Sau 1000 năm bị người Trung quốc đô hộ, một thời
kỳ độc lập bắt đầu với cuộc chiến thắng vẻ vang quân xâm lược Nam Hán vào năm
939. Đây là một thời kỳ vàng son của Phật giáo Việt Nam. Trong hơn 400 năm dưới
các Triều đại Đinh ( 968-980), Triều Lê (980-1009), Lý (1010-1225) và Trần
(1225-1400), các nhà nước đều ủng hộ Phật giáo như một quốc giáo và được Phật
giáo tích cực ủng hộ. Do đo mà đất nước trở nên hùng cường, thịnh vượng và nhân
dân hiền thiện, hạnh phúc, với những thành tựu tốt đẹp nhất về quân sự và văn
hoá trong lịch sử phong kiến ở Việt Nam. Nhiều vị Tăng tài đức được mời làm
Quốc sư. Vua, đại thần, tướng lãnh… đều là những tín đồ và học giả Phật giáo.
Nhiều người sau khi hoàn thành việc nước, đã từ bỏ gia đình, tài sản để tu hành
tại một ngôi chùa hẻo lánh. Vua Lý Thái Tổ, người sáng lập Triều Lý vốn là một
Sa di, kế vị của ông là Lý Thánh Tông, cũng là một nhà Phật học. Vua Trần Thái
Tông là một Thiền sư, tác giả của nhiều bộ sách Phật học giá trị, sau khi lãnh
đạo nhân dân chiến thắng lẫy lừng các đạo quân Mông Cổ, đã nhường ngôi cho con
là Trần Thánh Tông, từ bỏ ngai vàng mà đến núi Yên Tử tu tập và sáng lập Thiền
phái đầu tiên tại Việt Nam, tức Thiền Phái Trúc Lâm.
Những dấu tích văn hoá và tư tưởng Phật giáo Việt
nam không chỉ thể hiện trong các tác phẩm do các tu sĩ và học giả Phật học biên
soạn tạo thành một nền văn học phong phú mà còn thể hiện trong các sinh hoạt
hằng ngày, nhất là trong các công trình kiến trúc, điêu khắc trang trí. Các
nghệ nhân và các nhà kiến trúc Phật tử đã ghi khắc niềm tin của mình trong xây
dựng lăng mộ, chùa chiền, cung điện, trong việc chạm khắc bia tượng và trang
hoàng nhà cửa. Phật giáo thâm nhập vào quần chúng nhân dân Việt nam qua các
chuyện thần kỳ, ca dao tục ngữ, ca trù dân gian…. Truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Nhiều đại tác phẩm trong văn học Việt nam do các Nho gia viết như
Truyện Kiều ( Nguyễn Du), Cung oán ngâm khúc ( Nguyễn Gia Thiều), Bạch Vân Thi
( Nguyễn Bỉnh Khiêm).v.v… cũng chứa đựng tư tưởng Phật giáo. Có thể nói, văn
hoá Việt Nam thấm nhuần màu sắc Phật giáo.
II. Xã Hội Việt nam ngày nay và chức năng của tôn
giáo:
Khi đất nước được giải phóng vào năm 1975, chính
quyền và nhân dân Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn trong một giai đoạn
chuyển tiếp 15 năm do bởi những hậu quả của cuộc chiến tranh lâu dài vì độc lập
tự do và thống nhất đất nước và do những khác biệt giữa hai miền Nam Bắc Việt
Nam về cơ cấu chính trị, xã hội, kinh tế, và cả về lối sinh hoạt, suy nghĩ.
Nhưng rồi tình trạng này dần dần trở nên tốt đẹp hơn và đời sống xã hội ngày
càng được ổn định.
Chính sách mở cửa của nhà nước Việt Nam rõ ràng
đã giúp đất nước tiến tới một bước ngoặc trong sự phát triển kinh tế. Do vậy mà
phát sinh một sự thay đổi nhanh chóng trong nhiều lĩnh vực sinh hoạt xã hội, có
nguy cơ xói mòn nền tảng đạo đức của xã hội. Nhiều người, nhất là giới trẻ, đã
phải đối mặt với những nền văn hoá ngoại lai, những lối sống mới và cuối cùng
chấp nhận chúng mà không hề đắn đo cân nhắc. Một tầng lớp xã hội mới gồm những
người giàu, sản phẩm của kinh tế thị trường, của tham nhũng, bất chính đã khởi
sự hình thành. Trong khi đó, dù có những thành tựu đáng kể về phát triển kinh
tế, nghèo khổ, thậm chí đói khát và lạc hậu vẫn tồn tại ở một số vùng xa…
Hiện nay một số người bảo rằng do chính sách mở
cửa, xã hội Việt Nam bị ảnh hưởng bởi hệ thống kinh tế tư bản và những xu hướng
mới về chính trị, xã hội văn hoá, điều này đòi hỏi một sự thay đổi chế độ chính
trị. Tôi không phải là một nhà chính trị nhưng tôi nghĩ rằng Trung Quốc đã và
đang đạt được những kết quả rất tốt đẹp nhờ chính sách mở cửa từ hai thập niên
vừa qua mà chẳng cần có một thay đổi chế độ chính trị nào cả. Theo tôi, nhiệm
vụ trước mắt là phải thực hiện cho được một sự cân bằng giữa phát triển kinh tế
và phát triển đạo đức cho xã hội Việt Nam ngày nay.
