Đạo
và đời nương tựa bên nhau, như con thuyền
trôi trên một dòng sông. Thiếu con sông, chiếc thuyền
mất đi ý nghĩa. Vắng bóng thuyền, dòng sông không
còn thi vị, hữu tình.
Mượn hình ảnh trên
qua lời của một nhà sư, bài viết này xin mời
người đọc ghé thăm một sư cô trên dòng
đời bồng bềnh của muôn vạn kiếp
người. Ðời của sư cô chứng nghiệm
cuộc sống của một người đời
bước vào con đường đạo.
(...) Tôi vẫn mong biết thêm về đời tu
riêng tư của mỗi vị sư. Họ tu ra sao? Có khó
không?
Lòng “tham” kiến thức của tôi hiếm khi
được đáp ứng, vì không có nhà tu chân chính nào
lại muốn nói về họ. Chỉ khi nào cần
kể lại kinh nghiệm bản thân cho người nghe
hiểu thêm về lời Phật dạy, các thầy hay cô mới
nói về mình, mà có nói thì cũng rất khiêm tốn.
Một trong những người khiêm tốn đó là
tỳ kheo ni Thích Nữ Huệ Hạnh, còn có tên là Sư Cô
Như Thủy. Sư Cô khoảng 58 tuổi, chào đời
tại Biên Hòa, đi tu từ năm 15 tuổi. Sư Cô
đã giảng pháp trong hơn 20 năm. Mấy năm
gần đây, do làm việc thiện trong nước,
thỉnh thoảng Sư Cô đến California để
thuyết pháp theo lời mời của Phật tử.
Sau đây là lời kể của Sư Cô được
chắp nhặt từ buổi pháp thoại có thâu băng
ngày 13 Tháng Tư, 2008
Vừa làm ruộng, vừa dạy pháp
Sư cô chỉ là một tu sĩ bình thường. Năm
1975, cô được 25 tuổi. Lúc đó, những
người trẻ tuổi không được ghi tu sĩ
là một nghề, vì nghề là một cái gì sinh nhai, mà tu
sĩ không là nghề sinh nhai. Cho nên cô ghi lý lịch của
mình là làm ruộng, và theo lý lịch đó thì phải đi
làm ruộng.
Trong 15 năm làm ruộng, cô còn chăn bò, làm rẫy,
chằm nón … tức là làm tất cả những gì các thanh
niên trẻ tuổi lúc đó đều làm. Vì những tu
sĩ trẻ mới xuất gia đều phải đi
đến các nông trường, Cô bị đôn lên làm giáo
thọ vì là người đã học trước nên
bắt buộc phải dạy người học sau.
Nếu cô không làm thì không ai làm hết.
Buổi học đầu tiên của cô khai giảng năm
1976 tại thiền viện Viên Chiếu (huyện Long Khánh,
tỉnh Ðồng Nai), dưới cội cây dầu. Thính
chúng chỉ có ba em, nhỏ nhất 14 tuổi, lớn
nhất 16. Học trò và cô giáo đều mặc y phục
lao động, mang sẵn giày, để một bên một
cái liềm, một cái cuốc cùng ấm nước.
Học từ 1 đến 2 giờ trưa, không bảng
đen, không phấn trắng, không tập vở, không kinh
sách gì hết. Học theo trí nhớ. Cô chỉ kể vài câu
chuyện để xách tấn các em, sau đó vội vã ra
đồng làm việc. Thời đó, một ngày làm
việc bảy tám tiếng, hoàn toàn không nghỉ, kể
cả những ngày Rằm hay Bồ Tát.
Được vài tháng thì có các em nhỏ từ những
vùng khác lục tục đến. Học vào giờ rất
khắc nghiệt của Miền Nam là từ 1 tới 2
giờ trưa. Khắc nghiệt vì quí cô thức dậy
từ 3 giờ sáng, ngồi thiền đến 5 giờ, 5
giờ rưỡi ăn cơm thì 6 giờ rưỡi
phải ra đồng, 11 giờ đi vào rửa mặt,
bắt đầu thọ trai (ăn uống), 12 giờ
được nghỉ đến 1 giờ.
