Tịch
Thiên khẳng định rằng sự quyết tâm mang lại sự an lành cho tất cả chúng
sinh có giác cảm sẽ làm dâng lên hạnh phúc và hân hoan trong lòng 
mình.
Trái lại nếu chỉ biết chăm lo cho chính mình thì không sao tránh tránh 
khỏi  mọi khó khăn, thảm kịch và tai họa xảy đến với mình (quá
chăm lo cho mình là cách tạo ra nhiều tham lam và lầm lẫn, đưa đến sự 
xung đột  về quyền lợi với những người chung quanh. Đấy chính là cách tự
cô lập mình và  tạo ra cho mình mọi thứ khó khăn, đưa đến tai họa và 
thảm kịch một cách dễ dàng).
Tịch Thiên nói rằng nào có cần  phải nhắc đến chuyện ấy đâu: chỉ cần 
nhìn vào tấm gương của Đức Phật cũng đủ. Có  phải là Ngài luôn mong cầu 
tất cả chúng sinh được an lành và âu lo cho số phận  của chúng ta hôm 
nay, tức cái số phận mà chúng ta hiện đang phải gánh chịu hay  không? 
Điều ấy có thể nhận thấy thật dễ dàng khi so sánh giữa những khó khăn mà
con người bình dị luôn phải đối đầu và các phẩm tính giác ngộ và trí 
tuệ của chư  Phật. Sự so sánh đó sẽ giúp chúng ta nhận thấy sự khác biệt
lớn lao giữa đức độ  và những điều lợi ích mà người tu tập được thừa 
hưởng từ ước vọng mang lại sự  tốt lành cho tất cả chúng sinh có giác 
cảm, và những điều bất lợi cũng như các  hoàn cảnh thiệt thòi của những 
người ích kỷ chỉ biết chăm lo cho quyền lợi của  riêng mình.
Tịch Thiên nêu lên một sự thắc mắc như sau: trong khi tất cả chúng 
sinh cũng như  chúng ta đều ước mong tìm được hạnh phúc và tránh khỏi 
khổ đau, thì tại sao  riêng chúng lại chỉ biết âu lo cho quyền lợi cá 
nhân của riêng mình và
tạo ra mọi thứ thiệt thòi cho kẻ khác - đến độ không còn biết nghĩ 
đến bất cứ  một người nào nữa? Sự thắc mắc ấy nêu lên một sự thật vô 
cùng quan trọng. Chúng  sinh cũng như tất cả mỗi người trong chúng ta 
đều ước mong tìm được hạnh phúc và  tránh khỏi khổ đau, thế nhưng tại 
sao các cảm nhận hân hoan và hạnh phúc của  chúng ta lại cứ đưa đến một 
tình trạng bất toại nguyện triền miên?  (các
cảm nhận về hạnh phúc và hân  hoan rất phù du, thế nhưng chúng ta lại 
cứ muốn chúng phải trường tồn hay ít ra  cũng phải kéo dài hơn, sự mong 
muốn đó khiến chúng ta cảm thấy lúc nào cũng  thiếu thốn và thèm khát 
triền miên). Với danh nghĩa một con người tôi có quyền thực hiện 
nguyện vọng ấy của  tôi, thế nhưng tại sao những kẻ khác lại không được 
hưởng cái quyền ấy? Thật hết  sức quan trọng là phải công nhận sự bình 
đẳng căn bản đó.
Vậy giữa  kẻ khác và chúng ta có những sự khác biệt nào? Dù rằng tất 
cả các kẻ khác đều  thật quan trọng và quý giá, thế nhưng chúng ta thì 
lại chỉ biết nghĩ đến quyền  lợi của một cá nhân duy nhất. Dù cho sự đau
đớn của kẻ khác có hành hạ họ đến mức nào đi nữa  thì chúng ta cũng chỉ
quan tâm đên sự an lành của riêng mình mà thôi. Mỗi khi  nghĩ đến sự an
vui của tất cả các chúng sinh có giác cảm khác thì chúng ta cũng  nên 
hiểu rằng cách gọi các chúng sinh khác sẽ có nghĩa là vô lượng chúng  sinh. Dù sự đau đớn của một chúng sinh khác không đáng cho chúng ta quan  tâm, thế nhưng tất cả những sự đau đớn của những chúng sinh khác
khi góp  lại thì quả là vô biên. Do đó trên phương diện số lượng, sự an
lành của những kẻ  khác sẽ phải to lớn hơn sự an lành của riêng mình 
gấp bội.
