hệ đến Tánh Không, thì đó là lời nói của một
người đệ tử về sau, một sự canh cải, một giáo lý mới, chớ chẳng phải là lời nói
của Ðức Như Lai, và do đó, phải được xem là thấp kém hơn. Nếu đó là lời nói của
một vị đệ tử và chẳng bàn đến Tánh Không, thì phải xem như ở ngoài Giáo pháp.
Nếu chúng ta muốn tìm thấy Chánh pháp trung thực với lời dạy
nguyên thuỷ của Ðức Phật, chẳng có cách nào khác hơn là tìm xuyên qua các bài
giảng về Tánh Không (Sunnatà, sự rỗng vắng).
Nếu bạn được một người ngoại quốc hỏi:
10.- "Trong Kinh điển, như đã ghi ở Tạng Pali, điểm giáo
lý nào được Ðức Phật nhấn mạnh nhiều nhứt?"
Lại một lần nữa, ta hãy dùng lời của Ðức Phật để đáp câu hỏi
trên: "Năm thủ uẩn là vô thường và vô ngã". Năm thủ uẩn là năm nhóm
tập hợp mà một "cá nhơn" được phân tách ra làm năm phần. Phần thân
thể vật chất được gọi là sắc uẩn (rùpa); nhóm cảm giác, cả vui thích lẫn đau
đớn, gọi là thọ uẩn (vedanà); ký ức và các tri giác gọi chung là tưởng uẩn
(sanna); các tư tưởng hoạt động gọi là hành uẩn (sankhàra); và tâm thức với khả
năng biết được mọi đối tượng qua ngã các giác quan là thức uẩn (vinnàna). Sắc
uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, và thức uẩn được gọi là ngũ uẩn (khandas).
Năm nhóm tập họp đó đều vô thường (anicca) và vô ngã (anatta). Ðấy chính là
điểm giáo lý đã được Ðức Phật nhấn mạnh đến nhiều nhứtr, hơn tất cả mọi phương
diện khác của Giáo pháp. Năm uẩn đó vô thường, luôn luôn trôi chảy và liên tục
biến đổi. Chúng chẳng có tự ngã, bởi vì chúng hằng lưu chuyển; chẳng có ai có
thể xem chúng như là Ta, hoặc là của Ta được.
Tôi xin tóm lược lại lần nữa. Hãy ghi nhớ kỹ: trong tất cả
giáo lý, Ðức Phật chỉ nhấn mạnh đến điều nầy: muôn vật đều vô thường, chẳng có
vật chi được xem là Ta, hay của Ta.
Vấn đề kế tiếp mà chúng ta sẽ cứu xét là:
11.- "Ðức Phật dạy ta phải tin điều gì và tin ai?"
Nếu bạn được hỏi như trên, trhì hãy trả lời với lời dạy của
Ðức Phật trong bản Kinh Kalama: chúng ta chỉ phải tin vào những gì chính chúng
ta thấy rõ ràng. Vấn đề ngay đây là rất cần thiết phải hiểu rành từ ngữ
"thấy rõ ràng" là như thế nào. Nó có nghĩa là thấy rõ mà chẳng cần
đến lý luận, dự ước hay phỏng đoán. Phải thấy rõ ràng như mắt đang nhìn tay cầm
lấy một vật, rồi làm như vầy thì thấy kết quả ra như thế ấy. Thấy rõ là như
thế, chẳng cần chi đến lý luận hay giả thiết mới hiểu. Trong Phật học, chúng ta
được dạy, chẳng nên tin ai, chẳng nên tin điều gì, mà còn chưa chính ta thấy rõ
rằng sự thật là như thế.
Các vấn đề sau đây giúp ta hiểu rõ thêm về ý nghĩa nêu trên.
Tại sao chúng ta lại bị cảnh cáo là chẳng được nên tin vào
Tam Tạng Kinh Ðiển (Tipitaka, ba tạng Kinh, Luật, Luận của
Phật giáo), chẳng được tin vào vị sư phụ nào, chẳng được tin vào lời đồn đãi
hay báo cáo, chẳng được tin vào những gì đã do lý luận, hay biện luận mà ra?
