Câu hỏi sẽ không cần đặt ra nếu người tu sĩ mặc định và hành trì một
cách tuyệt đối tư tưởng: “Giải thoát là không còn trụ nơi hình tướng”;
mà khoa học thì lại trụ bám vào hình tướng, vì đối tượng của nó là vật
chất, - tức hình tướng. Người tu sĩ chỉ cần “hành thiền” hay “niệm Phật
nhất tâm bất loạn.” Thật ra, yêu cầu tri thức khoa học đối với người tu
sĩ Phật giáo nói chung có thể chứng minh được, căn cứ trên hai thực tế:
Thực tế khách quan và sự nghiệp tu hành - hoằng hóa (tự giác giác tha).
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)
I. Thực tế
khách quan :
1. Hiện thực pháp giới
tính : Trong vũ trụ vạn hữu, không một hiện tượng nào không liên hệ với
tất cả các hiện tượng khác. Đạo Phật không tách rời khỏi thế giới còn
lại. Phật pháp không tách rời thế gian pháp, “Nhất thiết thế gian pháp
vô phi Phật pháp.” Chân lý này từng được nêu rõ trong kinh Phật. Kinh
Hoa Nghiêm có giáo nghĩa “tương tức, tương nhập”. Tương tức có nghĩa là
cái này là cái kia. Tương nhập có nghĩa là cái này nằm trong cái kia.
2. Quan niệm hiện đại
về một Trí quyển (noosphere) bao quanh địa cầu, đó là “quyển” do tâm
thức và trí tuệ (do tâm trí) của loài người tạo nên. Tác động của con
người vào tự nhiên đã làm biến đổi sâu sắc bộ mặt của hành tinh và các
tầng quyển bao quanh nó, đến mức độ không còn nơi nào không mang dấu ấn
hoạt động con người.
3. Khoa học và ứng dụng
của nó là Kỹ thuật tác động trên con người:
- Tích cực: cho phép
hiểu thế giới hiện tượng ngày càng sâu sắc và chính xác.
- Tiêu cưc: Môi
trường sống bị tổn hại nghiêm trọng; chiến tranh, tội ác khi áp dụng
khoa học - kỹ thuật vào mục đích xấu.
A.Einstein phát biểu
rằng: “Tại sao cái nền khoa học ứng dụng nguy nga lộng lẫy ấy, - tiết
kiệm sức lao động và làm cho đời sống được dễ dàng hơn, - lại mang đến
cho chúng ta quá ít hạnh phúc như vậy? Câu trả lời là: Bởi vì chúng ta
chưa học cách sử dụng nó theo lương tri. (Why does this magnificent
applied science, which save work và makes life easier, bring us so
little happiness? The simple answer runs: Because we have not yet
learned to make sensible use of it. – Albert Einstein. Address,
California Institute of Technology. The great Quotations, Science.
p.854)”
4. Khoa học đã trở thành một trong những hoạt động có tốc độ
phát triển nhanh nhất của loài người.
5. Khoa học là Tri thức, mà Tri thức là sức mạnh (Knowledge
itself is power. – Francis Bacon).
6. Khoa học đẩy lùi dần mê tín, tà thuyết, tà đạo.
II. Sự nghiệp tu hành và hoằng hóa
1. Đạo Phật là đạo của trí tuệ. Khoa học là trí tuệ thế gian
phù hợp với lý trí, không mâu thuẫn với Phật pháp, do vậy mà khi hoằng
hóa người tu sĩ cần có những hiểu khoa học nhất định.
2. Nhìn chung, tăng sĩ có tri thức khoa học hiểu kinh điển sâu
sắc hơn, đồng thời có thể dùng khoa học để lý giải, thuyết minh chân lý
đạo Phật.
- Việc hoằng pháp của Giáo hội Phật giáo sẽ được dễ dàng và có
hiệu quả hơn khi hàng tu sĩ có trình độ văn hóa và khoa học vững vàng.
- Cảm hóa tha nhân bằng đức, nhiếp phục họ bằng trí, và bắt đầu
bằng thế trí, mà khoa học là thế gian trí tiêu biểu nhất.
3. Khoa học - Kỹ thuật cung cấp những phương tiện trợ duyên cho
sự học hỏi và truyền bá chánh pháp.
- Về phương tiện tri thức, có các môn khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội; các nghành y học, tin học, giáo dục học v.v…
- Về phương tiện vật chất, như: video, cassette, máy vi tính.
4. Biết và sử dụng được một vài phương tiện kỹ thuật chưa đủ để
có thể gọi là có tri thức khoa học.
III. Phật pháp và Khoa học
1. Phật pháp là Chánh trí, là Chân lý trong khi khoa học thì
đang trên con đường đạt tới Chân lý. Do vậy mà cái biết của khoa học đã
và đang tiến hóa theo thời gian, còn những điều đức Phật nói ra là Sự
Thật hiển nhiên “như thị”, không có gì phải “xét lại”, như Albert
Einstein, nhà bác học vĩ đại nhất của thiên niên kỷ đã nhận định: “Nếu
có một tôn giáo nào thích ứng được với các nhu cầu khoa học hiện tại thì
tôn giáo đó chính là Phật giáo. Phật giáo không cần duyệt xét lại hầu
cập nhật hóa với những khám phá khoa học mới đây. Phật giáo không cần từ
bỏ quan điểm mình để theo khoa học, vì Phật giáo không những bao gồm cả
khoa học mà còn vượt qua cả khoa học nữa.”
2. Căn cứ trên biện chứng “giải thoát là tu trí (trí độ)” thì
Phật pháp là “cái chuẩn”, là “thước đo” trình độ khoa học chứ không thể
dùng khoa học làm thước đo Phật pháp, - như một số phật tử trí thức đã
mắc phải sự nhầm lẫn này.
3. Khoa học khám phá những quy luật của thế giới vật chất, chứ
tự nó không phải là phương tiện giải thoát con người khỏi phiền não và
luân hồi sinh tử.
4. Tu sĩ Phật giáo cần có kiến thức khoa học để:
- Được thêm thuận lợi khi hoằng pháp trong một thế giới mà khoa
học ngày càng tiến bộ;
-Điều chỉnh tình trạng tâm – sinh lý bản thân khi có vấn đề về
bệnh lý.
Nhưng không thể cho đó là điều kiện tất yếu bởi vì giáo pháp
của đức Thế Tôn đã hoàn toàn đầy đủ cho bất cứ chúng sinh nào - trong
cuộc hành trình giải thoát - thực hiện đúng pháp môn Ngài dạy.
Giáo Sư - Cư
Sĩ Phạm Phú Thành