Sau 1 giờ, những vị không đi học thì phải
ngồi vá đồ (vì tất cả quần áo đều
rách hết). Những em được đi học thì
học từ 1 đến 2 giờ. Các am cốc hoặc
các tự viện ở gần đó muốn đến
tham học, thì phải đi bộ từ 5 đến 10
cây số đường rừng.
Tinh thần cầu học của các em rất cao, cho nên
lớp từ từ gia tăng. Khi số thính chúng lên
đến 20-30 người, tu viện phải bàn là dành
mỗi tuần một ngày cho các em học, nhưng giao
trước là cho học chứ không cho ăn cơm, vì tu
viện không có đủ lương thực.
Khi lớp học được ấn định vào ngày
Chủ Nhật mỗi tuần, có những em đi xe
đạp từ Sài Gòn, hai em một xe, vượt 150 cây
số để lội ra học, rồi chiều đó
đạp xe trở về.
Rừng hoang, chân người
chếtchĩa ra trên lối đi
Dĩ nhiên khi đó rất cực, ăn
uống thiếu thốn, có khi hai tháng mới
được cạo tóc một lần vì không tìm ra dao lam.
Chỉ xài một dao lam mà có khi phải mài trở lại,
và không có kem đánh răng. Cũng không xà-bông, chỉ
tắm bằng khế và không giặt đồ với
xà-bông, thành ra người nào cũng ghẻ.
Ban ngày làm việc rất nặng, tay cuốc mà chân thì
phải đạp đất từ những nhát của
mình cuốc, đạp cho nó lún xuống dưới bùn
để thành ra ruộng sình, rồi mới cấy
nước. Từ một người chưa biết gì
hết, toàn là dân học trò chưa bao giờ làm ruộng,
nay làm ruộng theo kiểu tài tử. May sao, năm đó
được 300 giạ lúa. Mừng ơi là mừng.
Nơi đó là một cánh rừng hoang, được
gọi là chiến khu Hắc Dịch ở Quán Chim. Có khi
đang đi thì những chân người chôn vội vã còn
chĩa bàn chân bên trên lối đi. Rất thường khi
đào hố để trồng bầu, trồng bí thì
thấy xương người, đồ cá nhân còn
rất nhiều, xương những người rất
trẻ. Dưới những bụi cây, cội cây là
những hầm cá nhân, những hầm bí mật mà cuộc
chiến để lại.
Còn rừng là rừng hoang hoàn toàn. Có chim phượng hoàng,
một ít nai, cheo, heo rừng và rất nhiều khỉ.
Trăn rắn thì vô số, nhưng lạ là chưa ai
bị rắn cắn. Rất thường, khi ngủ
dậy, thấy dưới lưng mình vài con chuột con
bị chận giẹp lép. Còn rắn thì sau mỗi một
nhát phảng (là con dao lớn phát cỏ) thường
thấy rắn hay trăn bị đứt hai khúc.
Chuyện rất bình thường.
Vắt và đỉa hút máu
Quí cô sợ nhất là vắt (loại
hút máu sống trên những lá tre, bụi cây mục). Khi
xả thiền xong, rờ đâu trên cơ thể cũng
thấy nó. Mà nó cắn thì máu chảy như bị
đỉa cắn, máu chảy không cầm. Đi ra
ruộng thì như ra ngoài vũ trụ, vì sợ vắt nên
bao trùm kín hết, chỉ ló hai con mắt.
Khó khăn thì không sợ, sợ nhất là vắt và
chuột con. Thì ráng liều mạng, ráng thắng cái sợ
đó, chứ thật sự là sợ vô cùng.
Có nỗi kinh hoàng nữa là đỉa. Ra ruộng là
đầy đỉa, đủ màu hết. Cứ gọi
là đỉa hippie, “nó như sợi thun, có đủ màu
hết”. Rất sợ, nhưng mà nói sợ thì rất
mất mặt trước các em. Có một em, vừa
thấy con đỉa là hét một tiếng. Và leo lên
lưng cô, vừa ngồi, vừa khóc. Sau cô xin đổi
qua băng rẫy. Chứ nếu thấy mình “chết
giữa trận tiền” thì không em nào dám xuống làm
ruộng với đỉa hết.