Chính quyền không ngừng kêu gọi nhân dân gìn giữ
đạo đức, văn hóc truyền thống và tôn trọng tinh thần tuân thủ pháp luật, nhưng
số tội phạm vẫn gia tăng liên tục, gây nhiều rối ren cho xã hội.
Trước tình hình suy thoái đạo đức này, tôn giáo
phải tham gia chữa trị căn bệnh của xã hội bằng cách thiết lập một trật tự đạo
đức. Cả chính quyền lẫn tôn giáo đều hứa hẹn hạnh phúc cho nhân dân. Tuy nhiên,
lời hứa về hạnh phúc của tôn giáo thì hấp dẫn hơn vì người ta vẫn bảo rằng hạnh
phúc do tu tập thì tuyệt đối và vĩnh cửu. Chỉ có tôn giáo mới có thể thực sự
khắc sâu vào tâm thức người ta một niềm tin sâu sắc, mãnh liệt, một tin tưởng
vào sự tuyệt đối, vào năng lực tối thượng. Niềm tin tưởng này hành động, phán
đoán và chẳng dính dáng gì đến luật pháp và sự thưởng phạt của đời thường.
Tôn giáo và đạo đức sẽ có khả năng đương đầu với
sức mạnh kinh tế và chủ nghĩa tư bản hay không? Câu hỏi này đã được nêu ra ở
nhiều nước, đã phát triển hay đang phát triển, và câu trả lời là "Vâng, sẽ
có khả năng". Tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, câu hỏi này cũng được
các nhà tôn giáo, các nhà đạo đức đặt ra và những nỗ lực của tổ chức tôn giáo,
đạo đức đã tỏ ra có hiệu năng trong việc giảm thiểu những rối ren của xã hội.
Điều quan trọng là phải có một sự hợp tác chặt
chẽ giữa chính quyền và tôn giáo. Chính quyền phải ủng hộ tôn giáo trong những
hoạt động vì hạnh phúc của số đông và vì sự phát triển của tôn giáo.
III. Chức năng của Phật giáo tại Việt Nam ngày
nay:
Đất nước được giải phóng vào năm 1975, mở ra một
kỷ nguyên mới của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bối cảnh chính
trị này, một cuộc vận động được phát khởi nhằm thống nhất các tổ chức và các hệ
phái Phật giáo ở hai miền Nam và Bắc Việt Nam. Vào ngày 06 tháng 11 năm 1981,
một đại Hội được tổ chức tại Hà Nội với sự tham dự của 165 đại biểu, soạn thảo
một bản hiến chương, thoe đó Giáo Hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức duy nhất
đại diện cho toàn thể Tăng Ni và Phật tử tại Việt Nam. Đại hội cũng đưa ra một
chương trình hành động cho Giáo Hội Phật giáo Việt Nam, gồm các điểm sau:
1.
Thực hiện sự hợp tác hoà hợp dân tộc giữa các hệ phái
Phật giáo, giữa Tăng ni Phật tử ;
2.
Truyền bá Chánh pháp và nêu rõ tính tích cực của Phật
giáo;
3.
Thiết lập một hệ thống giáo dục cho Tăng Ni và một lối
sống đúng đắn cho các Phật tử;
4.
Tăng cường truyền thống yêu nước của Phật giáo Việt
Nam, mối liên hệ gắn bó của Phật giáo với nhân dân Việt Nam và sự đóng góp tích
cực của Phật giáo vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc;
5.
Ổn định kinh tế nhà chùa để cải thiện điều kiện sinh
hoạt của Tăng Ni và đóng góp tạo phồn vinh cho đất nước;
6.
Tăng cường mối liên hệ hữu nghị với Phật tử và các tổ
chức Phật giáo trên thế giới, tham gia xây dựng hoà bình và hạnh phúc cho nhân
loại.
Thật khó có thể miêu tả hết những thành tựu nhiều
mặt của giáo hội Phật giáo Việt nam suốt gần 20 năm qua kể từ ngày giáo hội được
thành lập. Ơ273;ây tôi chỉ có thể nêu ra một số nét. Hiện nay, Giáo
hội Phật giáo Việt Nam lãnh đạo và tổ chức tất cả các hoạt động Phật sự của
khoảng 30.000 Tăng Ni trong 15.000 tự Viện và 40 triệu Phật tử trong toàn nước.
