Như một dòng chảy liên tục trong dòng
chảy lớn của lịch sử dân tộc, kể từ khi được các tăng sĩ Ấn Độ du nhập vào đất
Việt từ thời Hùng Vương, Phật giáo đã hội nhập vào dòng sinh mệnh của đất nước
và đóng góp những nỗ lực làm thăng hoa nếp sống chung của dân tộc. Trên đất
nước lớn lên từ huyền thoại Tiên Rồng, Phật giáo Việt Nam trong suốt chiều dài
lịch sử của nó đã trở thành một lối sống gắn liền với dòng sống của dân tộc. Nó
không nổi trôi một cách thụ động theo sự thăng trầm của mệnh nước, mà luôn luôn
tích cực góp phần vào những nỗ lực chung nhằm chận đứng sự bập bềnh này, tạo ổn
định và an lạc cho đất nước.
Tinh thần Bồ tát nêu trong Lục Độ Tập Kinh “Bồ tát thấy
dân kêu ca, do vậy gạt lệ xông vào nơi hà khắc cứu dân khỏi lầm than ” (a)
đã được giới xuất gia của dân Việt thực hành ngay từ thời Hai Bà Trưng khởi
nghĩa chống lại chế độ cai trị hà khắc của Thái thú Tô Định (năm 39). Kể từ đó,
xuyên suốt trong mọi thời nhân dân lầm than vì các chế độ cai trị hà khắc như
thời nhà Hán, nhà Đông Ngô, nhà Đường, nhà Minh, thời Pháp đô hộ … luôn luôn có
sự tham dự dưới nhiều hình thức sinh động khác nhau của giới tăng sĩ hoà duyên
cùng Phật tử và đồng bào các giới dấn mình vào công cuộc vận động dành độc lập
tự chủ và dân chủ tự do cho dân tộc.
Phật giáo Việt Nam do đó từ căn bản không phải là tiêu cực
yếm thế, mà là Phật giáo tích cực dấn thân, nhập thế để chuyển thế. Cho
nên không có gì ngạc nhiên khi các hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ kiên trì
trước mọi áp bức để tranh đấu bất bạo động cho tự do tôn giáo và hạnh phúc của
nhân dân Việt Nam. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi các bậc tôn túc này
được nhiều nhân sĩ trên thế giới cảm phục về nỗ lực tranh đấu bất bạo đông cho
nhân quyền và đề nghị làm ứng viên giải Nobel Hoà Bình ( HT Huyền Quang năm
1981, HT Quảng Độ năm 2000 và 2001).
KHỞI
NGUYÊN PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Xác định khởi nguyên của dòng chảy Phật giáo Việt Nam là vấn
đề có thể còn gây tranh luận. Tuy nhiên người ta không thể căn cứ vào danh hiệu
“Nam Bang Học Tổ” mà chúa Trịnh Tạc (1657-1682) và Trịnh Sâm (1767-1782) sắc
phong cho thái thú Sĩ Nhiếp (b), hoặc các sự kiện như tăng ni nước ta
hiện nay tự coi là truyền thừa của dòng Lâm Tế (c), cộng với sự hiện
diện của Bồ Đề Đạt Ma trên bàn thờ Tổ ở nhiều chùa Bắc tông và nghi thức tụng
niệm mang nhiều âm hưởng Hoa văn để rồi kết luận vội vã là Phật giáo nước ta
khởi nguyên từ Trung Quốc.
Có một số sự kiện lịch sử đủ để xác định kết luận trên là
vội vã. Xin nêu lên 3 sự kiện tiêu biểu:
1- Năm 67 Hán Minh Đế cử một phái đoàn 18 người qua nước Đại
Nhục Chi rước tượng Phật về thờ và các vị tăng Ma Đằng Ca Diếp, Trúc Pháp Lan
qua kinh đô Lạc Dương. Ngôi chùa đầu tiên của Trung Quốc là chùa Bạch Mã xây
năm 68 tại kinh đô Lạc Dương làm chỗ thờ tượng Phật, chỗ trú của các vị tăng và
nơi chứa kinh do ngựa trắng chở tới. Theo lời sớ của Vương Độ đời Tấn ghi lại
trong Cao Tăng Truyện: từ khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, người Hán không
được phép xuất gia; nhà Ngụy (220-264) theo pháp chế của nhà Hán cũng chưa cho
dân bản xứ xuất gia (dẫn theo Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập 1,
trang 23).
Tại nước ta, sư cô Thiều Hoa (3-40) xuất gia từ năm 16 tuổi
tại chùa Phúc Khánh (nay là chùa làng Hiền Quan, tỉnh Phú Thọ). Các sư cô
Phương Dung, Thục Nương và nàng Sa (Chiêu Tâm Phúc Từ, tịch năm 40), nàng Quốc
đều xuất gia từ lâu trước khi rời chùa dẫn dân quân tham gia cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà Trưng vào năm 39. Trong lịch sử Phật giáo các nước, tăng đoàn luôn
luôn xuất hiện trước ni đoàn, chưa thấy có trường hợp ngoại lệ. Cho nên có thể
giả thiết tăng đoàn nước ta đã xuất hiện từ trước thời Trưng Vương. Tới ba thế
kỷ sau, tăng đoàn Trung Quốc mới được thành lập mà trụ cột tiên khởi là Thích
Đạo An (312-385).
2- Khi cử đại binh xâm lăng nước ta thời nhà Hồ, vua Minh
Thành Tổ ban hành hai chỉ dụ vào tháng 4.1406 tiếp theo là chỉ dụ năm 1407 ra
lệnh cho quân binh Trung quốc tịch thu đem về nước (và phá hủy tất cả những gì
không thể mang đi được) toàn bộ thư bản văn tự từ sách vở cho tới văn bia. Năm
1418, vua Minh sai hai nho gia là Hạ Thanh và Hạ Thi sang nước ta chỉ đạo việc
hủy diệt cho bằng hết các di sản văn hoá Đại Việt còn bị quân tướng nhà Minh bỏ
sót lại. Tiếp đó, nhà Minh lập Tăng Cương Ty lo việc đồng hoá Phật giáo nước ta
theo mẫu mực Trung quốc. Sự kiện có tính đàn áp và áp đặt thô bạo đó chứng tỏ ảnh
hưởng của di sản Phật giáo Trung quốc đối với Phật giáo Việt Nam trước thời
Minh thuộc rất mờ nhạt.
3- Năm 402 sư Huệ Viễn (334-416) sáng lập Bạch Liên xã,
cơ sở Tịnh Độ tông đầu tiên ở Trung Quốc. Năm 425 sư Đàm Hoằng từ miền
Bắc Trung Quốc tìm tới chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh) tu học pháp môn Tịnh Độ và
chuyên trì tụng kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và Thập Lục Quán. Để danh
tiếng có thể lan tới tận miền Bắc Trung Quốc, trào lưu Tịnh Độ tại nước ta đã
phải hình thành và phát triển từ nhiều thập kỷ trước, nghĩa là trước khi pháp
môn này hình thành ở Trung Quốc.