Các nguyên tắc đó giúp vào chánh kiến (sự hiểu biết đứng đắn), bởi vì mọi sự
nhẹ dạ tin một cách mù quáng đều là ngu dại. Giả dụ như chúng ta mở Tam Tạng
Kinh Ðiển ra và đọc một đoạn nào, rồi thì liền tin theo mà chẳng suy nghĩ,
chẳng trắc nghiệm lại, chẳng chút phê phán xét đoán. Ðó là một sự tin tưởng khờ
dại vào Tam Tạng Kinh Ðiển, điều mà Ðức Phật khiển trách.Tin lời thầy nói mà
còn chưa chính mắt mình thấy, chính tai mình nghe điều thầy nói có đúng như sự
thật không, đó là ý nghĩa của lời cảnh cáo "khi tin vào vị sư phụ
nào". Ðối với các lời đồn đãi, các báo cáo, lại cũng như vậy. "Tin
vào những gì đã do đường lối biện luận mà suy ra" có nghĩa là, vì đã học
qua và có kinh nghiệm về cách lập luận, ta thường đi đến kết luận là một mệnh
đề nào đó , đúng theo luận lý học, thì phải xảy ra như thế; nhưng điều biện
luận nầy xét ra vẫn còn chưa đủ đúng đắn, ta chẳng nên đặt tin tưởng vào lối
biện luận như vậy.
Tuy nhiên ta nên cẩn thận để ý kỹ lưỡng rằng lời dạy trong
Kinh Kalama chẳng hề cấm đoán ta đọc Tam Tạng Kinh Ðiển. Cũng như điều ấy chẳng
cấm việc thưa hỏi các vị thầy, hoặc đọc các báo cáo, nghe lời đồn, hay là dùng
phương pháp luận lý học. Trái lại, chúng ta có thể đọc, nghe, thưa hỏi, nhưng
chẳng nên ngây thơ chấp nhận ngay, trừ phi chúng ta đã suy nghĩ kỹ trước, kế
dến cứu xét cẩn thận, đào sâu tận rễ, quán sát mọi khía cạnh, và sau hết, chính
chúng ta đang thấy rõ ràng sự thật là như thế.
Hãy lấy một thí dụ, Ðức Phật dạy rằng, tham, sân, si, là
nguyên nhơn gây ra đau khổ. Nếu chúng ta còn chưa bết rõ thế nào là tham, sân,
si, thì chúng ta chẳng cách nào tin vào lời dạy đó, và cũng chẳng cần tin làm
chi vì nếu cứ tin như thế, đó chỉ là nhẹ dạ mà tin. Nhưng nếu chính chúng ta đã
có kinh nghiệm và biết tham là như thế nào, sân, si ra làm sao, và khi ba điều
nầy khởi lên trong tâm chúng ta, chúng gây ra đau khổ tựa hồ như có ngọn lửa
đang nung nấu chúng ta; bấy giờ chúng ta mới tin lời dạy trên, căn cứ trên kinh
nghiệm bản thân của chúng ta.
Thế nên, lời Ðức Phật dạy về lòng tin ghi trong Tam Tạng Kinh
Ðiển là như sau đây. Ðọc hay nghe được một điều gì xong, ta nên dò xét cho đến
khi chúng ta thấy rõ ràng điều ấy. Bằng còn chưa thấy được rõ ràng, thì ta nên
dùng lý luận rồi hãy để đó một thời gian xem sao. Và để bắt đầu, chúng ta sẽ
tin tưởng và khởi công chỉ thực tập những gì chúng ta đã thấy rõ ràng sự thật
là như thế ấy. Rồi lần lần, chúng ta sẽ tin tưởng thêm và lại càng thấy rõ ràng
hơn lên. Ðấy là lời khuyên rất bình dân của Ðức Phật. Nếu có người ngoại quốc
hỏi bạn về lòng tin, bạn hãy nên giải thích cho đúng đắn bằng không, bạn sẽ
trình bày sai lời Phật dạy, vô tình phản lại Ðức Phật. Chẳng tin ở Kinh Ðiển,
chẳng tin vào sư phụ, chẳng tin lời báo cáo hay tin đồn, chẳng tin theo lập
luận của luận lý học, các điều nầy cón có ý nghĩa ẩn kín mà ta phải cố tìm cho
ra. Nhẹ dạ mà tin ngay là điên cuồng. Ðức Phật kết án việc ấy rất nặng nề; Ngài
dạy, trước khi đặt niềm tin vào đâu, hãy trắc nghiệm nó cho đến khi nào thấy nó
thật rõ ràng rồi mới tin, (...)
