Vào những năm gần đây, công cuộc nghiên cứu khảo sát để
nhận diện lại quê hương Lý Công Uẩn đã tiến những bước khá xa. Trong
đó, nhiều nhà khoa học đã đưa ra luận điểm mới mẻ, khác hẳn với cố GS
Trần Quốc Vượng rằng Du Lâm (tức Hoa Lâm) ở Đông Anh là quê ngoại của Lý
Công Uẩn, còn Dương Lôi là quê nội của ông. PGS Trịnh Bỉnh Dy đưa ra 2
chứng tích để minh chứng rằng Hoa Lâm là quê mẹ của Lý Thái Tổ. Một là,
tại chùa Tiêu vẫn còn tấm bia Lý gia linh thạch khắc vào năm 1793, có
đoạn: "…Đông Ngạn, Hoa Lâm nhân Phạm mẫu, tiêu dao kỳ tự, thường kiến
nhất thần hầu, bất giác hữu thần…". Đoạn văn này đã khẳng định mẹ Lý
Công Uẩn họ Phạm, người trang Hoa Lâm huyện Đông Ngàn. Đình thôn Thái
Đường ở xã Mai Lâm ngày nay vẫn còn bảo lưu được đôi câu đối cổ: "Mạch
tụ quân vương truyền thắng địa/Tích lưu Lý mẫu quán danh phương" (Đất
có mạch tụ sinh ra vua/Mẹ vua Lý quê tại làng này). Khi Lý Thái Tổ dựng
nhà Thái Đường ở quê mẹ, ngài cũng đặt tên mới cho xã này là Hoa Lâm
vào năm 1010 và lập Ly cung ngự uyển ngay tại đó. Nhà vua còn tuyển chọn
trai tráng giỏi trồng hoa về Hoa Lâm gọi là "viên đinh". Tương truyền,
viên đinh và người phục dịch Ly cung đều phải sống tại nơi mà ngày nay
mang tên thôn Lê Xá. Xã Mai Lâm (Hoa Lâm) có 4 thôn: Thái Đường có nhà
thờ mẹ vua; Du Lâm là nơi vua về nghỉ ngơi du ngoạn; Đông Trù (bếp ngự)
là nơi nấu cỗ cúng; thôn Lộc Hà là nơi phát lộc sau khi cúng.
Theo PGS.TS khoa học lịch sử Trần Bá Chí (Trường ĐH
Quốc gia HN): Xét về tầm cỡ và bề thế của địa danh, thì trang Hoa Lâm ở
Mai Lâm đã xuất hiện sớm và đã tồn tại lâu dài trong sử sách thời Lý
Trần. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, sử gia Ngô Sĩ Liên từng chép
địa danh Hoa Lâm: "Khi ấy Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đã giết Huệ
Tôn, tôn thất nhà Lý đều bùi ngùi thất vọng. Mùa Đông năm ấy, nhân người
họ Lý làm lễ cúng các vua Lý đời trước ở Thái Đường xã Hoa Lâm, Thủ Độ
ngầm đào hố sâu làm nhà lên trên, đợi khi người ta uống rượu say, giật
máy chôn sống chết hết". Trong khi đó, chưa từng có thư tịch cổ nào đề
cập đến tên Hoa Lâm liên quan đến làng Dương Lôi. Mặt khác, Dương Lôi và
Đình Bảng từ thời Trần đến đầu thời Nguyễn thuộc về huyện Tiên Du, chứ
không thuộc về huyện Đông Ngàn. Như vậy, xã Hoa Lâm mà bia Lý gia linh
thạch ghi phải là địa danh Hoa Lâm ở Mai Lâm. Ở xã Mai Lâm, phế tích
hành cung do Lý Công Uẩn lập ra, nay vẫn còn nhận rõ vị trí. Ngôi đền
thờ Lý triều quốc mẫu Phạm Thị Tiên, nay nhân dân dựa theo dấu nền cũ,
chuẩn bị khôi phục tôn tạo lại. Khu Lý gia lăng bị bào mòn nhiều, nay
vẫn còn nhận rõ. Miếu oan hồn thờ các tôn thất nhà Lý bị giết oan năm
1232 nay còn nguyên, nhưng đã xuống cấp.
