Điều quan trọng nhất trong sự đóng góp của Phật giáo không
phải là với tư cách một thiết chế tôn giáo có tính chất biểu tượng mà
chính là với tính chất của một nền văn hoá chiều sâu có khả năng tác
động sâu sắc, nuôi dưỡng và phát triển đời sống tâm linh của mỗi người.
Có thể một mai đây, nước Việt Nam sẽ phát triển mạnh trên phương diện
kinh tế và cuộc sống vật chất của mỗi người sẽ được nâng cao hơn. Nhưng
sự phát triển đó sẽ không trọn vẹn khi đời sống tinh thần và tâm linh
của mỗi người trở nên nghèo nàn và héo úa…
Từ sự phục hưng văn hoá dân tộc…
Với một nước chậm phát triển như Việt Nam, việc tập trung sức lực
cho công cuộc phát triển kinh tế là một điều có thể hiểu được khi mà
trong danh sách phát triển của các nước trên thế giới, Việt Nam vẫn còn
được xếp ở một thứ hạng rất khiêm nhường.
Nhưng tập trung cho việc phát triển kinh tế, điều đó không có nghĩa
là chúng ta xao nhãng các vấn đề thuộc phạm trù tinh thần, vì thiếu nó,
quá trình phát triển sẽ trở nên phiến diện, què quặt. Ngày nay, khái
niệm “phát triển kinh tế” đơn thuần chỉ nói đến duy nhất sự tăng trưởng
kinh tế tính theo chỉ số GDP mà thôi, nên đã không được chấp nhận như
một đường lối phát triển chính thức của quốc gia. Thế nên, chúng ta đưa
vào khái niệm “phát triển” những tính chất tổng hợp và toàn diện hơn,
như phát triển con người, phát triển xã hội, phát triển bền vững… Và
tất cả đều nói lên một chân lý đơn giản rằng con người là một thực thể
đa chiều kích: sinh học – xã hội – lịch sử - tâm linh, do đó, sự phát
triển cũng phải mang tính chất tổng hợp, đa diện.
Một cách tổng quát, có thể hình dung qúa trình phát triển của một
đất nước như là sự phát triển của hai loại hình phát triển cơ bản là sự
phát triển trên bề mặt (surface development) và sự phát triển theo
chiều sâu (deep development). Với sự phát triển trên bề mặt, chúng ta
có thể đạt được những thành tựu có giá trị vật chất và có thể đánh giá,
định lượng bằng những con số thống kê cụ thể (chỉ số GDP tính theo đầu
người, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ tử vong nơi trẻ sơ sinh…). Trong khi
đó, với sự phát triển theo chiều sâu, chúng ta muốn nói đến sự thăng
hoa của các giá trị tinh thần của một cộng đồng cũng như của cá nhân mà
nếu thiếu nó, tất cả sự phát triển trên bề mặt đều trở nên vô nghĩa.
Tuy khó có thể miêu tả một cách thật chính xác cũng như không thể định
lượng một cách thật cụ thể, nhưng sự phát triển theo chiều sâu này có vị
trí và vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình xây dựng và phát
triển của một quốc gia, và chính nó làm cho quá trình này thực sự trở
nên “bền vững” hơn và có ý nghĩa hơn.
Trong thực tế, ở Việt Nam, cũng như ở nhiều nước khác, chúng ta chỉ
chứng kiến gần như chỉ một loại hình phát triển duy nhất: đó là sự phát
triển đơn tuyến chỉ diễn ra trên bề mặt và hầu như bỏ qua sự phát
triển theo chiều sâu. Điều này có thể thấy rõ trong giáo dục, một lĩnh
vực, thay vì phải tập trung cho sự phát triển con người toàn diện, đặc
biệt là chiều sâu trong tâm thức, lại quá nhấn mạnh các khía cạnh thuộc
bề mặt, nhất là khía cạnh kỹ thuật và kinh tế. Giáo dục thay vì phải
là một cơ chế định hướng giúp cho sự phát triển con người trở nên quân
bình và toàn diện, lại trở nên một nhân tố góp phần tạo nên sự phiến
diện của quá trình phát triển, làm nên sự tha hoá của chính quá trình
này.