Bên cạnh Giáo hội trung ương, có 44 tỉnh, thành hội Phật giáo. Hội đồng trị sự
giáo hội trung ương gồm 9 ban ngành viện chịu trách nhiệm về những mặt hoạt
động khác nhau: đó là các ban ngành Tăng sự, Giáo dục Tăng Ni, Hoằng Pháp, Văn
hoá, Nghi lễ, Hướng dẫn Phật tử, Kinh tế nhà chùa, Từ thiện xã hội, Phật giáo
quốc tế và Viện nghiên cứu Phật học Việt nam. Mỗi ban ngành đều có nhân sự và
trụ sở tại mỗi tỉnh thành. Ba học Viện Phật giáo Việt nam và 26 trường cơ Bản
Phật học cùng nhiều khoá chuyên môn ngắn hạn hay dài hạn, đang đảm nhiệm giáo
dục và đào tạo Tăng ni. Hơn 100 Tăng ni sinh tốt nghiệp đang du học tại các đại
học nổi tiếng ở nước ngoài. Viện nghiên cứu Phật học Việt nam đã tập hợp, dịch
thuật và xuất bản 27 tập kinh Palì, và Hán ngữ nhằm hình thành một bộ Đại Tạng
Kinh Việt nam cho Tăng Ni Phật tử và các nhà Phật học Việt nam. Trên toàn nước,
Giáo hội Phật giáo Việt nam đã xây dựng 25 bệnh viện miễn phí, 655 phòng phát
thuốc, 196 lớp học tình thương cho trẻ em đường phố, 116 nhà từ thiện. Số sách
báo Phật giáo đủ loại cứ tăng dần mỗi năm….
Nói chung, Phật giáo Việt nam đã đạt được những
thành quả quan trọng trong việc tham gia phát triển đất nước. Bây giờ tôi xin
trình bày vắn tắt một số đặc trưng của đạo đức học Phật giáo và một số nỗ lực
của giáo hội Phật giáo Việt nam nhằm phổ biến những đặc trưng ấy trong quần
chúng.
Theo đạo đức học Phật giáo, ba gố rễ tệ hại gây
đau khổ cho cuộc đời là tham, sân, và si. Bạo lực, chiến tranh, cạn kiệt tài
nguyên, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng và mọi xấu ác đều là những biểu hiện
của ba căn bản xấu xa ấy. Phật giáo giảng dạy và dẫn dắt người ta đến sự tiêu
trừ ba thứ độc dược ấy. Học thuyết về Nghiệp – Tái sinh, nhân quả… khẳng định
rằng người phải chịu trách nhiệm về những hành động của chính mình. Học thuyết
vô ngã khích lệ người ta quên mình và hành động vì lợi ích của số đông.
Phật giáo đặt ra cho các tín đồ 5 giới để sống
đời đạo đức. Đó là: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói xấu
và không dùng chất gây say. Nếu mọi người, Phật tử hay không phải Phật tử, tuân
theo năm giới này thì đạo đức cá nhân sẽ toàn thiện và cuộc đời sẽ trở nên an
lành hạnh phúc.
Các Phật tử đến chùa để lễ Phật, hành thiền hay
tham dự các khoá giáo lý. Thói quen này làm phong phú đời sống tâm linh của họ
và tạo sự tỉnh lặng, sáng suốt cho tâm họ. Ban hướng dẫn Phật tử là một bộ phận
nhằm truyền bá đạo đức Phật giáo. Ban đã thành lập nhiều đoàn Phật tử gồm thanh
niên, người lớn tuổi thâm nhập quần chúng làm công tác xã hội và kêu gọi mỗi
người giữ gìn nếp sống đạo đức. "Gia đình Phật tử" là một bộ phận
nhằm hướng dẫn và huấn luyện các thanh thiếu niên Phật tử. Đội ngũ này gồm
50.000 đoàn viên và 6000 huynh trưởng được chia thành từng nhóm gia đình sinh
hoạt tại nhiều chùa ở miền Trung và miền nam Việt nam. Ban hoằng pháp tuyển
chọn các Tăng ni nhiều khả năng để huấn luyện qua các khoá dài hạn và ngắn hạn
được tổ chức tại nhiều tỉnh thành. Đội ngũ giảng sư được chuyên môn hoá này dẩm
nhiệm công việc giảng dạy Phật pháp, truyền bá đạo đức Phật giáo và nêu ra cho
mọi người một lối sống tốt đẹp hơn.
IV. Kết luận:
Phật giáo là một tôn giáo của từ bi và trí tuệ.
Nguyên tắc căn bản của đạo đức học Phật giáo là mọi người cần phát triển lòng
từ bi. Về mặt đạo đức, trí tuệ thật sự chính là sự hiểu biết thực tiễn thể hiện
thái độ và hành vi trong đời sống xã hội. Phật giáo luôn có thái độ cởi mở đối
với các tôn giáo và các hệ ý thức. Phật giáo chấp nhận bất cứ hệ thống đạo đức,
triết học hay chính trị nào miễn là hệ thống ấy có thể giúp người ta đạt hạnh
phúc và hoàn thành cứu cánh.
Trong tinh thần hợp tác, đoàn kết và hoà hợp dân
tộc, tôi tin chắc rằng Phật giáo cũng như các tôn giáo khác tại Việt nam có thể
đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp nhà nước và nhân dân Việt nam ổn
định xã hội và phát triển đất nước.