Theo TS Nguyễn Quang Ngọc (Viện trưởng Viện Việt Nam
học và Khoa học phát triển): "Khu Sơn Lăng cấm địa của nhà Lý được xây
dựng trên cánh đồng của các làng Dương Lôi, Đình Bảng, Đại Đình và chỉ
mới thành đất riêng của làng Đình Bảng hơn trăm năm nay, chứ không phải
vì là quê nội của nhà Lý nên Lý Thái Tổ mới lấy đất riêng của làng Đình
Bảng để xây dựng Thọ Lăng. Dù vai trò và vị trí của làng Đình Bảng trong
hương Cổ Pháp có quan trọng đến thế nào, chúng ta vẫn không có cơ sở
khẳng định Đình Bảng là quê nội hay là nơi sinh thành Lý Thái Tổ. Dương
Lôi dù gần đây đã được nhiều người ra sức chứng minh là quê mẹ hay quê
ngoại của Lý Thái Tổ, thậm chí đã từng có cuốn sách viết về Quê mẹ đức
vua Lý Thái Tổ (tác giả PGS.TS Đặng Văn Lung, NXB ĐH Quốc Gia TP.HCM,
2006). Nhưng với những nguồn tư liệu phong phú và độc đáo, thì dường như
lại gợi ra cho người đọc hình ảnh hợp lý và rõ ràng hơn về một làng quê
nội chứ không phải là quê ngoại của Lý Công Uẩn".
Nếu chỉ căn cứ vào sự có mặt của ngôi đền thờ bà Phạm
Thị Ngà ở Dương Lôi để khẳng định rằng đây là quê mẹ của Lý Thái Tổ thì
chưa đủ sức thuyết phục. Bởi vì, khắp vùng Kinh Bắc hiện có rất nhiều
ngôi làng (trong đó có Du Lâm) cũng có đền thờ Phạm Thị. Vì bà là quốc
mẫu, nên triều đình nhà Lý sức cho dân nhiều nơi làm đền thờ. Tuy nhiên,
việc bà Phạm Thị sinh ra Lý Công Uẩn ở làng Dương Lôi thì không ai dám
chối cãi, nhưng vẫn có 2 khả năng xảy ra: hoặc bà Phạm Thị là người
Dương Lôi (lấy chồng cùng làng) hoặc bà là người nơi khác đến lấy chồng ở
Dương Lôi. Nếu chấp nhận luận điểm rằng Đình Bảng là quê nội, Dương Lôi
là quê mẹ của Lý Thái Tổ như kết luận của các nhà nghiên cứu lịch sử
vào cuối thế kỷ XX, thì như vậy vô hình trung coi Vạn Hạnh chính là cha
đẻ của Lý Công Uẩn.
Nhân dân vùng Kinh Bắc truyền tụng: đương thời không
ít người cho rằng Vạn Hạnh là cha đẻ của Lý Công Uẩn. Vạn Hạnh bày tỏ
nỗi oan bằng cách chỉ tay vào con hổ đất bên bàn thờ mà thề: "Thân này,
tâm này đã tu hành không vọng tưởng gì nữa, nhược bằng không thanh tịnh,
mắc tội tà dâm thì xin trời trừng phạt và con hổ kia vẫn là con hổ đất,
còn vẫn giữ phép giới siêu thoát thì hổ đất sẽ biến thành hổ thật". Kỳ
lạ, con hổ đất bỗng rùng mình biến thành hổ thật để Vạn Hạnh cưỡi. Người
đời sau đã dựa vào tích đó để tạc tượng Ngài. Pho tượng cổ tạc Ngài
được đặt trong một khám thờ ở chùa Tiêu, bài vị khắc: "Lý triều nhập
nội, Quốc công tể tướng Thiền sư Vạn Hạnh". Tượng cao 50cm, chân dung
Ngài sinh động, ngồi uy nghiêm trên con hổ màu xám, một tay ôm lấy đầu
hổ, bàn tay kia đặt lên đầu gối, mặt ngẩng cao, đôi mắt dõi vào cõi xa
xăm. Những năm gần đây, nhân dân Tiêu Sơn đã xây dựng phiên bản pho
tượng Vạn Hạnh cưỡi hổ, kích thước lớn gấp hàng chục lần, đặt trên đỉnh
Tiêu Sơn để du khách thập phương chiêm bái.
Theo GS.TS lịch sử Nguyễn Quang Ngọc, một sự thật mà
không ai có thể phủ nhận được là ngay sau lễ đăng quang vào ngày
21-11-1009, Lý Thái Tổ đã "truy tôn cha là Hiển Khánh vương, mẹ là Minh
Đức Thái Hậu" (Việt sử lược). Ông còn phong cho chú làm Vũ Đạo
vương, anh ruột làm Vũ Uy vương, em ruột là Dực Thánh vương. Năm 1018,
ông tiếp tục truy phong bà nội làm hậu và đặt tên thụy. Đại Việt sử
ký toàn thư cũng ghi nhận các sự kiện này, nhưng sử gia Ngô Sĩ Liên
đã chê "Vua đến lúc này mới truy phong cho bà nội, đó là lỗi chậm trễ".
