Tên họ thật của ông là
Lưu Hữu Phước, vốn người Bạc Liêu.
Cha mẹ ông là người ở Ngã Năm - Sóc Trăng
(hiện nay thuộc huyện Thạnh Trị tỉnh Sóc
Trăng) đến chợ Bạc Liêu lập nghiệp vào
thập niên 70 của thế kỷ XIX, đến năm
Nhâm Ngọ (1882) mới sinh ra ông.
Ngay từ nhỏ
ông đã nổi tiếng là một cậu bé thông minh
học đâu nhớ đó, năm lên 10 tuổi đã
đọc và viết được chữ Hán. Cha của
ông làm nghề viết liễn lại vừa là một
nhạc công rất thiện nghệ về đờn cò
(nhị cầm), nên ngoài những giờ học chữ Hán,
ông còn được cha truyền dạy về những bí
quyết về nhạc lễ và mỗi lần cha ông
được mời tham dự nhạc lễ ở
đâu ông cũng được đi theo để
học hỏi; vì vậy ngay từ thuở thiếu
thời ông đã có ấn tượng rất sâu sắc
về bộ môn nghệ thuật này.
Khi vừa
đến tuổi thành niên, ông tham gia vào một tổ
chức chống Pháp ở vùng ngoài (chưa xác định
được tổ chức nào). Hoạt động
được hơn một năm thì tổ chức bị
tan rã, ông phải chạy vào vùng Sài Gòn - Gia Định
ẩn náu trong vài ngôi chùa ở đây một thời gian khá
lâu. Rồi không biết do nợ trần đã dứt hay
muốn che giấu tai mắt của Pháp hoặc hoàn
cảnh đẩy đưa thế nào, ông lại
xuống tóc quy y, năm đó vừa tròn 20 tuổi (1902).
Lúc mới xuất gia, ông được sư phụ
đặt cho pháp danh là Đạt Bảo, sau đó mới
có thêm pháp tự là Nguyệt Chiếu. Người
truyền đạo cho ông lại rất giỏi về
nhạc lễ, nên ngoài việc trau dồi kinh luận
Phật học, ông còn được sư phụ
truyền cho những sở đắc về nhạc lễ.
Nguyệt Chiếu vốn đã có một ít căn bản
về nhạc lễ, nên khi học ông tiến bộ
rất nhanh, chỉ vài năm sau thì gần như đã
hấp thu trọn vẹn sở học của thầy.
Thầy của ông là người ưa vân du đây đó
lại có nhiều bè bạn là những thầy đờn
nổi tiếng ở khắp nơi; vì vậy trên
bước đường theo thầy đi đây đi
đó ông đã học hỏi được rất
nhiều điều hay điều lạ về nhạc
lễ cổ truyền.
Khi thầy viên
tịch, Nguyệt Chiếu mới trở về Bạc
Liêu, đầu tiên ông trú ngụ ở chùa Vĩnh
Phước An (hiện nay thuộc phường 2, thị
xã Bạc Liêu). Người trụ trì chùa lúc ấy là Hòa
thượng Minh Bảo (tục danh Lê Trừng Tâm), nguyên là
chú vợ của Nhạc Khị, nên Nhạc Khị cũng
thường lui tới ngôi chùa này để thăm nom chú
vợ của mình; cũng vì vậy Nguyệt Chiếu và
Nhạc Khị đã gặp nhau và có lẽ do “đồng
thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”
nên sau vài lần gặp gỡ hai người đã trở
thành đôi bạn tâm giao. Từ đó trở đi hai
người đã hợp tác với nhau thực hiện
rất nhiều công trình canh tân, sáng tác và chỉnh tu cổ
nhạc mở đầu cho sự hình thành trường
phái cổ nhạc Bạc Liêu, tạo dựng nhiều phong
trào: đờn ca tài tử, ca ra bộ, phục hưng
nhạc lễ cổ truyền.
Đầu thế
kỷ XX, phong trào canh tân và hiệu đính nhạc cổ
đã được nhen nhóm, Nhạc Khị là
người đầu tiên khơi động phong trào và
Nguyệt Chiếu có thể nói là nhân vật thứ hai - là
người cộng tác tích cực nhất cho Nhạc
Khị trong việc làm đầy ý nghĩa này. Chính ông
đã ra công sưu tầm, tập hợp và góp phần
hiệu đính bảy bản Bắc Lớn (thường
gọi bảy bản Lớn, cũng có nơi gọi là
bảy Bài, gồm các bản Xàng xê (64 câu), Ngũ
đối thượng (61 câu), Ngũ đối hạ (38
câu), Long đăng (40 câu), Long ngâm (33 câu), Tiểu khúc (29
câu) và Vạn giá (47 câu) của nhạc lễ cổ
truyền; suốt trong thời gian này ông phải sưu
tầm, nghiên cứu, chiết trung và đôi khi phải sáng
tạo để chắp vá vào những câu, những
đoạn bị mất không còn tìm lại
được. Những chỗ khó khăn hoặc sai sót
ông đều được sự góp ý của Nhạc
Khị nên công việc tiến hành rất thuận lợi
và cuối cùng đã hoàn thành mỹ mãn vào khoảng năm
1908. Các bản này đều được Nhạc
Khị nhuận sắc và áp dụng để giảng
dạy, sau đó đã được in trong Ca nhạc
cổ điển của Trịnh Thiên Tư.
