I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN
KHÁCH QUAN
Điều kiện khách quan này tuy có nhiều nhưng tiêu
biểu nhất có lẽ gồm hai điểm chính:
1. Chính quyền tích cực ủng hộ
Đọc qua lịch sử đời Trần, tuy không có một văn
kiện nào công nhiên xác nhận Phật giáo là Quốc giáo, nhưng hình như mọi người
đều mặc nhiên thừa nhận đạo Phật là Quốc giáo. Bởi vì, các nhà lãnh đạo quốc
gia thời bấy giờ - giai đoạn đầu nhà Trần - vừa giữ vai trò một nhà lãnh đạo
quốc gia, vừa có tư thế của một lãnh tụ Phật giáo. Phần lớn họ là những bậc anh
hùng dân tộc, vừa có tài cai trị, vừa giỏi chiến lược, vừa có kiến thức quảng
bác, vừa ôm trong lòng tài kinh bang tế thế. Đồng thời họ cũng là những Phật tử
sùng đạo, không những sùng đạo mà còn đắc đạo. Họ vừa có tư cách của một Bồ-tát
tại gia, quên mình phụng sự chúng sanh, vừa có phong độ của một Thiền sư siêu
trần thoát tục. Không những họ là những nhà Phật học uyên thâm mà còn là những
nhà thực nghiệm sâu sắc; dầu sống trên vàng son nhung lụa, mà vẫn không bị
những phù hoa cám dỗ. Họ xem việc đời như việc đạo, việc nước chẳng khác việc
chùa. Thái Tông đã tính xuất gia năm 16 tuổi (1236), nhưng việc không thành ông
đành phải tiếp tục ngồi lại ngôi báu, Thánh Tông thì vừa ban yến vừa bàn đạo
Thiền. Ông rất khâm phục đạo học của Tuệ Trung, nên đã phong tặng danh hiệu Tuệ
Trung Thượng Sĩ, và gởi Nhân Tông theo Thượng Sĩ để tham học đạo Thiền. Nhân
Tông vốn là một người cực kỳ mộ đạo, năm 16 tuổi (1274) đã có ý định nhường
ngôi thái tử cho em, quyết chí đi tu. Nhưng đứng trước áp lực của phụ hoàng
Thánh Tông cùng hoàng tộc và triều đình, ông đành phải kế thừa ngôi báu, thực
thi hoàn hảo sứ mệnh của một đấng minh quân, đợi đến vãn niên mới thực hiện
hoài bão xuất gia một cách viên mãn. Kế tục sự nghiệp của vua cha, Anh Tông
cũng tỏ ra là một Phật tử thuần thành. Năm 1308, Điều Ngự (Nhân Tông) tổ chức
lễ truyền Tổ vị cho Pháp Loa tại chùa Siêu Loại, Anh Tông đã đem cả triều đình
tới đây dự lễ. Chính bản thân ông cũng được Điều Ngự truyền cho giới tại gia
Bồ-tát năm 1304. Ông hết sức sốt sắng ủng hộ Pháp Loa trong việc in ấn Đại Tạng
kinh, xem Pháp Loa như bậc Tôn sư chí kính. Lại có ý định sau khi nhường ngôi
sẽ xuất gia tu học. Nhưng không may là ông đã mất sớm nên không thực hiện được
chí nguyện ấy. Vua Minh Tông kế thừa rất xuất sắc truyền thống của cha ông. Năm
1326, vua đã thỉnh Pháp Loa vào chùa Tư Phúc trong đại nội để truyền phép Quán
đỉnh cho mình. Tháng 9 năm 1328, vua lại nhờ Pháp Loa soạn sách Nhân Vương Hộ
Quốc Nghi Quỹ để làm kỷ cương cho việc tu thân và trị quốc.