4- Một báo cáo của Lưu An (chết năm 122 TTL) được ghi lại trong
Tiền Hán Thư: Từ thời Tam Đại bên Tầu (gồm nhà Hạ 2140- 1711 TTL, nhà
Thương hay nhà Ân 1711- 1066 TTL và nhà Chu 1066- 256 TTL) dân Việt đã không
chịu dùng lịch pháp Trung Quốc. Lê Mạnh Thát (sđd tr. 64) và Nhất Hạnh (Nguyễn
Lang, sđd tr. 41) đều cho rằng khi đó dân ta dùng lịch pháp Ấn Độ (một năm có 4
mùa, 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày).
Nguồn gốc Ấn Độ của khởi nguyên Phật giáo Việt Nam sẽ được trình bày chi
tiết hơn trong một bài khác.
PHÂN
KỲ LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Sử gia Phật giáo Lê Mạnh Thát (TT Thích Trí Siêu) trong bộ
Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam đã phân chia lịch sử Phật giáo nước ta thành 5 thời
kỳ :
1- Thời kỳ Phật Giáo Quyền Năng (từ khởi nguyên tới năm 544), tác động chính là cuộc khởi
nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 39- 43). Ở thời kỳ này, đức Phật được quan niệm như
một đấng toàn năng với nhiều quyền phép thần bí.
2- Thời kỳ Phật Giáo Vận Động Độc Lập (từ năm 544 tới 1069), tác động chính là việc Lý Bôn khởi
nghĩa thành công và xưng đế năm 544. Các nhà sư dùng ảnh hưởng và khả năng của
mình góp phần vào các nỗ lực vận động độc lập dân tộc.
3- Thời kỳ Phật Giáo Thế Sự
(từ năm 1069- 1306), tác động bởi việc vua Lý Thánh Tông sát nhập ba châu Địa
Lý, Ma Linh và Bố Chính vào lãnh thổ Đại Việt năm 1069. Phật giáo góp phần chủ
động vào nỗ lực bảo vệ và phát triển đất nước. Các thiền sư dù không mặc áo thế
quyền vẫn có những tham dự quan trọng vào các quyết định trị nước.
4- Thời kỳ Phật Giáo Cư Trần Lạc Đạo (từ năm 1306- 1698), tác động bởi việc vua Trần Nhân Tông
sát nhập hai châu Ô, Lý vào nước ta năm 1306.
5- Thời kỳ Phật Giáo Quần Chúng (từ 1698), tác động bởi việc chúa Nguyễn Phúc Chu sai tướng
Nguyễn Hữu Cảnh vào thiết lập chính quyền tại Gia Định năm 1698.
Lê Mạnh Thát cho rằng năm biến động lớn nói trên
của lịch sử dân tộc đã tạo nên những thay đổi cơ bản trong bản thân Phật giáo
để đáp ứng được yêu cầu của lịch sử trong từng giai đoạn liên hệ. Theo ông, mỗi
thời kỳ có một nét đặc trưng nổi bật của nó, mà ngay cả sự thay đổi của các
triều đại và sự tồn tại của các dòng Thiền khác nhau không có một ảnh hưởng to
lớn nào. Khi phân kỳ lịch sử Phật giáo Việt Nam như vậy, ông chú trọng đến quá
trình phát triển của dân tộc, đặc biệt là cuộc Nam tiến.
Cách phân kỳ trên là quan niệm riêng của Lê Mạnh Thát. Sự
xác định đặc tính riêng của mỗi thời kỳ nói trên có những điểm cần được xét
lại. Chẳng hạn quan niệm coi Phật như một đấng toàn năng với nhiều quyền phép
huyền bí không phải chỉ có trên đất nước ta và cũng không phải chỉ có vào thời
kỳ khởi nguyên. Theo Will Durant (Lich Sử Văn Minh Ấn Độ, bản dịch của Nguyễn
Hiến Lê, trang 129, Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ không ghi năm): vào khoảng cuối
đời của Thích Ca, tín đồ bắt đầu tôn sùng ngài là thần. Ngày nay ở trong nước
cũng như hải ngoại, màu sắc thần thánh của Phật cũng còn hiện diện tại không ít
chùa Đại thừa. Thế nhưng chúng ta phải chú ý đến một sự kiện đôc đáo khi Hai Bà
Trưng phất cờ tổng khởi nghĩa vào năm 39, các sư cô Thiều Hoa, Phương Dung,
Thục Nương và nàng Quốc rời chùa mộ quân và tham gia cuộc kháng chiến như các
tướng lãnh quan trọng. Chắc chắn các sư cô không quan niệm Phật như một vị thần
để cầu đảo mà đã nhân danh Phật giáo tham gia tích cực vào nỗ lực vận động dành
độc lập cho dân tộc trong cuộc khởi nghĩa đầu tiên của lịch sử Việt. Như vậy
không phải đợi tới cuộc khởi nghĩa của Lý Bí (Lý Bôn) thành công vào năm 544,
Phật Giáo nước ta mới tham gia vào nỗ lực vận động độc lập dân tộc như Lê Mạnh
Thát quan niệm.
Với định chế chùa làng đã xuất hiện, với sự tập hợp thành
đội ngũ khá mau lẹ của dân quân đáp ứng lời kêu gọi của các sư cô Thiều Hoa (3-
40), Phương Dung, Thục Nương và nàng Quốc tham gia khởi nghĩa chống lại chế độ
bạo ngược của Tô Định, có thể nói là tính quần chúng của Phật giáo đã phải có
ngay từ trước thời Hai Bà Trưng (d). Ở Trung Hoa, chùa vua (chùa Bạch Mã
do Hán Minh Đế dựng năm 68) là định chế Phật giáo đầu tiên.
Mặt khác thời kỳ 1306- 1698 là thời kỳ đầy chiến tranh,
nhiễu nhương và khổ lụy của dân tộc, khó mà nghĩ rằng Phật giáo Việt Nam
có thể “cư trần lạc đạo” trong tình huống như vậy. Nạn đói trầm trọng xảy ra
vào các năm 1321, 1344, 1357, 1392 dưới thời các vua cuối nhà Trần. Thêm vào
đó, loạn lạc liên miên do các cuộc khởi loạn của nông dân như Ngô Bệ ở Hải
Dương (kéo dài từ 1344 tới 1360), Trần Tề ở Bắc Giang (1354), Nguyễn Bổ ở
Lạng Giang (1379), Nguyễn Thanh và Nguyễn Kỵ ở Thanh Hoá (1389) và sư
Phạm Sư Ôn ở Sơn Tây.(1389).