Để khắc phục sự lệch lạc và mất quân bình này của quá trình phát
triển, điều có ý nghĩa quan trọng và có tính chiến lược lâu dài là phải
xây dựng một nền tảng văn hoá thật vững chắc cho quá trình phát triển.
Và khái niệm “văn hoá” được nói đến ở đây phải được hiểu là một nền văn
hoá theo chiều sâu (deep culture), một nền văn hoá có khả năng bao
quát được hết tất cả các khía cạnh trong thế giới tâm thức của con
người, và tạo ra được những động lực cần thiết cho sự phát triển thế
giới tâm thức này. Nói cách khác, nếu trên bình diện cộng đồng, quá
trình phát triển có thể diễn ra trên bề mặt và vươn tới những mục tiêu
có tính chất kinh tế, xã hội, thì trên bình diện cá nhân, mục tiêu cao
nhất của sự phát triển phải là sự phát huy những giá trị tiềm ẩn trong
tâm thức, và điều này sẽ có tác động tích cực đối với quá trình phát
triển trên bề mặt thuộc bình diện cộng đồng.
Như vậy, sự phục hưng văn hoá chỉ có thể trở thành hiện thực khi quá
trình phát triển một quốc gia đạt tới một sự thống nhất nào đó giữa
nền văn hoá của những cấu trúc bề nổi (bao gồm kinh tế và các thiết chế
xã hội khác) và nền văn hoá của những cấu trúc bề sâu mà trong đó tôn
giáo đóng giữ một vai trò có tính chất tiêu biểu. Với ý nghĩa đó, khái
niệm “phát triển” mà chúng ta thường đề cập phải bao hàm một nội dung
rộng lớn và có một ý nghĩa văn hoá sâu sắc chứ không phải chỉ liên quan
đến những vấn đề thuộc hiện tượng xã hội ở bên ngoài, tuy rằng những
vấn đề này vẫn có một tầm quan trọng riêng biệt của nó.
…Đến sự đóng góp của Phật giáo
Trong lịch sử hình thành và phát triển nền văn hoá dân tộc, có lẽ giai đoạn hiện nay là giai đoạn thích hợp nhất cho sự phục hưng văn hoá
mà chúng ta đang chờ đợi. Và quá trình phục hưng văn hoá này không thể
trở thành hiện thực nếu chúng ta không thực hiện được một sự tổng hợp lớn,
một sự tập đại thành, nếu có thể nói như vậy, về phương diện văn hoá.
Xuất phát từ một vị trí địa lý và một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, trên
phương diện văn hoá và tư tưởng, Việt Nam là nơi gặp gỡ, tụ hội của
nhiều luồng tư tưởng, văn hoá khác nhau, nơi mà Đông và Tây có thể đan
xen và giao thoa với nhau trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội và đời
sống tinh thần. Trong các bộ phận cấu thành nền văn hoá dân tộc, ngoài
dòng văn hoá-tư tưởng bản địa, còn phải kể đến nhiều dòng khác nhau
đến từ phương Đông và phương Tây, tất cả đã tạo thành một diện mạo văn
hoá hết sức phong phú và đặc sắc. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, sự
sống chung giữa các bộ phận văn hoá này chỉ có tính chất “lắp ghép”
(chữ dùng của tác giả Phan Ngọc) chứ chưa thật dung thông và đôi khi còn
lâm vào tình trạng đố kỵ, xung đột. Nhưng nhìn chung, ý thức khoan hoà và bao dung
vẫn là một trong những ý thức văn hoá nổi bật nhất trong truyền thống
lịch sử của dân tộc, và ngày nay, trong hoàn cảnh mới của đất nước, ý
thức khoan dung này có thể được xem là một nền tảng tư tưởng quan trọng để thực hiện một sự tổng hợp lớn trên phương diện văn hoá.
Trong những bộ phận cấu thành nền văn hoá dân tộc, phải đặc biệt kể
đến Phật giáo, một tôn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ nhưng dễ dàng được
văn háo dân tộc chấp nhận như một bộ phận hữu cơ của mình. Và trải qua
gần 20 thế kỷ tồn tại, thăng trầm cùng với lịch sử phát triển của đất
nước, những giá trị tinh hoa của Phật giáo đã thực sự trở thành “xương
máu” của văn hoá dân tộc đến mức khi đề cập đến cái gọi là tâm thức
Việt Nam không thể không nói đến tâm thức Phật gáo. Những danh nhân văn
hoá và lịch sử Việt Nam như Lý Thường Kiệt, Trần Thái Tông, Nguyễn
Trãi, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du…, đều là những con người mang đậm tâm
hồn, cốt cách và khí phách Việt Nam, ít hay nhiều cũng thể hiện được tố
chất Phật giáo trong con người của mình.