Sách Thiền uyển tập anh có nhắc đến việc Thiền sư Vạn Hạnh trực
tiếp bàn bạc với người chú và người bác ruột của Lý Công Uẩn về tình
hình chính sự ở kinh thành Hoa Lư, rồi "chú và bác Lý Công Uẩn nghe xong
lấy làm lo sợ, sai người ruổi gấp về Hoa Lư nghe ngóng thì quả đúng như
lời sư nói". Sách còn cho biết khá tường tận về sự tích ngôi mộ của
Hiển Khánh Vương ở hương Cổ Pháp với các mốc chuẩn về vị trí. Về sau, cố
GS Trần Quốc Vượng đã giải mã và xác định vị trí khá chính xác của ngôi
mộ nằm ở cánh đồng làng Dương Lôi. Thiền uyển tập anh còn kể về
câu chuyện, lúc Lý Công Uẩn chưa lên ngôi vua, sư Vạn Hạnh nửa đêm ra
thăm mộ Hiển Khánh vương đã gặp Hiển Khánh vương hiển linh báo cho biết
về sự ra đời của triều Lý. Như vậy, Vạn Hạnh không phải là cha đẻ của Lý
Công Uẩn. Những thông tin trên đã giúp xác nhận một cách rõ ràng danh
nghĩa người cha đẻ và dòng họ nội của Lý Thái Tổ. Rõ ràng, Lý Công Uẩn
có cha, mẹ, chú, bác ở làng Dương Lôi. Ông có anh và em ruột, chứng tỏ
ông không thể là con hoang, nhưng việc người cha sớm qua đời, đã để lại
cho mẹ ông nhiều điều dị nghị, muôn nỗi gian truân. TS Nguyễn Quang Ngọc
đưa ra kết luận rằng, quê nội của Lý Thái Tổ là làng Đình Sấm (nay
thuộc thôn Dương Lôi, phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Quê
ngoại của Lý Công Uẩn là Hoa Lâm, huyện Đông Ngàn, nay là xã Mai Lâm,
huyện Đông Anh Hà Nội. Bà Phạm Thị từ Hoa Lâm đến lấy chồng ở Dương Lôi,
sinh ra Lý Công Uẩn.
Hoa Lâm là quê ngoại của vua Lý Thái Tổ, lại án ngữ
trên đường từ kinh đô Thăng Long về Đình Bảng nên mảnh đất này gánh trên
vai bao chứng tích thăng trầm của triều Lý. Như vẫn còn đây dấu tích
ngự trị nơi vua ngồi câu cá, cùng những phủ đền, hành cung của vua và
các vương tôn nhà Lý, đông đúc xóm thôn, trên bến dưới thuyền. Đây cũng
là nơi các quan đi sứ về đợi vào triều kiến, nơi bá quan văn võ đương
triều họp bàn quyết định các việc trọng yếu của đất nước, vui chơi săn
bắn, thao diễn quân binh. Thế kỷ XX, nơi đây sinh ra nhà văn, nhà báo,
danh nhân văn hóa Ngô Tất Tố. Thật không hổ danh lời truyền tụng "Chín
xóm Cổ Loa không bằng ba xóm Ao Dài". Trong những năm 2004-2009, các nhà
khảo cổ học và khoa học lịch sử nước ta đã tiến hành nghiên cứu khai
quật, khảo cổ trên nền đất Hoa Lâm, đã phát hiện số lượng đồ sộ các di
vật minh chứng cho sự hiện diện của gia tộc nhà Lý trên mảnh đất này.
Năm 2004 đã phát hiện thành bậc tam cấp điêu khắc con sấu đá thời Lý
(niên đại thế kỷ XII) và giếng đá cổ thời Lý, cả 2 di vật này hiện được
lưu giữ tại chùa Phúc Lâm. Đồng thời phát hiện nhiều mảnh gốm, sành, sứ
và vật liệu kiến trúc có niên đại thời Lý- Trần tại khu vực thôn Du Nội
cũ. Theo PGS.TS Khảo cổ học Hán Văn Khẩn, khai quật Hoa Lâm vào năm
2007, đã phát hiện 107 mảnh gốm sứ có niên đại từ thế kỷ IX trở về
trước; 925 mảnh đồ sứ có niên đại thời Lý; 1.313 mảnh gốm sứ thời Trần;
495 mảnh gốm sứ thời Hậu Lê…Về vật liệu kiến trúc, phát hiện tại đây
hàng trăm mảnh gạch và hàng ngàn mảnh ngói niên đại từ thế kỷ VII đến
thế kỷ X, trong đó có cả gạch ngói khắc chữ Giang Tây Quân. Gạch ngói
thời Lý chiếm số lượng áp đảo nhất, với các loại ngói phẳng mũi lá, ngói
cong úp nắp và ngói âm dương.