Chánh sách của Phật giáo về lòng tin là: chẳng tin tưởng một
cách ngây thơ, chẳng tin cậy vào kẻ khác, vào sách giáo khoa, giả thuyết, lập
luận hay bất cứ điều gì mà đa số người đang tin, và chỉ tín nhiệm vào những gì
chính mình đã thấy rõ ràng sự thật là như thế. Người Phật tử chúng ta phải theo
chánh sách đó.
Câu hỏi kế tiếp là:
12.- "Tâm thức của người thường và người Phật tử khác
nhau như thế nào?"
Giờ đây chúng ta sẽ cứu xét vấn đề khác biệt hơn kém giữa hai
tâm trạng: Tâm trí của người thường và tâm trí của một người Phật tử "đúng
danh hiệu". "Người thường" ở đây có nghĩa là người chưa thông
hiểu và chưa hề tu tập theo đường lối của Phật giáo chánh hiệu. Một người
thường, quá lắm cũng chỉ đáng được "gọi là Phật tử", vì có cha mẹ
theo đạo Phật, vì theo trong bộ sổ khai sanh hay lý lịch. Nói cách khác, y chưa
hề tu theo đạo Phật, chỉ là người trong thế tục. Còn muốn trở thành một người
Phật tử "chánh hiệu", muốn làm một bực Thánh (Ariya, bực tu hành cao,
đã đi rất xa trên đường tu học), ta phải thoả mãn các đòi hỏi về sự hiểu biết
đúng đắn (chánh kiến) về các điều chung quanh ta, vào một trình độ cao hơn
"người thường".
Ðức Phật có nói, giữa cái nhìn của bực Thánh và cái nhìn của
người thường, có một hố cách vĩ đại. Như thế, dưới mắt của bực Thánh, và trong
giới luật của bực nầy, ca hát cũng là một việc như than khóc; khiêu vũ là múa
may điên rồ của người khùng; còn cười hô hố là thái độ ấu trĩ của trẻ con.
Người thường cũng ca hát, cũng cười hô hố, để hưởng vui mà chẳng để ý đến khi
họ thấm mệt. Trong giới luật của bực Thánh, ca hát bị xem như đang khóc lóc. Ta
thử nhìn vào một người đang ca hát, y cố gân cổ lên để hét to, đó chẳng giống
như đang khóc sao; hơn thế, nó trào ngược ra từ xúc động tình cảm, nào có khác
gì khóc. Khiêu vũ giống như kẻ điên quay cuồng; hãy cứ tự quan sát thì thấy,
khi chúng ta đứng lên sàn nhảy, nếu chẳng điên đến mười phần trăm thì làm sao
lại nhún nhảy lên như thế? Nhưng mà đa số đều nghĩ đấy là cuộc vui giải trí,
cho nên chúng ta chẳng nhận thấy bộ dạng của người mất trí. Vài người thích
cười to, vì phát lên tiếng cười là có điều thích ý. Nhưng bực thánh giả lại xem
đó là thái độ ấu trĩ của trẻ con,(...) tốt hơn là nên ít cười ha hả. (...)