Ngoài ra từ năm 1361 quân Chiêm Thành dưới sự lãnh đạo của
Chế Bồng Nga liên tiếp tấn công nước ta. Năm 1371 và 1378, Chế Bồng Nga đã vào
tận Thăng Long đốt phá và bắt dân mang đi. Chưa hết, kể từ năm 1387 khi Hồ Quý
Ly được tham dự vào những quyết định quan trọng của triều đình nhà Trần thì
Thiền phái Trúc Lâm (do vua Trần Nhân Tông sáng lập) khó mà được họ Hồ để yên
cho “cư trần lạc đạo”. Nhất là sau khi xảy ra vụ Hội Thề Lũng Sơn (Kỷ Mão 1399)
do Thượng tướng Trần Khát Chân triệu tập để diệt Hồ Quý Ly, âm mưu bị bại lộ,
370 tôn thất nhà Trần và các tùy tướng bị họ Hồ giết tại chân núi Đốn Sơn ,
Thanh Hoá.
Tiếp theo, vào giai đoạn 1407- 1428 dưới ách đô hộ của nhà
Minh, vua Minh Thành Tổ ban chỉ dụ cho tướng Chu Năng (tháng 4.1406) phải phá
hủy tất cả các sách vở bia ký tại những vùng đã chiếm đóng không được bỏ sót
một chữ, một mảnh nào. Lệnh này được Minh Thành Tổ nhắc lại một cách nghiêm
ngặt hơn vào đầu năm 1407 (Nguyễn Huệ Chi phát hiện ra những chỉ dụ này và công
bố trong Thơ Văn Lý Trần tập 1, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội
1977). Năm 1418 nhà Minh sai hai nho gia Hạ Thanh và Hạ Thi sang
nước ta đặc trách việc tiêu hủy hết các di sản văn hoá Đại Viêt mà bọn quan
quân Minh trước đây còn để sót lại. Sau đó, nhà Minh cho lập Tăng Cương Ty để
đồng hoá Phật giáo nước ta theo khuôn mẫu Trung Quốc.
Ngay cả sau khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh, lập ra nhà Hậu
Lê, Phật giáo nước ta cũng chưa thể coi là đã có đủ duyên để “cư trần lạc đạo”.
Cái chết của quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn (tháng 2.1429), cái án tru di tam tộc
đặt lên dòng họ Nguyễn Trãi năm 1442 có nghĩa là các vua đầu nhà Hậu Lê và
những cận thần của họ không ưa gì hậu duệ của nhà Trần. Và dòng Thiền Trúc Lâm
dưới mắt họ chỉ là cánh tay nối dài của họ Trần. Cho nên ngay sau khi lên ngôi,
tháng 10 năm Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ ra lệnh cho tất cả tăng sĩ Phật giáo
và đạo sĩ Lão giáo phải trình diện khảo thí. Ai không thi đậu bị bắt buộc phải
hoàn tục. Tình trạng không thuận lợi cho Phật giáo kéo dài cho tới hơn 60 năm
sau. Lương Thế Vinh, đỗ trạng nguyên khoa 1463, có chân trong hội Tao Đàn do
vua Lê Thánh Tông sáng lập mà vẫn không được ghi tên trên văn miếu vì tội
là nhà nho mà “sáng tác kinh Phật” (e). Vị vua đầu
tiên của triều Hậu Lê hướng về đạo Phật là Lê Hiến Tông (1497- 1504). Nhưng sau
thời đại ngắn ngủi của ông, nhà Hậu Lê bắt đầu suy thoái.
Từ năm 1532 ở Đàng Ngoài chiến tranh giữa nhà Mạc và vua Lê
do Nguyễn Kim rồi Trịnh Kiểm và hậu duệ của ông phò tá kéo dài cho tới năm 1667
mới chấm dứt sau khi tướng Trịnh là Đinh Văn Tả đánh chiếm được Cao Bằng. Mặt
khác trong khoảng 45 năm từ 1627 tới 1672, chúa Trịnh kéo đại quân vào Đàng
Trong tấn công chúa Nguyễn 7 lần.
Nếu Phật giáo nước ta có được “cư trần lạc đạo” trong thời
kỳ 1306-1698 thì đó chỉ là hai giai đoạn ngắn ngủi:
-1306-1330, thời kỳ rực rỡ nhất của thiền phái Trúc Lâm do
Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông sáng lập (và 3 vị tổ Điều Ngự GiácHoàng, Pháp
Loa và Huyền Quang lãnh đạo).
-1527-1540 khi đất nước còn dưới sự lãnh đạo của Mạc
Đăng Dung với tư cách vua hoặc Thái thượng hoàng (1530-1541), dân chúng an lạc,
Tam giáo (Phật-Lão-Nho) hoà đồng, hoàng tộc nhà Mạc tích cực hỗ trợ các hoạt
động tôn giáo.
Dưới thời chúa Nguyễn và các vua đầu triều Nguyễn, với định
chế chùa chúa, chùa vua xuất hiện, giới tăng lữ chịu sự chi phối khá chặt chẽ
của nhà cầm quyền. Đặc biệt là vị trụ trì các chùa lớn (Tăng cang) đều do triều
đình bổ nhiệm qua sắc chỉ của vua. Tính cách quần chúng của Phật giáo nước ta
do đó chưa có gì rõ rệt trong suốt thế kỷ 18.
Có lẽ phải đợi tới năm 1849, khi Phật Thầy Tây An (Đoàn Văn
Huyên) khai sáng giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương tại Long Xuyên, quần chúng mới thực
sự là đối tượng chính của việc truyền bá Phật pháp. Rõ rệt hơn vào đầu thập
niên 1920, khi phong trào chấn hưng Phật giáo khởi động, giới cư sĩ bắt đầu góp
phần tích cực vào việc hộ pháp và hoằng pháp, tương quan giữa quần chúng và
Phật giáo mới trở thành trong sáng, lành mạnh, tích cực.
Vì những biến cố khơi mở mỗi thời kỳ của Phật giáo theo cách
phân kỳ của Lê Mạnh Thát đều là những quyết định của nhà cầm quyền, cho nên
trình bày lịch sử Phật giáo Việt Nam theo diễn biến của các triều đại có lẽ là
điều hợp lý hơn. Đây cũng là cách phân kỳ của hầu hết các cuốn sử Phật giáo
Việt Nam bằng quốc ngữ, khởi đầu từ cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của Thích
Mật Thể ( nxb Tân Việt, Hà Nội 1943). Tuy nhiên trong giai đoạn đầu của lịch sử
Phật giáo Việt Nam trước khi đất nước có các triều đại với chính quyền ổn định,
chúng tôi đề nghị phân giai đoạn này làm hai thời kỳ:
1- Thời Kỳ Khởi Nguyên:
từ lúc đạo Phật bắt đầu được các tăng sĩ Ấn Độ du nhập vào nước ta khoảng thế
kỷ II TTL cho tới thời đại Trưng Vương. Biến cố năm 43 (tướng nhà Hán là Mã
Viện tiêu diệt được chính quyền Trưng Vương) có một ý nghĩa lịch sử đặc biệt.