Như vậy, kể từ Thái Tông cho đến Minh Tông các vị
vua đều tận lực ủng hộ Phật giáo. Nếu bản thân vua đã sùng đạo và tích cực ủng
hộ Phật giáo thì chắc chắn triều đình, hoàng tộc và dân chúng sẽ noi gương ấy
mà tôn sùng đạo Phật. Tam Tổ Thực Lục nói rằng số ruộng đất mà các nhà hảo tâm
đã hiến cúng cho chùa Quỳnh Lâm thuộc Giáo hội Trúc Lâm lên đến nghìn mẫu. Do
đó phải cần đến hơn nghìn nông phu canh tác. Nhưng kể từ vua Hiến Tông trở về
sau, chính quyền không còn ủng hộ Phật giáo như xưa, lại thêm các nhà Nho vốn
có thành kiến với đạo Phật càng có cơ hội chỉ trích Phật giáo gắt gao; do đó
Phật giáo mất hẳn chỗ dựa, dần dần trở nên yếu thế ! Ôi ! "Vật cùng tắc
biến, thịnh cực tắc suy" là những quy luật đương nhiên của vũ trụ, chẳng
có gì đáng phải ngạc nhiên !
2. Đất nước đang đà cường thịnh
Nhờ có đủ tài đức mà các vị vua đã động viên được
sự đoàn kết ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân. Do đó đã lãnh đạo toàn dân kháng
chiến chống quân xâm lược đạt đến thành công rực rỡ. Lịch sử cho chúng ta thấy,
mỗi khi tổ quốc đứng trước những thử thách khắc nghiệt một mất một còn thì mọi
người cùng phải đoàn kết bên nhau để bảo vệ sự sống còn của bản thân mình và sự
tồn tại của quê hương xứ sở. Nhưng muốn thu phục được toàn dân thì các nhà lãnh
đạo phải có thực tài thực đức. Đó là những yếu tố rất tiên quyết mà các vị vua
đầu nhà Trần đều có đủ. Nhờ vậy mà họ đã thành công. Theo đà của những cuộc
chiến thắng, mọi người đều phấn khởi tinh thần, do đó, đất nước phát huy được
nhiều mặt tích cực, như nền kính tế mở mang, pháp luật nghiêm minh, chính trị
ổn định, võ bị vững chắc, ngoại giao thắng lợi, văn học khởi sắc, giáo dục được
củng cố v.v… Tất nhiên không loại trừ cơ hội thuận lợi nhất cho việc phát triển
tôn giáo, hoằng dương Chánh pháp. Các nhà lãnh đạo quốc gia lúc bấy giờ vốn là
những Phật tử thuần thành, thế nên, những chiến công chính nghĩa, vẻ vang của
họ cũng có thể mặc nhiên, xem như là những thắng lợi của Phật giáo. Trong một
hoàn cảnh mà đất nước đang trên đà cường thịnh, dân chúng an cư, lạc nghiệp,
mọi người có điều kiện phát huy tài năng về nghề nghiệp của mình để kiến tạo
một xã hội thanh bình, xây dựng tương lai tươi sáng, thì một tôn giáo mang bản
chất nhập thế hành động như đạo Phật, hẳn nhiên phải được phát triển rực rỡ.
II. NHỮNG ĐIỀU KIỆN
CHỦ QUAN
Gặp hoàn cảnh thuận lợi, được triều đình hỗ trợ,
đó là những nguyên nhân khách quan khiến cho Phật giáo có cơ hội thăng hoa.
Nhưng nguyên nhân chủ yếu làm cho đạo Phật phát triển mạnh mẽ vẫn là những tiềm
năng nội tại của Phật giáo.
1. Nhân tài xuất hiện đông đảo
Chúng ta có thể gọi một cách thi vị: Đời Trần là
thời kỳ trăm hoa đua nở, thiết tưởng cũng không ngoa. Trần Thái Tông là một cây
đuốc sáng, khai nguồn cho tinh hoa đạo Phật bừng cháy. Tuệ Trung Thượng Sĩ thì
phóng khoáng siêu việt, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm. Thánh
Tông tuy ngồi trên ngai vàng mà hành trạng chẳng khác một Thiền sư đắc đạo.
Nhân Tông được chư Phật bổ xứ để nâng Phật giáo Việt Nam lên ngang tầm lịch sử.
Pháp Loa thì cúc cung tận tụy với sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp cho đến hơi
thở cuối cùng. Huyền Quang vốn là một nhân tài lỗi lạc của đất nước, vừa chứng
tỏ là một thi sĩ tài hoa, đồng thời cũng là một Thiền sư có giới hạnh cao
nghiêm. Đó là những người vừa có địa vị cao quý, vừa có sự nghiệp hiển hách.