Ngọc hun đỉnh núi màu thuần nhã
Sen nở trong lò sen chẳng tàn
(Thiền sư Ngộ Ấn)
Từ sự đồng hành của dân tộc và Phật giáo trong lịch sử, có thể đưa
ra một quy luật tổng quát là sự thăng trầm của lịch sử dân tộc luôn gắn
liền với sư thăng trầm của Phật giáo và bất cứ một triều đại nào biết
tôn trọng và thực sự phát huy được những giá trị tinh hoa của Phật giáo
(như triều đại Lý, Trần) đều là những triều đại cường thịnh không những
về phương diện xã hội mà còn cả về phương diện văn hoá nữa. Với một ý
nghĩa hạn chế trong một phạm vi nhất định, có thể nói rằng Phật Giáo là
dân tộc và dân tộc cũng là Phật giáo, và khái niệm văn hoá Phật giáo
mà chúng ta đang đề cập ở đây vừa bao hàm những khái niệm riêng biệt
của Phật giáo lại vừa có nhiều điểm chung với nội dung của văn hoá dân
tộc.
Trên tinh thần đó, có thể nói sự đóng góp của Phật giáo vào quá
trình xây dựng và phát triển văn hoá dân tộc là một sự đóng góp vô giá,
đặc biệt là trên phương diện tư tưởng và tinh thần. Chẳng hạn như không
thể nói đến đức khoan dung như một trong những phẩm chất đặc trưng của văn hoá Việt Nam nếu không đề cập đến sự ảnh hưởng sâu sắc của tinh thần vô ngã
của Phật giáo, cơ sở của toàn bộ nền đạo đức học và triết học Phật
giáo. Trong một thời đại còn mang đầy tinh thần cố chấp và cuồng tín
như thời đại ngày nay thì tinh thần vô ngã và bao dung luôn là một điều
cần thiết để đem lại sự an bình cho xã hội và con người.
Điều quan trọng nhất trong sự đóng góp của Phật giáo không phải là
với tư cách một thiết chế tôn giáo có tính chất biểu tượng mà chính là
với tính chất của một nền văn hoá chiều sâu có khả năng tác động sâu
sắc, nuôi dưỡng và phát triển đời sống tâm linh của mỗi người. Có thể
một mai đây, nước Việt Nam ta sẽ phát triển mạnh trên phương diện kinh
tế và cuộc sống vật chất của mỗi người sẽ được nâng cao hơn. Nhưng sự
phát triển đó sẽ không trọn vẹn khi đời sống tinh thần và tâm linh của
mỗi người trở nên nghèo nàn và héo úa, và mối quan hệ giữa người với
người, giữa người với môi trường không được cải thiện một cách cơ bản.
Sự hoà giải, liên minh giữa chính trị và tôn giáo là một điều cần thiết
để có thể tạo ra một quá trình phát triển có tính chất quân bình và
toàn diện cho đất nước.
So với các giai đoạn trước đây trong lịch sử, có lẽ giai đoạn hiện
nay là giai đoạn thích hợp nhất cho sự xuất hiện một loại thời cơ đặc
biệt mà chúng ta có thể gọi là thời cơ văn hoá. Đây
chính là thời cơ thuận lợi nhất để tập trung suy nghĩ, thảo luận và
hành động về những vấn đề có liên quan đến văn hoá cả trên phương diện
vi mô lẫn vĩ mô. Và cũng đã đến lúc cần phải đặt ra và suy nghĩ nghiêm
túc về vấn đề tổng hợp văn hoá, một điều không thể thiếu trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc.
Và chắc chắn rằng trong quá trình tổng hợp để xây dựng và phát triển
nền văn hoá dân tộc, Phật giáo sẽ giữ một vai trò trọng yếu và có
những đóng góp hết sức quý báu.
Theo: DPNN