Cuộc khởi nghĩa Trưng Vương do giới quý tộc thời đại Hùng Vương lãnh đạo(Lạc
hầu, Lạc tướng mà biểu trưng oai quyền là trống đồng) với sự tham dự của hàng
trăm hào kiệt Việt tộc, trong đó có ít nhất là 4 ni cô (Thiều Hoa, Phương Dung,
Thục Nương và nàng Quốc). Sau khi tiêu diệt Trưng Vương, Mã Viện cho tịch thu
toàn bộ các trống đồng (để đúc thành ngựa) và đầy các thủ lãnh quý tộc Văn Lang
còn sống sót (y gọi là cừ soái) vào vùng đất Giang Hoài, thay đổi
luật lệ Văn Lang theo đúng luật Hán. Để chống lại nỗ lực đồng hoá một cách thô
bạo của nhà Hán, Phật giáo Việt Nam dứt khoát bản địa hoá giáo lý, bản địa
hoá tư tưởng, gởi gấm một số yếu tố Việt Nam vào kinh điển Phật giáo (theo
Lê Mạnh Thát, sđđ tr. 151).
2- Thời Kỳ Xây Dưng Bước Đầu:
Từ năm 43 đến năm 968, loạn 12 sứ quân chấm dứt, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi lấy hiệu
là Đinh Tiên Hoàng lập ra nhà Đinh. Năm 969, Đinh Tiên Hoàng phong cho sư Ngô
Chân Lưu (930-1011) làm Tăng Thống, giáo hội Phật giáo nước ta được thành lập
và các nhà sư bắt đầu được các vương triều tham vấn về những quốc sự trọng đại.
Thời kỳ này đã xuất hiện những đỉnh cao của Phật học như Mâu
Tử, Khương Tăng Hội, Tỳ-ni-đa-lưu-chi và Vô Ngôn Thông. Mâu Tử viết Lý Hoặc
Luận năm 198, tác phẩm lý luận Phật học đầu tiên bằng Hán văn từng được coi là
sách gối đầu giường của giới học Phật Trung Quốc và Nhật Bản thời đó. Khương
Tăng Hội xuất gia và tu học ở Giao Châu rồi qua Trung Quốc năm 247 khơi mở và
làm hưng thịnh Phật pháp ở Đông Ngô. Pháp môn Tịnh Độ của chùa Tiêu Sơn (Bắc
Ninh) vang động tới miền bắc Trung Quốc từ đầu thế kỷ V. Tỳ-ni-đa-lưu-chi từ
Trung Quốc tới chùa Dâu (chùa PhápVân, Bắc Ninh) khai mở dòng thiền Pháp Vân
năm 580. Vô Ngôn Thông cũng từ Trung Quốc tới chùa Kiến Sơ năm 820 lập phái
Thiền Vô Ngôn Thông.
Chấp nhận sự phân kỳ Phật giáo Việt Nam theo diễn biến của
lịch sử dân tộc là chấp nhận một sự thực lịch sử: Phật giáo Việt Nam luôn
luôn ở trong dân tộc chứ không bao giờ ở trên hoặc ở ngoài dân tộc.
Kinh nghiệm 20 thế kỷ vừa qua cho thấy diễn biến của lịch sử đất nước qua chính
sách của mỗi triều đại định hướng đi của Phật giáo Việt Nam, cho dù hướng đi đó
có thể thuận hay nghịch với nhà cầm quyền hoặc tùy duyên uyển chuyển.
Do phản ứng để tồn tại và phát triển trước sự thay đổi hoàn
cảnh chính trị và xã hội của đất nước trên dòng lịch sử, Phật giáo Việt Nam
trải qua nhiều giai đoạn. Nhưng sự chuyển tiếp từ giai đoạn trước qua giai đoạn
sau không giống như sự lật qua một trang mới hay một bước ngoặt dứt khoát với
quá khứ, mà có tính cách giao thừa – giai đoạn trước chuyển giao
và giai đoạn sau thừa tiếp. Tựa như những khúc sông của một dòng sông; sông vẫn
chảy một dòng xuôi từ đầu nguồn ra cuối bãi cho dù hình dạng lòng sông có thể
thay đổi tùy theo địa hình địa vật.
NHỮNG
TÍNH CĂN BẢN CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Việc xác định các tính căn bản của Phật giáo Việt Nam do đó
trở thành quan trọng. Một cách khái quát, Phật giáo Việt Nam có những tính căn
bản sau: Tính dung hợp, tính dân tộc, tính dấn thân và tính khai
phóng.
TÍNH DUNG HỢP:
Phật giáo không đi theo các chiến thuyền và đại pháo để
hoằng pháp, cho nên để tồn tại trên vùng đất mới, Phật giáo phải thân thiện với
nền tín ngưỡng bản địa đã bám rễ trong quần chúng từ lâu. Những phái đoàn
truyền giáo Ấn Độ đầu tiên do vua Asoka Moriya (A Dục) phái đi tới các nước
khác vào thế kỷ 3 BC đã nhận được chỉ dụ rõ ràng của nhà vua: Bất kỳ ai tôn
trọng tôn giáo của mình nhưng lại chỉ trích tôn giáo khác, nghĩ rằng “tôi sẽ
làm rạng rỡ tôn giáo của tôi”; nhưng thật là trái ngược, khi làm như vậy người
đó đã làm thương tổn tôn giáo của mình một cách nghiêm trọng.
Các tăng sĩ Phật giáo người Ấn đi theo các thương thuyền tới
thủ phủ Luy Lâu của nước Văn Lang vào cuối thời Hùng Vương hẳn nhiên đã phải
tâm niệm chỉ dụ trên của vua A Dục. Cho nên mới có hiện tượng các vị thần của
tín ngưỡng nông nghiệp nước ta là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện
cùng Phật Mẫu Man Nương trở thành các vị Phật, được thờ tại các chùa Tứ
Pháp từ thời thái thú Sĩ Nhiếp (185- 226) cho tới ngày nay. Hiện tượng thờ Mẫu
tại các chùa Huế cho tới nay cũng là một biểu hiện của sự dung hợp Phật giáo
Việt Nam với tín ngưỡng dân gian.
Khi đã nói tới dung hợp, đạo Phật Việt Nam trên tổng thể tất
nhiên là một hoà hợp Thiền Tịnh Mật, cho dù các tăng ni hiện nay tự coi mình là
truyền thừa của dòng Thiền Lâm Tế. Ngay từ thời Lý Thánh Tông, với sự thành lập
dòng Thiền Thảo Đường (tổng hợp dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi và Vô Ngôn Thông mà
Thiền sư Thảo Đường là quốc sư và nhà vua là đệ tử chân truyền đời thứ nhất)
thì trào lưu Tịnh Độ cũng phát triển mạnh mẽ ở nước ta. Qua thời nhà Trần, Tịnh
độ được giải thích theo cái nhìn của Thiền qua các tác phẩm của Trần Thái Tông
(1218-1277), Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230- 1291) và Trần Nhân Tông (1258-1308).