Ngoài ra còn có Thuần Nhất Pháp sư được Tuệ Trung Thượng Sĩ hết lời khen ngợi;
Trí Thông tự đốt bàn tay cúng dường nhân ngày Trúc Lâm xuất gia, mà vẻ mặt vẫn
thản nhiên; Bích Phong trưởng lão rất tinh thông yếu chỉ kinh Hoa Nghiêm. Lãm
Sơn Quốc sư được thi sĩ Phạm Nhân Khanh ca ngợi: "Buông mở Thiền phong cao
mấy độ; phát biểu thi danh sáng một miền". Để tiếp tay với các bậc danh
đức này còn có các Tăng sĩ ngoại quốc như Thiền sư Thiên Phong, Đức Thành, từng
hợp tác với Thái Tông để xiển dương Thiền học. Du-chi-bà-lam, một tu sĩ Lạt-ma
giáo Tây Tạng, đến nước ta vào thời Anh Tông, có pháp lực cao cường. Bồ-đề-thất-ly
dịch kinh Bạch Tán Cái Thần Chú dưới thời Minh Tông. Ở đây chỉ nhắc sơ vài
người được sách sử nói đến khá tường tận, nhưng còn biết bao người khác âm thầm
đóng góp tích cực phần mình để ngôi nhà Phật giáo được tồn tại.
2. Tinh thần nhập thế tích cực
Đức Phật dạy: "Phụng sự chúng sanh, tức cúng
dường chư Phật". Thể theo tinh thần ấy, Viên Chứng Quốc sư đã nhắn nhủ
Thái Tông: "Phàm làm vua phải lấy ý muốn của nhân dân làm ý muốn của
mình". Vâng lời thầy dạy, Thái Tông đã đem đạo vào đời, tích cực phục vụ nhân
dân cùng lúc với việc tham Thiền học đạo. Bởi ông biết rất rõ "Đạo bất
viễn nhân" (đạo không thể xa người), đạo phải được sống, được thể nghiệm
ngay trong lòng cuộc đời. Người Phật tử cần phải lấy chúng sanh làm đối tượng
để phụng sự. Vì quán triệt lẽ đó mà Thái Tông, Nhân Tông sẵn sàng quên mình để
lo cho dân, cho nước. Khi đất nước cần, các ngài có thể cầm gươm lên ngựa, đi
trước ba quân, xông pha giữa làn tên đạn, để cứu dân thoát ách ngoại xâm. Phật
giáo đời Trần quả thực xứng đáng đóng vai trò của một hệ tư tưởng chủ đạo tích
cực và năng động, đáp ứng những yêu cầu thực tế bức xúc của lịch sử, phù hợp
với truyền thống yêu nước, tạo nên một triều đại dân chủ nhất trong lịch sử của
nước ta.
3. Tinh thần thống nhất Phật giáo
Thiền sư Thường Chiếu thuộc dòng: Thiền Vô Ngôn
Thông, nhưng trụ trì ở chùa Lục Tổ - một ngôi chùa thuộc Thiền phái
Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Như vậy, chính bản thân ông đã thể hiện sự thống nhất các hệ
phái đời Lý, và cũng là gạch nối giữa Phật giáo đời Lý với Phật giáo đời Trần.
Kế thừa dòng pháp của ông là Thiền sư Hiện Quang, người có công lớn trong việc
khai sơn núi Yên Tử. Hiện Quang truyền pháp cho Đạo Viên - thầy của Trần Thái
Tông - tiếp tục truyền xuống đến Trúc Lâm (Trần Nhân Tông) thì phái Thiền Yên
Tử đã có quy mô trở thành một nền Phật giáo thống nhất. Đây là lần đầu tiên
trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Tăng
chúng trên toàn quốc được cấp Tăng tịch, mà Pháp Loa là người đầu tiên nhận
được Tăng tịch do vua Anh Tông cấp phát. Ông có trách nhiệm sắp xếp, tổ chức hệ
thống Giáo hội, và thiết lập sổ bộ Tăng, Ni cả nước. Số Tăng, Ni có sổ bộ chính
thức lúc bấy giờ là 15.000 người. Trung tâm Yên Tử trở thành một nơi tu học lý
tưởng cho những người đi tìm giải thoát. Thế nên trong nhân gian đã truyền tụng
câu ca dao:
"Dù ai quyết chí tu hành,
Có về Yên Tử mới đành lòng tu".