Lợp nhà cũng rất khờ khạo: Không biết
lợp xuôi, mà lợp mái ngang, như trải chiếu. Thành
ra sau cơn mưa đầu tiên, bao nhiêu nước trút vô
nhà hết. Mấy người đùa: mấy cô ngang như
cua nên mái nhà cũng ngang như cua.
Nhưng cái bóng mát tầm lăng và sự hăng say của
tuổi trẻ đã làm cho quí cô lớn lên từ từ
đến lúc nào không hay. Bây giờ, cô bùi ngùi nhớ
lại thời mình bắt đầu tập tu, rất là
khờ khạo, nhưng cũng rất chân thành.
Dịch kinh trong bóng tối
Sau một lúc, tự nhiên các huynh
đệ đều nghĩ ra: Mình tu không chỉ
để giải quyết vấn đề ăn
uống, lương thực, mà có bổn phận truyền
đăng tục viện. Nếu mà Phật pháp
đến thế hệ của mình mà hết rồi, không
tu học nữa thì coi như mình thiếu bổn phận
với người sau. Thành ra không ai bảo ai, mỗi
người tự tìm cho mình một lối đi riêng.
Ðó là những tháng ngày cơ cực nhưng rất vui khi
đêm xuống. Tuy 9 giờ bắt đầu ngồi
thiền, nhưng đến 1 giờ vẫn thấy có
người ngồi “thiền phi thời”. Rồi 2 giờ,
3 giờ, lúc nào thức dậy cũng thấy có
người ngồi trong tu viện như bức
tượng thẳng tắp.
Có khi buổi thiền tối cũng phải bỏ, vì lúa rục
ngoài đồng bắt buộc phải cắt. Ðậu
phộng tới mùa phải thu hoạch, thành thử giờ
tọa thiền biến thành giờ lặt đậu
phộng. Vừa lặt đậu phộng, vừa
cấy đậu phộng trở lại.
Các vị lớn tuổi cảm thấy áy náy khi bỏ
những giờ ngồi thiền, nên lúc nào cũng có
người ngồi “thiền phi thời”. Phần cô thì
vừa vô mùng, đưa tay lên định bỏ mùng
xuống, nhưng chưa kịp chạm đến cái mùng
thì đã ngủ mất rồi. Thật sự cô
thường khi “ngủ phi thời”, có nghĩa là trong khi
ngồi thiền cô ngủ luôn. Quá mệt, ngủ
đến nỗi không chiêm bao.
Bỏ qua những chuyện đó, nghĩ chuyện
dịch kinh. Nếu đợi những chị lớn làm
thì không biết bao giờ, cho nên tự phát. Bắt
đầu dịch từ Hán tạng ra, cũng có một
số từ tạng Anh ngữ. Mục đích chính là
học cho mình, rút tỉa những bài học của
người xưa khi người ta ở trong hoàn cảnh
khó khăn, để chị em tự xách tấn lẫn
nhau.
Mỗi tháng được mua một lít dầu hôi và vài
hộp quẹt diêm. Ưu tiên cho Ðức Phật, nên
Phật có được ngọn đèn, còn tất cả
thì phải dè sẻn. Thiền viện có một bộ
đại tạng thì mượn về. Chữ nhỏ
như hột mè, mà soi bằng những cái đèn “hột
vịt” nhỏ xíu, rồi lật tự điển.
Rồi vừa dịch vừa viết để dỗ các
em, vì không có sách báo gì để coi. Viết cho các em
đọc, và cũng tự dỗ mình. Những cuốn
Hư Hư Lục, Hi Hi Lục, rồi những cuốn
truyện ngắn, những bài kinh được dịch
từ bóng tối của những ngọn đèn đó.
Phong trào học Phật thời đó rất sôi nổi.
Không có viết, viết bằng ngòi lá tre, chấm mực.