Cho tới năm 2002, thiền sư Nhất Hạnh cũng chủ trương phối hợp Tịnh Độ và Thiền
quán theo tinh thần tông phái Trúc Lâm (ông dẫn giải điều này trong cuốn Thiết
Lập Tịnh Độ - Thiền Giải Kinh A Di Đà).
Với Mật tông, dù vua Trần Nhân Tông sáng lập Thiền
phái Trúc Lâm vào năm 1299 thì các nhà sư Tây Tạng vẫn được tự do hoạt động ở
Thăng Long. Tăng sĩ Tây Tạng Du-chi-bà-lam khi qua Đại Việt lần thứ hai năm
1311, dẫn theo con gái là Đa-la-thanh. Cô này được vua Trần Anh Tông tuyển vào
cung làm phi ngay năm 1311. Pháp Loa, tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm thường
làm lễ quán đảnh và tổ chức trai đàn chẩn tế với những ấn quyết
và thần chú là những nghi thức của Mật tông.
Mặt khác, ngay sau khi quy y với Thiền sư Thảo Đường, vua Lý
Thánh Tông (1054- 1072) cho lập Văn Miếu ở Thăng Long để thờ Khổng Tử và các
tiên hiền của Nho giáo.Thiền sư Thảo Đường chịu ảnh hưởng của sư phụ ông (Thiền
sư Tuyết Đậu, tác giả Bích Nham Lục, chủ trương đưa Nho gia tới gần Phật). Có
lẽ sự dung hợp Phật-Nho-Lão rõ rệt nhất qua tuyên bố của vua Trần Nhân Tông: giáo
lý của đức Phật ta phải nhờ Tiên Thánh mà truyền lại cho đời. Mặc dù HT
Thích Thanh Từ giải thích Tiên Thánh ở đây là chư tổ Phật giáo nhưng có lẽ nên
hiểu đó là Lão và Nho thì hợp lý hơn (vì không thấy ở chỗ nào khác gọi chư tổ
Phật giáo là Tiên Thánh).
Ngày nay sự dung hợp trong hành trì đã trở thành khuynh
hướng khá phổ thông trong Phật giáo thế giới. Chẳng hạn ở Trung Quốc, theo HT
Thánh Nghiêm: ngay từ cuối đời Thanh đầu năm Dân Quốc đến nay, Phật Lão
Khổng cộng thêm Gia Tô và Hồi giáo trở thành tôn giáo dân gian, mà người ta gọi
là ngũ giáo đồng nguyên. Lần lần Phật giáo cũng mở cửa phương tiện để
thích ứng với yêu cầu của tín ngưỡng dân gian (bài giảng: Phật Giáo Làm
Cách Nào Để Thích Ứng Với Yêu Cầu Tín Ngưỡng Dân Gian).
Nói cho đúng, dung hợp không chỉ là đặc tính riêng của Phật
giáo nước ta. Nó là xu hướng chung của thời đại mà Phật giáo Việt Nam đi những
bước tiền phong từ nhiều thế kỷ trước. Thí dụ cụ thể nhất là việc làm tượng Tam
giáo tại chùa Cao Dương (Thái Bình, năm 1578) và việc dựng ngôi chùa Tam giáo ở
Hà Tây năm 1590 dưới thờ nhà Mạc. Thí dụ độc đáo nhất là sự thành lập đạo Cao
Đài ngày 24.12.1925 tại Tây Ninh, tổng hợp Phật-Nho-Lão-Thiên chúa giáo. Một tôn
giáo có tổ chức giáo hội chặt chẽ như Thiên Chúa giáo cũng phải chấp nhận sự
dung hợp để tồn tại qua các diễn biến lịch sử. Giáo Hội TCG Trung Quốc đã công
nhận việc thờ cúng tổ tiên ngay từ đầu thế kỷ 20, nghĩa là rất lâu trước khi
công đồng Vatican II chấp nhận điều này. Cách hành trì nghi lễ của Thiên Chúa
giáo Phi Luật Tân, Tây Ban Nha, Mễ có nhiều khác biệt do ảnh hưởng của nếp sống
tâm linh tại mỗi địa phương. Cũng có không ít các ngôi nhà thờ Công giáo Việt
Nam được kiến trúc gần gũi với ngôi chùa hơn là giống các nhà thờ La Mã.
TÍNH DÂN TỘC
Khi đã dung hợp với tín ngưỡng dân gian qua một quá trình
dài nhiều biến động của lịch sử, Phật giáo tất nhiên mang tính dân tộc. Theo Lê
Mạnh Thát (Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, tập 3 tr. 70) dẫn Tứ Phần Luật,
Thập Tụng Luật và Ma Ha Tăng Kỳ Luật: có tới ba điều luật cấm tăng sĩ can dự
vào việc binh bị cho dù đến xem quân đi ra trận. Thế nhưng thời Hai Bà Trưng
khởi nghĩa năm 39- 43, các sư cô Thiều Hoa, Phương Dung, Thục Nương và nàng
Quốc mộ quân và cầm quân chống lại quân nhà Hán; thời Lý các tăng quan sinh
hoạt ở trong quân; thời Trần năm 1381 vua Trần Phế Đế ra lệnh cho thiền sư Đại
Than mộ các tăng sĩ ở miền quê, nhất là những người không có độ điệp (một loại
giấy chứng nhận tăng sĩ), sung vào đạo quân đánh Chiêm Thành; năm 1389 sư Phạm
Sư Ôn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại Hồ Quý Ly. Còn phải kể tới cuộc khởi
nghĩa của sư Phạm Ngọc ở chùa Đồ Sơn (Kiến An) và sư An Quốc chống lại ách đô
hộ của nhà Minh (1407 1428). Khi phong trào Cần Vương nổi lên hưởng ứng lời kêu
gọi năm 1885 của Tôn Thất Thuyết, các chùa từ Bình Định tới Thanh Nghệ Tĩnh đã
trở thành các căn cứ Cần Vương. Năm 1898, sư Võ Trứ ở chùa Đá Trắng (Phú Yên)
khởi nghĩa chống Pháp được sự hưởng ứng của hầu hết các chùa ở Phú Yên và Bình
Định (sử gọi là Giặc Thầy Chùa). Cùng năm, sư Vương Quốc Chính lãnh đạo Hội
Thượng Chí quy tụ hàng ngàn tăng sĩ và Phật tử từ Nghệ An tới Bắc Ninh bạo động
chống Pháp. Qua thế kỷ 20, dù đã ẩn tu ở Thất Sơn như sư Chí Thiền (1861- 1933)
vẫn nhiều lần đàm đạo quốc sự với chí sĩ Phan Bội Châu và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để
tại chùa Phi Lai ở Thất Sơn, Châu Đốc. Hay tích cực theo một cách khác như sư
Thiện Quảng (1862- 1911) dù đã ẩn tu ở Thái Lan vẫn quyết định vượt biên về
nước vận động tài chánh cho phong trào vận động dân tộc do chí sĩ Phan Bội Châu
chủ xướng và đã bỏ mình dưới lằn đạn phục kích của quân Pháp ở Tây Ninh.