Chùa Phúc Lâm ngự trên đất thôn Du Nội, trung tâm của
Hoa Lâm xưa, là nơi tụ hội những di tích vật thể và phi vật thể của
triều Lý. Chùa được xây dựng từ năm 1224, giữa rừng hoa, vườn quan họ
của các phủ Tôn Thất. Trải qua gần 800 năm dâu bể, gồng gánh sức tàn phá
của binh đao đạn lửa, lũ lụt, sự thay dòng đổi hướng của sông nước, nên
bóng dáng kiến trúc xưa lộng lẫy uy nghi đã bị thời gian biến cải. Nửa
cuối thế kỷ XX do vỡ đê, nước lụt tràn bờ nên dân làng phải di chuyển
chùa sâu vào phía trong làng. Tuy nhiên chùa vẫn còn bảo lưu được nhiều
báu vật của ngôi chùa cổ xưa: một số pho tượng cổ, bia đá, những tảng đá
kê chân cột, đặc biệt vô cùng quý giá là một giếng đá cổ và phù điêu
lan can con sấu đá thời Lý. Vào năm 2004, trong quá trình khai quật
nghiên cứu tại nền chùa Phúc Lâm xưa, đã phát hiện một lan can thành bậc
trang trí hình con sấu chế tác từ đá cát màu nâu xám. Sấu là loài vật
mình thú, đuôi rồng, kết tinh từ trí tưởng tượng dân gian (cũng như
long, lân, phụng). Phần đầu của lan can con sấu đã bị vỡ. Mặt bên trái
chỉ còn dấu vết của hai chân. Mặt bên phải còn khá nguyên vẹn, với những
vân mây, mỗi chân có 3 vuốt. Đuôi dài uốn lượn tinh xảo. Lan can hình
con sấu được tạc liền khối với bệ trang trí hoa văn cúc dây hình chữ S
xen kẽ với những bông cúc mãn khai. Theo đánh giá của các nhà khảo cổ
học, lan can sấu đá ở chùa Phúc Lâm mang phong cách nghệ thuật thời Lý,
đường nét chạm khắc tương đồng với những mảnh thân rồng trên lan can
thành bậc đá thời Lý tìm thấy trong cuộc khai quật Hoàng thành. Hiện ở
Việt Nam, mới chỉ tìm thấy 2 di vật sấu đá thời Lý, đó là sấu đá chùa
Phúc Lâm và sấu đá Hoàng Thành hiện lưu ở Bảo tàng lịch sử.
Giếng đá trong khuôn viên chùa Phúc Lâm được làm từ
những tảng đá nguyên khối. Phần cổ giếng được tạo bởi hai khối đá cao
30cm, được khoét rỗng hình tròn ở giữa, với đường kính 80cm, tạo nên
miệng giếng. Miệng giếng tròn xoay toàn bích khiến bất cứ ai tới chiêm
ngưỡng cũng phải thán phục bàn tay khéo léo, tài tình của những người
thợ xưa. Vết tích biết bao đời người dùng dây kéo nước tạo nên những
rãnh đá mòn lõm sâu hằn lên miệng giếng, có thể đặt vừa cả ngón tay. Các
nhà khảo cổ học đã xác định tuổi của giếng đá trên 600 năm.
Khi chúng tôi đề cập về Hoa Lâm, ông Nguyễn Văn
Quyết, trưởng thôn Dương Lôi ở Bắc Ninh lại đưa ra quan điểm rất khác
với những người ở Hoa Lâm. Theo ông Quyết, ở Dương Lôi vẫn còn dòng họ
Phạm nhận là dòng họ của bà Phạm Thị Ngà. Trong khi, ở Hoa Lâm lại có
dòng họ Nguyễn nhận là hậu duệ của tôn thất nhà Lý, như vậy chưa đủ
khẳng định Hoa Lâm là quê hương bà Phạm Thị Ngà. Bởi Hoa Lâm nằm kề kinh
đô Thăng Long, lại ở ngay ngã 3 hợp lưu của sông Hồng và sông Đuống,
nên được các vương tôn nhà Lý chọn làm nơi xây cung thất nghỉ ngơi, giải
trí, săn bắn. Hoa Lâm chỉ hình thành sau khi nhà Lý đã lên ngôi, như
vậy việc tại Hoa Lâm có dòng hậu duệ của các vương tôn nhà Lý còn truyền
đến ngày nay là hoàn toàn có thể lý giải được.