Tập vở khan hiếm. Quí em chép tay, cô dịch hay
viết trang nào ra thì chép trang đó. Và nó truyền từ
trong Nam ra tới ngoài Trung.
Không ngờ những bản kinh, bản dịch đó, bây
giờ người ta in thành sách bán khắp các vỉa hè,
tức là bán chui. Cô thấy những tác phẩm của mình
bán mà không dám nhìn, vì đâu có xin phép mà in ấn. Không xin phép,
mà lại nhận là của mình thì có nghĩa là lạy ông tui
ở bụi này. Thành ra cô giả lờ luôn. “Thôi thì
người ta được lợi, mình được
danh”.
Niệm Phật giúp người
Tuy chỉ niệm Phật, cô cũng từng giúp một em
bé sinh thuần tử an. Em bé đó bị ung thư.
Người mẹ thấy con nằm mà không chữa
bệnh được thì đau đớn vô cùng. Bà
đến nhờ cô coi ngày, nói: “bữa nào tốt ngày,
sẽ cho em uống một muỗng thuốc rày để
em đi cho nhẹ nhàng”. Người mẹ thì kiệt
sức mà em bé sống lay lắt hoài.
Cô nghe sợ quá, không dám nói là nên làm hay không nên. Cô hoãn binh,
bằng cách chiều đó đến tụng kinh cho em bé.
Em bé mới 9 tuổi thôi, bị ung thư xương, coi
như thịt bị hoại thư rồi, mùi thúi lan ra
khỏi ngôi nhà, không trị được nữa. Nhưng
em bé biết, em nói:
“Cô ơi, cô dẫn con đi. Mẹ con tính tối nay
giết con bằng cách cho uống thuốc chuột.”
Cô nói: “Không sao, có cô, mẹ không làm điều đó đâu.
Cô sẽ tụng kinh. Cô xin với Phật, nếu con
sống được thì cô sẽ đưa con đi
trị bệnh. Giả sử cái thân này nó hư rồi,
giống như cái xe mà hư hết không xài
được, cô sẽ xin Phật cho con một cái thân
khác. Ở đời sau, cô cũng tìm đến để
đưa con về chùa. Con chịu không?” Nó nói: “Dạ
chịu.”
Đầu tiên cô dạy nó sám hối. Cô hỏi: Con có
lỗi gì mà con ray rứt trong lòng. Nó nói con ăn cắp
tiền của mẹ. Nhà nghèo quá, sáng mẹ không cho ăn.
Lâu lâu ăn cắp tiền của mẹ để mua bánh
ăn. Cô mời mẹ nó đến để xin sám
hối.
Nó nói theo cô:
“Con là bé N…, 9 tuổi. Khi mẹ sinh ra con, cơ thể con
lành mạnh không có tì vết gì. Vì con không biết, con dùng tay
con vào một chuyện không tốt, là ăn cắp tiền
của mẹ. Xin mẹ tha thứ cho. Ðể, do sám hối
này, đời đời kiếp kiếp con sinh ra tay chân
lành lặn, sinh nơi nào cũng có cha mẹ đầy
đủ, gặp thiện hữu tri thức dẫn
dắt cho con tu.”
Cô nói tới đâu, em nói theo tới đó. Xong cô nói: Con sám
hối được mẹ tha thứ rồi, Phật
chứng minh rồi, tội con hết rồi. Bây giờ cô
niệm Phật. Cô niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật,” con nghe theo
rồi niệm với cô.
Cô niệm với nó chừng vài lần thì nó nói, “Cô ơi,
chân con lạnh quá.” Niệm thêm một chút, nó nói, “Cô à, cái
lạnh nó lan lên đầu gối.” Cô niệm một lát nó
nói, “Cô ơi lạnh lên tới bụng.”
Cô nói con cứ niệm theo cô, bao giờ con không niệm
được nữa thì cô niệm một mình, con nghe.
Ðến chừng mười phút sau, nó nói, “Cô ơi, con
nhắm mắt lại, cô niệm một mình, con nghe cô.”