Đây chỉ là danh sách còn nhiều thiếu sót, được trình bày như
một khái niệm tổng quát. Có thể nói bất cứ thời nào đất nước gặp khó khăn nguy
biến, luôn luôn có sự tham dự của giới tăng sĩ nước ta, dù khi nhiều khi ít,
vào các nỗ lực vận động dân tộc.
Các sử gia Phật giáo quan trọng như Thích Mật Thể (Việt
Nam Phật Giáo Sử Lược), Nguyễn Lang (Việt Nam Phật Giáo Sử Luận) và
Lê Mạnh Thát (Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam) đều không hề phê phán những
tăng sĩ trên là giới luật không nghiêm minh, mặc dù sự tham gia chính sự có
tính bạo động này không được giới luật công nhận. Dòng chảy nhỏ Phật giáo Việt
Nam đã chuyển mình theo hướng đi của dòng chảy lớn dân tộc những lúc qua ghềnh,
vượt thác.
TÍNH TÍCH CỰC, DẤN THÂN
Những tích cực tham gia vào nỗ lực vận động dân tộc nói trên
của giới tăng sĩ cũng là một thể hiện tính dấn thân của Phật giáo Việt Nam.
Tính tích cực, dấn thân trở thành điều tất nhiên một khi tu hành trong Phật
giáo Việt Nam không được quan niệm là xa lánh trần tục.
Năm 1680, vua Lê Hy Tông nghe lời tâu của một số nho thần,
ra lệnh các nhà sư hoặc phải hoàn tục hoặc phải rời khỏi chùa vào rừng núi tu
để giữ mình cho thanh tịnh. Đại sư Chân Dung Tông Diễn (1640-1709)(f)
nghe tin này quá đau lòng vì các nhà sư là người chủ trì nghi thức quan hôn
tang tế, thầy dạy chữ Hán, thầy thuốc và người nuôi dạy trẻ mồ côi của làng xã.
Chùa đã trở thành cái xương sống văn hoá của thôn quê. Ông quyết định phải cứu
cho bằng được cái tính tích cực dấn thân của Phật giáo để giữ cho đạo Phật có
thể phục vụ xã hội một cách hữu ích mà sống mãi trong lòng dân tộc. Ông liền
tới kinh đô, liều lĩnh nghĩ ra một kế: xin yết kiến vua để dâng lên một viên
ngọc quý. Vua không muốn tiếp nên không cho nhà sư vào hoàng cung, chỉ ban lệnh
nếu quả thật có ngọc, vua sẽ sai quan ra nhận. Sau ba tháng chờ đợi bên ngoài
hoàng cung không được vua cho vời, nhà sư viết tờ biểu trình bày giáo lý đạo
Phật đẹp đẽ như viên ngọc quý soi sáng mười phương, xoá tan mây mờ vô minh. Ông
để tờ biểu này trong một hộp thật đẹp, dán kín lại, trình với quan coi thành:
nếu vua không cho sư vào chầu, xin cử một quan văn thanh liêm trung trực, trai
giới ba ngày rồi ra nhận ngọc quý. Vua chấp thuận. Trao hộp cho quan coi thành,
đại sư căn dặn không được tự ý mở ra mà phải trình ngay tới tay vua. Tại triều,
vua sai mở hộp, chỉ thấy có tờ biểu bèn sai đọc lên. Nghe được lời lẽ trong
sáng, ý tứ thâm sâu, vua chợt tỉnh ngộ, nhận ra sự sai lầm của mình trong quyết
định bắt các nhà sư phải rời khỏi quần chúng mà đi ẩn tu nơi thâm sơn cùng cốc.
Vua cho vời đại sư Tông Diễn vào triều để tham vấn đạo
lý. Sáng lẽ đạo, vua cho thâu hồi lệnh đã ban, cho phép các nhà sư được trở lại
chùa cũ tiếp tục hoằng pháp độ sanh. Để chứng tỏ sự thành tâm sám hối, vua sai
tạc tượng Phật Thích Ca toạ trên lưng nhà vua đang quỳ mọp xuống. Tượng gỗ cao
1.78 mét này hiện còn để trong chánh điện chùa Hoè Nhai (19 Dốc Hàng Than, Hà
Nội). Có lẽ đây là pho tượng có ý nghĩa độc đáo nhất không chỉ đối với Phật
giáo Việt Nam mà còn đối với Phật giáo thế giới. Trong cuốn Thiền Tông Bản
Hạnh, thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726) ca ngợi sự sáng suốt và tích
cực sám hối của vua Lê Hy Tông, goị nhà vua là Hoàng Giác Lê Gia (ông vua
giác ngộ nhà Lê).
Chính do tính tích cực mà nhiều chùa Việt hiện nay ở hải
ngoại mở các lớp dạy Việt ngữ và phục hoạt nhanh chóng tổ chức Gia Đình
Phật Tử với sinh hoạt thống nhất trong hoàn cảnh có nhiều giáo hội khác biệt
nhau. Ở trong nước, không ít chùa trở thành nơi nuôi dạy trẻ mồ côi, trường lớp
cho các trẻ em nghèo ở vùng hẻo lánh, phòng khám bệnh và phát thuốc miễn phí dù
trong khả năng tài chánh rất giới hạn. Từ xưa cho tới nay, chùa Việt Nam thường
không được quan niệm chỉ là chỗ để tụng kinh, gõ mõ và lạy Phật.
TÍNH KHAI PHÓNG
Phật giáo Việt Nam tiếp thu có chọn lựa truyền thống văn hoá
Phật giáo Trung quốc và Ấn Độ. Một thí dụ là sự kiện các tăng ni nước ta mới
chỉ bắt đầu mang họ Thích từ nửa sau thế kỷ 20. Người đầu tiên lấy họ Thích sau
khi xuất gia và qua du học tại Trung Quốc trở về là sư Thích Mật Thể
(1912-1961), tác giả cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Lược (Tân Việt, Hà Nội
1943). Tại Trung Quốc người đề xướng việc lấy họ Thích cho người xuất gia (để
nêu cao tinh thần mọi người xuất gia đều là huynh đệ) là sư Thích Đạo Cao
(312-385), sống trước Thích Mật Thể 16 thế kỷ.