Dù răng  chúng ta chỉ biết nghĩ đến quyền lợi của riêng mình, thế 
nhưng phải hiểu rằng  khi nào các kẻ khác được hài lòng và hạnh phúc thì
khi đó chúng ta mới được  hưởng lây. Trái lại, nếu những kẻ khác lâm 
vào tình trạng đau khổ triền miên thì  chúng ta tránh sao khỏi phải chịu
chung số phận. Thật hết sức rõ ràng là quyền  lợi của kẻ khác liên hệ 
chặt chẽ với quyền lợi của chính mình. Thật vậy, qua  kinh nghiệm bản 
thân chúng ta cũng có thể nhận thấy rõ ràng là nếu mình càng bám víu  
vào "cái tôi" - tức càng chăm lo cho quyền lợi của riêng mình - thì các 
khó khăn  tâm lý cũng như các thứ xúc cảm đủ loại sẽ càng trở nên trầm 
trọng hơn  (chúng ta cảm thấy cô đơn và lẻ loi hơn).
Chăm lo cho chính mình tất nhiên phải là điều quan trọng. Thế nhưng 
nếu thực sự  muốn chăm lo cho mình thì phải cần thực tế hơn, tức là 
không nên xem trọng quyền  lợi của mình một cách quá đáng mà phải dành 
nhiều thì giờ hơn để nghĩ đến người  khác. Thật vậy, phát động lòng vị 
tha và tôn trọng sự an lành của kẻ khác là một  cách hành xử thật lành 
mạnh (tức không phải là một  sự ích kỷ)
dù chỉ vì mục đích thỏa mãn các quyền lợi của riêng mình.  Khi hành xử 
như thế, chúng ta sẽ nhận thấy những biến cải thật quan trong trong  nội
tâm mình: một cảm giác lắng dịu sẽ hiện ra với mình. Chúng ta sẽ không 
còn  phản ứng một cách phi lý trước những chuyện vụn vặt nữa, cứ như 
liên hệ đến cả  mạng sống của chính mình, hoặc tương tự như thanh danh, 
bản ngã và cả sự tồn vong của mình đang bị hăm dọa. Nếu chúng ta lúc nào
cũng chỉ biết  nghĩ đến quyền lợi của mình - và hoàn toàn không quan 
tâm đến sự an vui của kẻ  khác - thì ngay cả các biến cố nhỏ nhoi cũng 
có thể gây ra những sự bấn loạn  trầm trọng, hay những vết thương trong 
nội tâm mình. Chúng ta có thể nhận thấy  rất rõ những điều đó qua các 
kinh nghiệm bản thân của minh.
Tóm lại,  thái độ vị tha đó thật hết sức lợi ích cho kẻ khác và cho 
cả chính mình. Nếu cứ  mặc cho tâm thức lâm vào cảnh nô lệ của sự ích kỷ
thì cảm tính bất toại nguyện,  chán nản và bất hạnh sẽ kéo dài thêm. 
Chúng ta sẽ đánh mất đi không biết bao  nhiêu cơ hội tốt lành mà mình 
đang có - chẳng hạn như được làm thân con người,  được thừa hưởng những 
khả năng tuyệt vời của trí thông minh, giúp chúng ta thực  hiện được 
những mục tiêu vượt bực. Vì thế thật hết sức quan trọng là phải biết  
cân nhắc giữa các kết quả ngắn hạn và lâu dài mang lại từ các hành động 
của mình.  Nhằm mang lại ý nghĩa cho sự hiện hữu dưới thể dạng con người
của mình thì sẽ chẳng có một phương cách nào tuyệt với hơn là sự suy tư
về Bồ Đề Tâm  (Bodhicita), tức là ước vọng vị tha mong sao đạt được 
Giác Ngộ để mang lại sự an  lành cho tất cả chúng sinh có giác cảm?
Trích tác phẩm Tu Tuệ của Đạt Lai Lạt Ma - Hoang Phong dịch