Từ lúc cô đến dạy nó sám hối và niệm
Phật thì 15 phút sau cô thấy nó bất động. Cô
đưa tay lên bắt mạch thì không còn, đưa
một ngọn đèn trước mũi cũng không còn,
biết cháu đã ra đi.
Trong cảnh đau lòng này chỉ có dạy em bé sám hối,
nương vào hồng danh của Ðức Di Ðà. Lúc đó cô
vừa rời tu viện, bản thân cô cũng đau. Vì cái
đau của mình, cô cảm nhận được cái
sự bơ vơ của bệnh nhân trước
ngưỡng cửa tử. Biết rằng người
thân của mình sắp ra đi, rất bơ vơ, thì cô
niệm chí thành như vậy. Thân tâm cung kính niệm, cô
chỉ có thể làm tới đó thôi.
Không hoàn tục nhờ pháp vị
Hòa thượng là một vị thầy
đánh dấu một bước đời rất quan
trọng của cô. Nếu cô không được gặp
ngài thì cô đã hoàn tục năm 22 tuổi. Năm đó,
khi học xong cử nhân, đi dạy trường Bồ
Ðề, đâm ra cô chán tu, nghĩ sao tu không thấy gì hay
hết.
Chỉ tụng kinh, cầu an, cầu siêu rồi đi xin
đồ chay ngoài chợ về nhà nấu ăn thôi. Trong
khi những bạn của mình, họ học ra làm bác
sĩ, làm giáo sư, đóng góp rất nhiều cho xã
hội, mình thì chỉ như một thầy cúng. Do đó cô
có ý định hoàn tục, sống đời của
một Phật tử tại gia, và đóng góp vào xã hội
bằng khả năng của mình.
Chán như vậy nên cô không thèm tụng kinh, không thèm
ngồi sám hối, thời đó chưa biết tu
thiền. Thấy vậy, sư bà mới “dẫn
độ” cô lên gặp hòa thượng. Cô nói với hòa
thượng:
“Thưa thầy, mãnh lực giữ con lại trong
đạo chỉ là lòng tự ái. Vì khi con đi tu, các bà
bạn của mẹ con nói “con nhỏ này vô chùa bữa
trước bữa sau, ba bảy hai mươi mốt ngày,
nó chạy về nhà”. Và vì nhiều người cản cho
nên con quyết tâm đi tu, bây giờ trở về mắc
cỡ, chứ thật sự, con chán cái cuộc đời
tu quá.”
Thầy nói:
“Người ta sống ở đời, phải có
niềm vui. Niềm vui của thế gian là ngũ dục –
tài, sắc, danh, lợi, ăn ngủ chẳng hạn. Khi
đạt được những cái đó người ta
cảm thấy đạt được một cái gì,
một niềm vui của thế tục. Người tu thì
không hưởng ngũ dục như người thế
gian. Niềm vui của người tu là pháp vị.
Thầy không trách một người tu khi họ đòi hoàn
tục, vì họ không thể sống ở đời mà
không có niềm vui. Thành ra không thấy niềm vui trong
đạo thì người ta sẽ trở về với
thế tục”.
Cô hỏi pháp vị ở đâu. Thầy hỏi lại con
có thể bỏ hết mọi việc để theo
thầy học kinh không thì thầy sẽ chỉ cho con pháp
vị, chứ làm sao thầy chỉ liền ngay bây giờ.
Khi đó cô mới thu xếp để lên theo thầy
với lời hứa thầy sẽ chỉ cho pháp vị.
Theo học không được bao lâu, xảy ra cuộc biến
động năm 1975, thầy một nơi trò một
ngả. Tuy ở xa, không gần đệ tử, thầy
luôn luôn xách tấn. Chính nhờ thầy mà cô mới cố
gắng cầm cự, gặm đất mà ăn
để sống. Ðến bây giờ còn tu là nhờ lúc
gặp thầy.
Pháp vị không chỉ một ngày một bữa. Chính
thầy cho cô cái niềm tin rằng có người thực
hành Phật pháp, có người ưu tư đến
chuyện sống còn của Phật pháp.