Phật giáo Việt Nam không chỉ tiếp thu mà còn chuyển hoá giáo
pháp của Thích Ca thành hình thức thích hợp với quần chúng. Phật giáo Hoà Hảo
là một tiếp thu theo tinh thần khai phóng đó, với những kinh điển được giáo chủ
Huỳnh Phú Sổ chuyển hoá thành kệ thơ là bộ Sấm Giảng, mà việc phổ biến
dưới hình thức đọc giảng ngâm có sức thu hút cao. Bộ Sấm Giảng này có thể là
một triển khai Bộ Sấm Giảng bằng chữ Nôm của Phật Thầy Tây An (Đoàn Văn
Huyên 1807-1856) người khai lập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, một hình thức Phật
giáo có bản sắc dân tộc sinh động trong môi trường nông dân chất phác ít học
của đồng bằng sông Cửu Long (không lập chùa, không thờ tượng mà lập các “trại
ruộng” tạo nên các cộng đồng nông dân khai thác đất hoang rất nhiều tại
miền tây Nam Bộ. Đường hướng này được đức Bổn Sư núi Tượng là Ngô Lợi
(1831-1890) nối tiếp với việc thành lập giáo phái Phật Giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
năm 1872. Cũng trong chiều hướng đó, tổ sư Minh Đăng Quang (1923-1954)
khai sáng hệ phái Khất Sĩ năm1944, đã tổng hợp các kinh điển Phật
giáo Nam tông và Bắc tông soạn thành bộ Kinh Chơn Lý bằng văn vần.
Việc sử dụng chữ quốc ngữ vào việc truyền bá Phật pháp
ngay từ thập niên 1920 vào buổi đầu của nền văn chương quốc ngữ (dẫn tới việc
thành lập nhà xuất bản Thạnh Mậu năm 1927 để chuyên xuất bản sách Phật giáo),
việc đưa lễ Bông Hồng Cài Áo vào nghi thức lễ Vu lan từ năm 1962, việc sử dụng
Internet từ năm 1994 qua số lượng ngày càng đông đảo các trang Web của các tự
viện, tổ chức Phật giáo và các nhóm Phật tử tu học, việc phổ biến Phật pháp qua
băng audio rồi CD và gần đây là CD-Rom, MP3, việc sử dụng Kỹ thuật Paltalk để
một vị sư có thể giảng pháp qua âm thanh tới nhiều nơi cùng lúc trên mạng lưới
Internet, việc phát triển lễ nhạc Phật giáo qua nỗ lực của Võ Tá Hân, Bạch
Tuyết … cho thấy Phật giáo Việt Nam không cố chấp bảo thủ lệ thuộc vào di sản
Trung Quốc qua những nghi thức xưa cũ, mà biết tận dụng những kỹ thuật có khả
năng giúp cho việc hoằng pháp đạt hiệu quả cao.
Sự kiện trong buổi lễ Phật đản năm 1935 tổ chức tại chùa
Diệu Đế ở Huế có vua Bảo Đại tới dự, sư cô Diệu Hương giảng kinh A Di Đà và sư
cô Diệu Viên thuyết về Phật Học Đối Với Phụ Nữ trên micro trước hàng ngàn thính
chúng, sự kiện Ni bộ của giáo hội Khất Sĩ Việt Nam do ni sư Huỳnh Liên dẫn đạo,
hoạt động độc lập với Tăng đoàn ngay từ đầu thập niên 1970 cho thấy Ni giới
nước ta tuy không đóng vai trò tiền phong nhưng có những nỗ lực theo kịp biến
chuyển chung của Ni giới Phật giáo thế giới. Cho nên không có gì ngạc nhiên vào
những năm gần đây khi Ni giới Đài Loan nêu lên việc huỷ bỏ Bát kỉnh pháp
(g), vấn đề bình đẳng giữa nam nữ trong giới xuất gia đã được một số ni
chúng trong và ngoài nước lưu tâm đặc biệt. Khá nhiều các bài tham luận về vấn
đề này đã được một số ni dịch hoặc viết và phổ biến trên nhiều trang Web. Và
mặc dù không được tất cả các giáo hội Phật giáo trong nước cũng như hải ngoại
khuyến khích hay hỗ trợ, một số ni chúng Việt Nam đã tự túc tham dự và thuyết
trình trong các Đại Hội Phụ Nữ Phật Giáo Thế Giới kể từ kỳ họp thứ 6 vào tháng
2 năm 2000, tại vườn Lâm Tỳ Ni ở Nepal. (Kỳ họp thứ 5 vào đầu năm 1998 tại Nam
Vang, dù ở ngay sát Việt Nam, Ni giới nước ta vẫn không được khuyến khích
tham dự).
Cũng nên kể thêm việc đề nghị canh tân giới luật Phật giáo
do sư ông Nhất Hạnh công bố tại Đại Hàn năm 2003 như một bổ sung cho giới luật
hiện hành để giới tăng sĩ nam nữ có thể phục vụ hữu hiệu hơn cho nhân loại và
đạo pháp trong thời đại mới (h). Việc cư sĩ Tâm Diệu đã cho phổ biến
công khai giới luật này trên trang web www.thuvienhoasen.org cũng được xem là một quyết định có tính khai phóng, tán
đồng một cách cụ thể quan niệm của TT Thích Phước Sơn cho rằng giới luật Phật
giáo phải là công truyền không thể là bí truyền.
Phật giáo Việt Nam, cũng như Phật giáo các nước khác và cũng
như các tôn giáo khác, thời nào cũng
có những mặt tiêu cực bên cạnh các mặt tích cực. Để tồn tại được tới ngày nay,
Phật giáo Việt Nam đã vượt qua được sự kiêu mạn trong vài giai đoạn ở một số
tăng sĩ có ưu thế với nhà cầm quyền, vượt qua được khuynh hướng phân phái biệt
lập ở một số thời kỳ phát triển, để nhập dòng một cách tích cực trong
dòng chảy lớn của dân tộc (i).
CHÚ
THÍCH:
(a)
Lục Độ Tập Kinh gồm 91 truyện tích, mỗi truyện đầu có trích dẫn kinh điển
nói về lục độ ba la mật, xếp thành 8 quyển. Ba quyển đầu nói về hạnh
bố thí, năm quyển sau mỗi quyển nói về một độ còn lại (trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ). Khương Tăng Hội, một nhà
sư gốc Ấn được đào tạo tại nước ta từ nhỏ vào thế kỷ 3 là dịch giả bản kinh
này. Theo Lê Mạnh Thát (LSPGVN tập 1) Khương Tăng Hội có thể đã dịch từ bản
dịch tiếng Việt cổ của kinh này. Lê Mạnh Thát đã dịch Lục Độ Tập Kinh và phổ
biến trong Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam tập 1, NXB TP/HCM 2001.