4. Tinh thần độc lập tự chủ
Đứng trước hào khí của những cuộc chiến thắng
quân xâm lược một cách vẻ vang, đất nước giữ vững nền độc lập chính trị, do đó
các nhà trí thức cũng muốn giành quyền độc lập về nhiều phương diện khác. Vì
vậy mà chữ Nôm đã xuất hiện. Tuy thứ chữ này đã manh nha từ trước, mà nổi bật
nhất là bài Văn tế cá sấu của Nguyễn Thuyên. Tiếp đến có Cư trần lạc đạo phú và
Đắc thú Lâm Tuyền thành đạo ca của Nhân Tông; Vịnh Vân Yên Tự phú của Huyền
Quang. Những bản văn này này nay may mắn vẫn còn. Ngoài ra, Nguyễn Sĩ Cố, Chu
Văn An, Mạc Đỉnh Chi… cũng đều có sáng tác văn Nôm. Đó là tinh thần độc lập về
phương diện văn hóa, còn về tôn giáo thì đạo Phật Việt Nam tuy có tiếp thu ảnh
hưởng của Phật giáo Ấn Độ và Trung Hoa, nhưng trải qua thời gian, các Thiền sư
đã khéo léo dung hợp những ảnh hưởng đó với truyền thống dân tộc để tạo một nền
Phật giáo thuần túy Việt Nam, mang bản sắc dân tộc. Ngoài ra còn một công trình
văn hóa đáng kể khác có tính độc lập, đó là việc in Đại Tạng kinh Việt Nam.
Công tác này được vua Anh Tông bảo trợ rất đắc lực, đồng thời với sự tiếp tay
tích cực của Tăng, Ni và các Phật tử nhiệt tình. Khi Đại Tạng kinh in xong,
Pháp Loa đã tổ chức lễ hội khánh thành rất trọng thể.
5. Tinh thần Thiền giáo nhất trí
Theo truyền thống, Thiền tông thường đặc biệt chú
trọng đến việc tọa Thiền và tham cứu thoại đầu, ít quan tâm đến việc học hỏi
kinh điển, thậm chí còn xem việc học kinh là một chướng ngại cho mục đích giác
ngộ. Khác hẳn với truyền thống đố, Phật giáo đời Trần lấy việc học hỏi kinh
điển, nghiên cứu các Ngữ Lục làm cơ sở. Điều Ngự thường giảng Truyền Đăng Lục,
Đại Tuệ Ngữ Lục cho Pháp Loa và các đệ tử khác. Đồng thời sai Huyền Quang soạn
các sách Chư Phẩm Kinh, Công Văn Tập và Thích Khoa Giáo, in ấn phổ biến rộng
rãi cho Tăng, Ni học tập. Pháp Loa chuyên giảng các bộ kinh Hoa Nghiêm, Viên
Giác và các bộ Ngữ Lục như Đại Tuệ Ngữ Lục, Tuyết Đậu Ngữ Lục, Truyền Đăng Lụ
v.v… một cách hết sức nhiệt tình. Ông còn nhờ Quốc sư Tông Cảnh và Quốc sư Bảo
Pác - sư huynh của ông - giảng Tứ Phần Luật cho Tăng chúng; mời Bích Phong
trưởng lão thay mình giảng kinh Hoa Nghiêm tại An Lạc Tàng Viện. Huyền Quang
thường xuyên mở các lớp giảng dạy kinh điển cho Tăng, Ni tại chùa Vân Yên trên
núi Yên Tử; Tăng, Ni theo học đông cả nghìn người. Nói chung, Thiền học đời
Trần đặt nền tảng trên kinh điển, Thiền và giáo không tách rời nhau, tu và học
luôn luôn đồng hành, Nhờ vậy mà có cái nhìn dung hợp, nhất quán, không xảy ra
tình trạng cực đoan đưa đến cố chấp mâu thuẫn giữa Thiền và giáo. Điều đặc biệt
hơn nữa là thi ca thời bấy giờ chịu ảnh hưởng của Thiền học khá sâu đậml các
thi sĩ có cái nhìn đối với sự vật sâu lắng và quán triệt. Họ không theo chủ
trương "bất lập văn tự" mà dùng thi ca để phô diễn những ý nghĩa thâm
diệu của Thiền tông.