Ðức Phật cũng chẳng cấm đoán chúng ta làm những việc trên,
khi chúng ta thích muốn làm; nhưng Ngài muốn ta hiểu rằng, còn có thái độ cao,
có cử chỉ thấp, và chẳng nên có những hành động chẳng cần thiết. Khi chúng ta
còn chưa là bực Thánh, có thể chúng ta muốn thử làm chơi vài cử chỉ thấp kém
đó. Nếu làm thử một đôi lần, chúng ta thấy chúng lúc đầu có chút thích thú,
nhưng về sau, ta sẽ chán ngấy chúng đi. Và như thế, chúng ta có thể vươn lên
đến gần hàng thánh thiện.
Vài người chẳng ưa nghe nói đến kỷ luật, bàn đến giới luật.
Họ ngại rằng sự kềm chế sẽ đưa đến đau khổ (dukkha). Tuy nhiên, tập tự kiềm
thúc để chẳng buông trôi theo tính khí (thay đổi thất thường) là một nguyên tắc
quan trọng trong Phật học. Thúc liễm thân tâm để khỏi chiều theo sự thay đổi
tính khí như thế, đâu phải là đau khổ. Trái lại, đó chính là phương cách để
chiến thắng được đau khổ. Ta phải nên tránh khỏi sự đè nén của các ý tưởng vị
kỷ hay ô nhiễm. Ta phải nên quyết tâm chẳng để cho các điều ô nhiễm cám dỗ,
thúc dục và ngự trị chúng ta. Hãy nhìn vào các cặp khiêu vũ, và xem các ô nhiễm
đang kích thích ra sao, áp đảo, chế phục như thế nào; gọi đó là tự do sao?
Hoá cho nên, chúng ta phải tìm cách cải thiện qui chế của
chúng ta phần nào. Ðừng mãi mãi là "người thường"! Hãy ghi tên xin
gia nhập vào "làng" của Phật, tức là có kiến thức, trí huệ, tỉnh thức
và chánh kiến, để khiến cho sự đau khổ phải giảm dần đi. Tránh làm các điều
chẳng cần thiết, chỉ khiến thêm bất lợi và khó nhọc cho chúng ta. Ðấy chính là
phần thưởng mà bạn sẽ gặt hái được; bạn sẽ bước từ cấp thường nhơn lên hàng
Phật tử chơn chánh, rồi đến bực Thánh, an trú trong giới luật của hạng nầy.Ðức
Phật thường hy vọng rằng sẽ có thật nhiều bực thánh giả trong hàng các người
chẳng muốn mãi mãi làm người phàm tục.
Ngay đây, tôi xin bàn đến Con đường Ðạo. Nếu có ai hỏi bạn:
13.- "Tu tập thế nào là theo con đường thông thường và
tu cách nào là theo con đường ngắn và nhanh nhứt?"
Bạn có thể trả lời, con đường thông thường là Bát Chánh Ðạo
-- có lẽ bạn đã được nghe nhiều lần rồi -- gồm có: Chánh kiến, Chánh tư duy.
Chánh ngữ, Chánh mạng, Chánh nghiệp, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.
Tám ngành của con đường đó được khéo sắp xếp, có thể qui về ba nhóm: giới,
định, và huệ. Chúng hợp thành một đại hệ thống về tu tập, được chúng tôi xem
như là con đường tu tập theo lối thông thường. Nó dành cho những ai còn chưa
theo được con đường ngắn và nhanh. Con đường thường nầy chẳng phải là con đường
sai lầm, nó thật là đúng đắn; tuy nhiên, đi theo nó, phải mất nhiều thời gian.
Ðức Phật cũng có chỉ dạy một con đường tắt. Ngài bảo, khi
chúng ta chẳng chụp nắm và bám níu vào sáu căn (àyatanas, các giác quan) cùng
vào các đối tượng liên hệ với chúng, để xem như là tự ngã, thì con đường Bát
Chánh Ðạo sẽ tự nó mà tự động khởi lên, dưới đầy đủ tám phương diện. Ðây là một
nguyên tắc Giáo Pháp quan trọng và căn bản nhứt.