(b)
Việt Sử Toàn Thư, Phạm Văn Sơn, Đại Nam in lại ở Hoa Kỳ không ghi năm, tr.
125.
(c)
Lâm Tế Nghĩa Huyền (?- 867 ) khai sáng dòng thiền Lâm Tế tại Trung Quốc
vào thời gian Phật giáo xứ này bị đàn áp. Truyền thống hoằng hoá của thiền phái
Lâm Tế là sử dụng tiếng hét và gậy đập và quán công án. Dạng nguyên thủy này
ngày nay chỉ còn được duy trì gần nguyên vẹn nơi thiền phái Lâm Tế ở Nhật.
(Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách, Từ Điển Phật Học tr. 229-30, nxb Thuận
Hoá, Huế 1999). Tại nước ta Thiền phái Lâm Tế phân làm 5 dòng: Tổ Đạo (còn gọi
là dòng Vạn Phong), Đạo Bổn Nguyên (còn gọi là Đạo Mẫn), Trí Huệ, Chúc Thánh,
Liễu Quán. Mỗi dòng đều có bài kệ truyền thừa riêng. Phái Lâm Tế do thiền sư
Nguyên Thiều (người Quảng Đông) theo tàu buôn Trung Quốc tới lập chùa Thập Tháp
(Qui Nhơn) truyền pháp ở Đàng Trong năm 1677 (có tài liệu ghi 1665). Trong 5
dòng Lâm Tế ở nước ta, Thiền sư Liễu Quán (1667- 1742) là người Việt, nổi tiếng
sau Nguyên Thiều.
(d)
Theo các thần phả, sư cô Hoàng
Thiều Hoa tu tại chùa làng Hiền Quan năm 16 tuổi; Thục Nương trên đường trốn
tránh sự truy nã của thái thú Tô Định, khi dừng chân tại chùa làng Tiên La đã
cắt tóc xuất gia và được dân làng mời ở lại trông coi chùa làng. Theo truyền
thuyết xã Kiêu Kỵ (Gia Lâm, Hà Nội) nàng Quốc khi còn nhỏ có tên là bé Nước
được bà mẹ là Đào Tuyết Tĩnh gởi vào chùa làng, nhà sư nhận và đặt tên là Quốc.
Trong lực lượng khởi nghĩa của Trưng Vương năm 40, bà phụ trách thủy quân.
Trong các nữ tướng thời Hai bà Trưng, còn có hai Phương Dung khác. Phương Dung
cùng chồng là Đào Kỳ, cũng là một tướng lãnh quan trọng của Hai Bà Trưng, được
thờ tại làng Cối, huyện Đông Anh, Hà Nội. Trương Phương Dung cùng với 3 em trai
được thờ tại làng Nan, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình.
(e)
Vụ án Lương Thế Vinh quả là khó
hiểu. Vì “kinh Phật” được đề cập ở đây là Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn,
được các sử gia Phật giáo (Lê Mạnh Thát, Nhất Hạnh, Lý Kim Hoa) cho là sáng tác
của vua Lê Thánh Tôn, người ra lệnh trừng phạt Lương Thế Vinh vì tội “sáng tác
kinh Phật”.
(f)
Đại sư Chân Dung Tông Diễn đã được
huyền thoại hoá dưới danh hiệu Hoà thượng Cua vì có khả năng dùng Phật
lực giải nghiệp sát sanh cua cho mẹ ông. Huyền thoại này được truyền tụng
rộng rãi như một điển tích sâu sắc trong Phật giáo miền Bắc. Với Phật giáo
Trung Hoa, khi một vị sư được giới thiệu bằng hai tên, chẳng hạn Nam Nhạc Hoài
Nhượng, tên đầu Nam Nhạc chỉ nơi ông trụ trì là núi Nam Nhạc, tên sau Hoài
Nhượng là đạo hiệu. Trường hợp Phật giáo Việt Nam, tên đầu Chân Dung là pháp
danh, tên sau Tông Diễn là đạo hiệu.
(g)
Bát kỉnh pháp là 8 điều luật đòi hỏi một vị ni phải tuyệt đối kính trọng
một vị tăng bất kể tuổi tác và trình độ tu chứng. Sư cô Phổ Tịnh ở Canada có lẽ
muốn bác bỏ Bát kỉnh pháp khi gọi các sư cô bằng danh hiệu đại đức
hoặc đại đức ni. Ở miền Bắc nước ta, dân chúng không phân biệt tăng hay
ni đều gọi chung là thầy, chẳng hạn trong tác phẩm Chùa Đàn, Nguyễn Tuân
gọi cô Tơ, vị sư nữ có pháp danh Tuệ Không ở chùa Đàn là sư thầy. Gần
đây nhà văn thời đổi mới ở trong nước là Nguyễn Khải cũng gọi vị sư nữ chùa Cốc
là thầy (truyện ngắn Ngôi Chùa Các Chị).
(h)
Về nguyên bản giới luật tân tu của
thầy Nhất Hạnh, xin xem phần Giới Luật, trang web: www.thuvienhoasen.org. Quan niệm phổ biến trong Phật giáo nước ta cho rằng giới
luật là bí truyền, nghĩa là cư sĩ và sa di không được phép biết đến giới
luật của tỳ kheo.
(i)
Một thí dụ là giai đoạn từ tháng
12.1963 tới tháng 4.1975 tại miền Nam với biến cố hai Viện Hoá Đạo (Ấn Quang và
Việt Nam Quốc Tự) của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và những hoạt động
có tính chính trị của TT Thích Trí Quang.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO:
1- Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, tập 1 (1999) tập 2
(2001) tập 3 (2002), nhà xuất bản Thành phố HCM.
2- Nguyễn Lang (một bút hiệu của Nhất Hạnh), Việt Nam Phật Giáo
Sử Luận, tập 1 (1977) tập 2 (1978) tập 3 (1985), Lá Bối, Paris (Pháp).
3- Trần Tri Khách, Niên Biểu Phật Giáo Việt Nam, bản thảo,
2003.
4- Nguyễn Tài Thư chủ biên, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, nhà
xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1991.
5- Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm, Lịch Sử Phật Giáo Xứ Huế, nhà
xuất bản Thành phố HCM, 2001.
6- Nguyễn Duy Hinh, Tư Tưởng Phật Giáo Việt Nam, nhà xuất bản
Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1999.
7- Đinh Khắc Thuân, Lịch Sử Triều Mạc Qua Thư Tịch Và Văn Bia,
nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 2001.
8- Bùi Thiết, Nữ Tướng Thời Hai Bà Trưng, nhà xuất bản Thanh
Niên, Hà Nội 2001.
9- Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, Lịch Sử Việt Nam Từ Nguồn
Gốc Đến Năm 1884, nhà xuất bản TP HCM, 2000.
10- Thích
Tâm Hải, Tìm Hiểu Về Trào Lưu Tịnh Độ Tại Việt Nam, trang web www.quangduc.com