6. Tinh thần vô ngã vị tha
Thái Tông trốn triều đình đi tu, nhưng không
thành, trước lúc trở lại triều đình, Trúc Lâm Quốc sư cầm tay ông dặn dò:
"Phàm là vua phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình, phải lấy tấm
lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình. Nay thiên hạ muốn bệ hạ trở về mà bệ
hạ không về sao được !". Thái Tông đã xem huấn thị ấy như kim chỉ nam, lấy
đó làm phương châm hành động, nên bất cứ làm việc gì ông cũng đặt quyền lợi
quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi cá nhân. Ông đã cho mở khoa thi Tam giáo để
chọn nhân tài phục vụ đất nước. Dù bản thân là một Phật tử, nhưng ông không có
đầu óc kỳ thị tôn giáo, mà ngược lại còn cho lập trường quốc học để dạy chữ No,
tạc tượng Chu Công, Khổng Tử để phụng thờ. Nhờ vậy mới thu hút được sự đoàn kết
nhất trí của toàn dân. Sự nhất trí ấy đã biểu lộ rõ rệt nhất qua hai hội nghị
Bình Than và Diên Hồng. Với chủ trương Tam giáo đồng nguyên, các vua Trần đã
biết kết hợp Nho, Phật, Lão thành một tôn giáo Việt Nam, mang tinh thần hòa
đồng, hiện rõ bản sắc dân tộc, có tích cách sinh động, hòa hợp giữa đạo và đời.
Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông đối xử với triều đình, hoàng tộc và nhân dân
bao giờ cũng thể hiện tấm lòng nhân ái, vị tha, quên mình vì người. Đó là do
ảnh hưởng của đạo Phật mà các vua Trần đã thực thi những chánh sách bình đẳng,
dân chủ và thân dân như vậy. Lê Quý Đôn đã viết trong Kiến Văn Tiểu Lục:
"Nhà Trần đãi kẻ sĩ một cách khoan dung, không hẹp hòi, hòa ái mà có lễ
phép, cho nên nhân sĩ thời ấy ai cũng biết tự lập, anh hào tuấn kiệt vượt ra
ngoài lưu tục, làm cho quang vinh cả sử sách, không thẹn với trời đất, đời sau
há có thể theo kịp được đâu !".
7. Tinh thần viên dung nhất quán
Thế giới chúng ta đang sống luôn xảy ra những
xung đột bất tận là do con người nhận thức sự vật một cách phiến diện và cục
bộ. Vì thế Bertrand Russell đã nhận xét: "Nhân loại vĩnh viễn mắc vào ba
vấn đề cơ bản: 1. Xung đột với thiên nhiên. 2. Xung đột với tha nhân. 3. Xung
đột với chính mình. Tổng hợp vĩ đại hiện nay mà thế giới đang đòi hỏi là tổng
hợp của con người khoa học thiên nhiên Âu Tây với con người tâm linh Ấn Độ và
con người xã hội Trung Hoa". Như vậy rõ ràng giải pháp cho những vấn đề
xung đột của thế giới là phải có cái nhìn tổng hợp và toàn diện. Cái nhìn này
vốn là một đặc trưng của tư tưởng Đông phương và nhất là Phật giáo. Đức Phật
từng tuyên bố: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tính". Tất cả chúng
sinh hữu tình có Phật tính đã đành mà đi xa hơn nữa Phật giáo còn cho rằng tất
cả những cành cây, ngọn cỏ, các loại vô tình chúng sinh - cũng đều có tính
Phật. Bằng cái nhìn phóng khoáng, viên dung như vậy, đạo Phật san bằng mọi bức
tường ngăn cách giữa con người với con người, và giữa con người với thế giới
ngoại tại. Vượt lên trên cái thấy phân biệt thiện ác, tốt xấu, Thái Tông có cái
nhìn rất thoáng: "Trong hang quỷ vẫn là lâu đài Di-lặc; dưới hắc sơn chẳng
khác cảnh giới Phổ Hiền". Tuệ Trung quán triết lý sắc không và mê ngộ một
cách viên dung: "Khi mê thấy không, sắc; lúc ngộ hết sắc, không. Sắc,
không và mê, ngộ xưa nay một lẽ đồng". Huyền Quang thì bảo:
"Người
ở trên lầu, hoa dưới sân,
Vô
ưu ngồi ngắm khói trầm xông.