Trước nhứt, ta nên nhớ lại: sáu căn (àyatanas) là mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và tâm thức. Mỗi căn có năm phương diện. Như về mắt, phương diện
thứ nhứt là chính con mắt; thứ hai là hình sắc của vật đang có sự tiếp cận với
mắt; thứ ba là thức (vinnana) có khả năng làm cho ta nhận thấy được vật đối
tượng; thứ tư là tác động của sự xúc chạm (phassa) xảy ra giữa nhãn thức, con
mắt và vật đối tượng; và thứ năm là cảm giác (vedanà), vui thích hoặc đau đớn
có thể khởi sanh lên như kết quả của sự tiếp cận. Ðó là năm phương diện của
nhãn căn. Còn tai, mũi, v.v... mỗi căn cũng có năm phương diện như vậy.
Mỗi phương diện có tác dụng làm ta trở nên thiếu tỉnh giác và
khiến ta có chụp bắt nó (một phương diện) rồi xem đó như là "Ta". Như
thế, chúng ta đã chụp bắt nhãn thức (phương diện thứ ba) làm "Ta", vì
nó đã khiến "Ta", qua đôi mắt, đã thấy và biết về vật đôi tượng. Bởi
vì chúng ta đã hay biết đến vật đối tượng ấy, nên chúng ta liền vội kết luận
ngay là phải có cái "Ta" để làm cái công việc thấy biết đó. Cũng theo
lối giống như vậy, chúng ta chụp bắt và bám níu vào mắt và sự tiếp cận (phương
diện thứ tư) làm cái "Ta" để thấy được, hoặc bám níu vào tương quan
giữa ba yếu tố: mắt - tiếp cận - cảm giác (phương diện thứ năm) làm cái
"Ta" để biết có được cảm giác vui thích hay đau đớn.
Ðôi khi một âm thanh du dương đến bên tai, chúng ta liền nắm
bắt cái nghe biết có âm điệu ấy làm cái "Ta" đang nghe. Ðôi khi một
vị khoái khẩu đến với lưỡi, chúng ta liền bám níu vào sự nếm biết khẩu vị đó
làm cái "Ta" đang thưởng thức món ăn.
Mỗi căn có năm phương diện, tính tổng cộng lại là ba mươi tất
cả. Mỗi phương diện đó đều có thể bị chụp nắm lấy làm cái Ta và bám níu mãi vào
một cách hết sức dễ dàng, biết bao nhiêu lần trong một ngày. Vừa chụp bắt và
bám níu đó, tức thì đau khổ liền nổi lên ngay. Chúng ta đã lầm lỡ và tự đảy
mình sa vào cái khối đau khổ chằng chịt. Ðấy chẳng phải là đang đi theo con
đường đạo. Tuy nhiên, Ðức Phật chỉ dạy chúng ta chớ có chụp bắt và bám níu vào
sáu căn cùng các đối tượng liên hệ với chúng. Nhờ luôn luôn canh phòng, chúng
ta sẽ chẳng xem bất cứ căn nào, đối tượng nào, làm cái Ta cả, và tức thì con
đường Bát Chánh Ðạo liền hiện lên rõ với chúng ta, chính ngay vào cùng lúc ấy.
Ngay trong lúc (chẳng bám níu) đó, liền hiển hiện lên chánh kiến, chánh tư duy,
chánh ngữ, chánh mạng, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Thực tập được sự chẳng bám níu vào sáu căn khiến cho con đường Bát Chánh Ðạo
đồng thời hiện khởi lên ngay tức khắc. Ðức Phật xem đó là con đường tắt.
Trong một bản Kinh, Ðức Phật có dạy con đường tắt: sự rỗng
vắng. Chẳng bám níu vào mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm thức làm cái Ta, sẽ
khiến cho con đường Bát Chánh Ðạo khởi lên ngay lúc đó , một cách trọn vẹn. Nếu
chúng ta chẳng quyết định chọn con đường tắt, thì chúng ta nên học tập kỹ lưỡng
Con đường Bát Chánh Ðạo về giới, định, và huệ vậy.Từ từ tu tập từng bước một,
khởi đầu, rồi lần lần tiến xa qua các giai đoạn, như thế ắt phải tốn nhiều thời
gian hơn.