Hồn
nhiên người với hoa vô biệt,
Một
đóa hoa vàng chợt nở tung".
Ông đã cảm nhận được từng hơi thở của từng đóa
hoa, hoa với ông như quyện lẫn vào nhau, không còn cách biệt. Sự liên quan mật
thiết giữa con người với thiên nhiên tương tự như vậy cũng được thi hào Nguyễn
Du diễn tả rất tinh tế:
"Cảnh
nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ !"
Đó là cái nhìn sự vật một cách chuẩn xác, khách
quan, như cái gương phản chiếu mọi hiện tượng. Phật giáo đời Trần quả có cái
nhìn thoáng và bao quát như thế nên ít có sự xung đột giữa con người và thiên
nhiên, giữa con người với con người. Đạo Phật lúc nào cũng bao dung, thông cảm,
không đối kháng với bất cứ ai, mà luôn chủ trương chung sống hòa bình, nhờ vậy
đã tập hợp được một lực lượng tinh thần khá lớn, góp phần vào những thắng lợi
vẻ vang của dân tộc.
8. Tinh thần thâu hóa sáng tạo
Phật giáo đời Trần là một nền Phật giáo hợp sáng.
Các đệ tử ưu tú của đức Phật đã biết rút tỉa tinh hoa của Phật giáo Ấn Độ và
Trung Hoa kết tinh thành một nền Phật giáo độc đáo, mang nhiều cá tính của dân
tộc Việt Nam. Các nhà kiến trúc thiện nghệ đã để lại một số công trình kiến
trúc đặc biệt như tháp Chương Sơn, chùa Đọi, chùa Phổ Minh, Non Nước v.v… Chùa
tháp đã hòa vào cảnh trời mây non nước làm tôn thêm vẻ đẹp của thiên nhiên, và
làm tăng thêm tính chất hùng tráng, thiêng liêng của tôn giáo. Những người ngắm
cảnh khi chiêm ngưỡng những kiến trúc ấy dễ phát sinh ấn tượng như đang thức
tỉnh hồn mê, xóa tan niềm tục. Những ai có lòng thiện, đứng trước tượng Phật uy
nghiêm, ngọn tháp cao vút, cảm thấy như mình được che chở, tâm hồn lâng lân
thanh thoát. Trái lại, những người chưa làm tròn điều thiện, khi đứng trước
tượng Phật từ bi hay ngọn tháp trang nghiêm sẽ cảm thấy lòng mình xao xuyến, và
những hình ảnh kia như một lời cảnh tỉnh để mình quay về đường lành, lánh xa
điều ác.
Đó là đôi nét sáng tạo tài tình của những công
trình kiến trúc Phật giáo đời Trần. Ngoài ra các pháp môn tu Thiền, Tịnh độ,
v.v… cũng có nhiều sắc thái riêng biệt. Thái Tông soạn ra nghi thức sám hối sáu
thời trong một ngày, rất khác xa với cách thức sám hối của Lương Hoàng Sám và
Từ Bi Thủy Sám. Nghi thức sám hối này văn chương hoa mỹ mà lại thực tiễn, rất
thích hợp với tinh thần Việt Nam, với những người nhiệt tâm tu tập. Pháp môn
Tịnh độ cũng được trình bày mới mẻ và thực tiễn không kém: Tịnh độ là lòng
trong sạch, đâu còn ngờ hỏi đến Tây phương; Di-đà là tính sáng soi, mựa phải
nhọc tìm về Cực lạc" (Nhân Tông). Đã đành ý nghĩa "Tự tánh Di-đà, duy
tâm Tịnh độ" đã có từ trước, nhưng cái kỳ diệu là các Ngài đã biết
"ăn dâu xanh nhả ra tơ vàng", thâu thái tài tình những tinh hoa của
người trước, sắp xếp và trình bày lại mạch lạc, thực tế, dễ hiểu, phù hợp với
dân tộc tính. Chẳng hạn Trần Thái Tông đã nói một cách thi vị: "Vắt đất
cục thành vàng ròng cho quốc gia; khuấy sông dài thành sữa ngọt đãi Trời,
Người". Đó là nét đặc trưng của Phật giáo đời Trần.