Trong Phật học, chúng ta tìm thấy được một con đường thông
thường (là Bát Chánh Ðạo) và một con đường thẳng tắt (là nhiếp phục các căn,
chẳng chụp nắm và bám níu.)
Giờ đây, tôi sẽ bàn về Nghiệp lực trong đạo Phật, bằng cách
đặt ra câu hỏi nầy:
14.- "Nghiệp lực có vai trò nào trong Phật học?"
Nhiều người Tây phương viết sách về Phật giáo, có vẻ rất hãnh
diện về các Chương bàn về Nghiệp lực (Pali: kamma; Sanskrit: Karma), và Tái
sanh. Nhưng những lời giải thích của họ đều sai lầm, hoàn toàn sai lầm! Các
người Tây phương đó tuyên bố đã giải nghĩa chữ Kamma, Nghiệp lực, nhưng tất cả
những gì họ viết cũng chỉ là, "thiện nghiệp là tốt lành, ác nghiệp thì dữ
ác"; "Làm điều lành, được việc tốt; làm việc ác, chịu điều xấu",
cũng chẳng có gì thêm hơn, giống y như giáo lý của các tôn giáo khác. Ðấy chẳng
phải là Nghiệp lực, Kamma, được giảng dạy trong Phật học.
Ðối với Tái sanh, cũng vậy. Họ tuyên bố rất mạnh mẽ, làm như
chính mắt họ trông thấy rõ ràng chính các cá nhơn nầy đang tái sanh lại. Họ
trình bày rất sai lầm bức thông điệp chánh yếu của Ðức Phật đã dạy rằng chẳng
có sự hiện hữu của "cá nhơn", hoặc của "Tự ngã" (cái Ta).
Mặc dầu "Tôi" đang ngồi đây, nhưng chẳng có cá nhơn nào ở đây cả. Khi
đã chẳng có cá nhơn nào, thì lấy ai để mà chết? Rồi có ai đâu để tái sanh? Ðức
Phật giảng dạy sự bất hiện hữu của "cá nhơn", của "con
người". Như thế, sanh và chết là những chơn lý tương đối. Tác giả các
quyển sách nhan đề là "Phật giáo" đó thường giải thích Nghiệp lực, và
Tái sanh hoàn toàn sai lầm.
Xin các bạn hãy lưu tâm cẩn thận về vấn đề Nghiệp lực. Một
bản trần thuật của Phật học cần phải trình bày đầy đủ về sự chấm dứr của Nghiệp
lực, chớ chẳng phải chỉ có Nghiệp lực và các hậu quả của nó -- như đã tìm thấy
trong mọi tôn giáo. Chỉ đáng đượcv gọi là giáo lý nhà Phật, khi có sự trình bày
về việc chấm dứt Nghiệp lực.
Kẻ đã đạt dến sự chấm dứt hoàn toàn Nghiệp lực, tiếng Pali
gọi là sabbakammakkhayam patto (sabba = hoàn toàn; kamma = nghiệp; khaya = chấm
dứt, tận diệt; patti = chứng đắc, đạt đến). Ðức Phật đã dạy rằng, nghiệp lực
chấm dứt với sự tận diệt của tham (ràga), sân (dosa) và si (moha). Ðiều nầy
thật dễ nhớ. Nghiệp lực chấm dứt khi tham, sân, si chấm dứt hoàn tioàn, nghĩa
là, khi các lậu hoặc (cấu nhiễm về tinh thần, hay các lỗi lầm ô uế bên trong
tâm) đã dẹp dứt xong hết. Nếu tham, sân, si còn chưa chấm dứt, thì nghiệp lực
vẫn chưa chấm dứt. Khi tham, sân, si đã chấm dứt, thì nghiệp cũ cũng chấm dứt,
nghiệp hiện nay chẳng được tạo thành, và chẳng có nghiệp tương lai mới nào được
tạo nữa -- như thế, nghiệp quá khứ, hiện tại và tương lai phải chấm dứt. Khi
một ngưòi đã chấm dứt được tham, sân, và si, thì nghiệp lực chẳng còn nữa. Ðấy
là lối giải thích cần phải được giảng dạy.