9. Tinh thần tự tín tự cường
Muốn cải tạo xã hội, trước hết phải chuyển hóa
con người, chuyển vọng thành chân, chuyển mê thành ngộ. Mà muốn thay đổi con
người phải tin rằng mỗi con người đều có Phật tính siêu việt. Đó là lời ân cần
nhắc nhở của Viên Chứng Quốc sư với Thái Tông: "Trong núi vốn không có
Phật, Phật ở ngay trong tâm ta". Tự tin mình có Phật tính đồng nghĩa với
tự tin mình có chân lý, có một sức mạnh vạn năng. Đấy là yếu tố quyết định
chiến thắng quân Nguyên xâm lược, mà sức mạnh ấy vốn là sức mạnh của tinh thần
Phật giáo. Tất nhiên, sức mạnh ấy phải đi đôi với tinh thần truyền thống dân
tộc, đồng thời với một nền kinh tế phồn vinh và quốc phòng vững chắc. Phật giáo
đã tỏ ra đáp ứng tích cực những đòi hỏi bức xúc của dân tộc trong thế kỷ 13,
thế kỷ xây dựng và bảo vệ đất nước. Có thể nói, xã hội lúc bấy giờ rất ít những
dấu ấn tiêu cực và lạc hậu. Đạo Phật đã hòa mình vào dòng sống dân tộc, tạo ra
sức mạnh tinh thần, đưa đất nước đến nhiều thắng lợi, nâng thời đại mình lên
ngang tầm với lịch sử. Điều quan trọng là không những chiến thắng đối phương mà
còn tự chiến thắng chính mình, như Nhân Tông nói: "Buông lửa giác ngộ đốt
hoại thảy rừng tà ngày trước, cầm kiếm trí tuệ quét cho xong tánh thức thuở
nay". Chinh phục được tha nhân chứng tỏ mình có một sức mạnh hơn người,
nhưng nếu tự chinh phục được mình, đó mới đích thực là một sức mạnh phi thường.
Tóm lại, Phật giáo đời Trần phát triển rực rỡ là
nhờ chính quyền tận lực ủng hộ và gặp hoàn cảnh đất nước đang có nhiều chiều
hướng thuận lợi. Đó là những yếu tố khách quan. Còn về mặt chủ quan, lúc bấy
giờ có nhiều nhân tài Phật giáo xuất hiện, biết vận dụng tinh thần độc lập tự
cường, vô ngã vị tha và nhập thế tích cực của đạo Phật để tập họp các lực
lượng, thống nhất các hệ phái bằng một tinh thần bao dung, độ lượng. Các bậc
cao Tăng và những Phật tử ưu tú còn biết thâu thái những tinh hoa của kinh điển
và những kinh nghiệm của lân bang, kết tinh thần một thời kỳ Phật giáo vẻ vang
nhất trong lịch sử nước ta.
Nêu lên những nét đặc trưng của Phật giáo đời Trần
như thế, chúng ta không chỉ nhằm ca ngợi suông những thành tích quá khứ của cha
ông, mà phải biết rút ra từ đó những bài học quý giá, áp dụng sinh động vào
hoàn cảnh thực tế, hầu đáp ứng những nhu cầu bức xúc của thời đại chúng ta, để
nâng vai trò Phật giáo lên ngang tầm thời đại. Làm được như vậy thì sự nghiệp
và hình ảnh của ông cha ta sẽ còn sống mãi mãi với thời gian.