Chỉ một bản tường trình về nghiệp lực như thế mới đáng được
gọi là của Phật học.
Như thế, chúng ta thấy còn có một loại nghiệp lực thứ ba.
Phần đông người ta chỉ biết có hai loại nghiệp lực, loại thứ nhứt là thiện
nghiệp hay nghiệp lành, loại thứ hai là ác nghiệp hay nghiệp dữ. Họ còn chưa
biết đến loại nghiệp lực thứ ba. Ðức Phật gọi loại thứ nhứt là bạch nghiệp hay
thiện nghiệp, tức là nghiệp trắng, tốt lành; loại thứ hai là hắc nghiệp hay ác
nghiệp, tức là nghiệp đen, dữ ác. Loại thứ ba có thể gọi là chẳng trắng chẳng
đen nhằm chấm dứt cả hai loại nghiệp trắng và nghiệp đen. Chính Ðức Phật đã
dùng các tiếng bạch nghiệp, hắc nghiệp và bất hắc bất bạch nghiệp. Loại thứ ba
nầy mới thật là nghiệp lực đúng theo nghĩa của Phật học. Như đã nói qua, hễ
chấm dứt tham, sân, si là chấm dứt ngay được nghiệp lực. Nói cách khác, loại
nghiệp lực thứ ba nầy, chính là con đường Bát Chánh Ðạo; nó chẳng trắng, chẳng
đen, nó chỉ riêng mang lại sự chấm dứt vừa bạch nghiệp,vừa hắc nghiệp. Con
đường đó là con đường vượt cõi thế gian (tokuttara, siêu thế), vượt lên cả điều
thiện lẫn điều ác.
Loại nghiệp lực thứ ba nầy chẳng hề được các người Tây phương
bàn đến trong các Chương sách của họ về "Nghiệp lực và Tái sanh". Lời
dẫn giải của họ đều sai lầm cả, nên chẳng phải là Phật học. (...)
Giờ đây,xin nói thêm vài điều về loại thứ ba của Nghiệp lực.
Về điểm nầy, Ðức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về
điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai." Bậc Ðại
Giác (Ðức Phật) đã chẳng hề vay mượn của ai, hay của tín ngưỡng hoặc của tôn
giáo nào, Ngài đã biết được với trí huệ của chính Ngài và chỉ dạy lại cho mọi
người. (...) Các bạn nên chú trọng đến vấn đề và nghiên cứu nó cho cẩn thận,
Nghiệp lành, nghiệp ác đều được nói đến ở mọi tôn giáo, (...) làm lành là điều
tốt, làm ác là việc dữ, họ đều dạy giống nhau như thế. Nhưng Ðức Phật bảo rằng,
chỉ riêng tạo nghiệp lành thì cũng chẳng dập tắt được hẳn các đau khổ về tinh
thần, một cáh hoàn toàn và tuyệt đối, bởi vì ta có thể say đắm rồi bám chặt vào
thiện nghiệp. Nói cách khác, thiện nghiệp vẫn còn đưa đẩy con người vào trong
vòng sanh và chết của Luân hồi, dầu là sẽ được sanh vào các cảnh gới an lành.
Nó chưa phải hẳn là sự tận diệt, sự thanh lương của Niết bàn (Nibbàna).
Vậy thì, về Nghiệp lực, chỉ riêng có Ðức Phật mới thuyết
giảng đầy đủ về vai trò của loại thứ ba là chấm dứt các lậu hoặc tham, sân, si.
Chính xuyên qua loại Nghiệp lực nầy mà bực tu hành mới chứng đắc quả vị Niết
bàn