Ở chùa Vĩnh
Phước An được vài năm, Sư Nguyệt
Chiếu được Hòa thượng Xuân Phong
(thường gọi ông Ký) mời về chùaVĩnh
Đức (hiện nay thuộc phường 1 thị xã
Bạc Liêu), tại đây ông thu nhận học trò
để phổ biến những phát hiện mới
về nhạc lễ. Học trò của ông rất đông
trong số đó có cả một số người
từng là học trò của Nhạc Khị như : Thiện
Ý, Thiện Ngộ, Thiện Thành, Hai Tố, Năm Phát,
Tư Quận, Chín Khánh, Trịnh Thiên Tư ... đến
học thêm ở ông về nghi thức nhạc lễ
cổ truyền. Ông giao du rất rộng, lại có rất
nhiều học trò trong đó có cả tục gia lẫn tu
sĩ nên đa số đình miếu chùa chiền và các ban
nhạc lễ trong tỉnh lúc bấy giờ đều có
qua lại với ông, nhất là hòa thượng An Hóa (Lê
Văn Thành) trụ trì chùa An Thạnh Linh ở làng Hòa Bình
(hiện nay là xã Hòa Bình, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh
Bạc Liêu) lại càng thân thiết, vì vị sư trụ
trì này nghe đâu cũng có một thời gian tham gia
chống Pháp, sau đó về ẩn cư ở Hòa Bình,
tại đây ông đã ra công vận động bà con
Phật tử để xây dựng chùa An Thạnh Linh.
Sư Nguyệt Chiếu và hòa thượng An Hóa hai
người có đồng cảnh ngộ nên chỉ
gặp gỡ vài lần họ đã rất thân và
thường lui tới với nhau.
Vào khoảng
năm 1925 Nguyệt Chiếu có nhận đào tạo
một đội nhạc công cho chùa An Thạnh Linh.
Những người theo học đã được
Nguyệt Chiếu hướng dẫn cả về nhạc
lễ lẫn đờn ca tài tử. Khi hướng
dẫn đờn ca tài tử ông chú trọng nhất là bài
Dạ cổ hoài lang của Cao Văn Lầu, có lẽ vì
điểm này nên đa số nghệ sĩ đều
hiểu lầm ông là tác giả của bài Dạ cổ,
thực sự ông chỉ là người phổ biến
bản nhạc mà thôi.
Chùa Vĩnh
Đức nơi ở sau cùng của Sư Nguyệt
Chiếu. Ảnh: TPT
Trong thời gian
dạy nhạc lễ và đờn ca tài tử vì ông là tu
sĩ nên không thể trực tiếp tham gia đờn ca
tài tử hoặc ca ra bộ, nhưng đệ tử của
ông lại có một số tham gia vào các phong trào này, nổi
bật nhất là Năm Nghĩa, Sanh Xía, Chín Quy... những
người này đều là những nhân tài ca cổ ở
Nam bộ, đã từng đóng góp rất nhiều công
sức bằng lời ca tiếng hát để phát huy
cổ nhạc Bạc Liêu trên mọi phương tiện
thông in đại chúng như đài phát thanh, dĩa hát... và
có những người đã trở thành diễn viên
nổi tiếng của sân khấu cải lương sau
này. Riêng Năm Nghĩa, đã phát huy sự nghiệp
của thầy, biến đổi giai điệu Dạ
cổ hoài lang thành giai điệu Vọng cổ qua bài
Văng vẳng tiếng chuông chùa, Năm Nghĩa đã
thật sự mở ra kỷ nguyên Vọng cổ, ông là
người có đầu công trong việc tạo dựng
bản nhạc nòng cốt của Cải lương.
Sư Nguyệt
Chiếu còn có một khả năng rất đặc
biệt, đó là tự làm được nhiều nhạc
cụ. Đây cũng là một biệt tài độc đáo
của ông, ông chỉ dùng những dụng cụ thông
thường của thợ mộc như bào, đục,
cưa, khoan, dùi, búa... để sản xuất ra rất
nhiều sản phẩm giá trị như : trống bản
(trống cái), trống đạo, trống cơm,
trống đôi, trống chầu, trống bác nhã (đại
cỗ), mỏ, bạc, đờn cò (nhị cầm),
đờn gáo (hồ cầm), đờn kìm (nguyệt
cầm)... Kể cả những loại nhạc cụ
thật xưa như: bồng, phách, ốc... ông cũng làm
rất khéo. Tiếc thay cái khả năng tuyệt vời
này không có người nối nghiệp.
Trong những
năm cuối đời, ông vẫn ở chùa Vĩnh
Đức. Vào ngày 16 tháng 8 năm Đinh Hợi (30-9-1947)
ông đã lặng lẽ rời khỏi cõi đời trong
tư thế thiền tọa sau giờ công phu khuya.
Sư Nguyệt
Chiếu đã ra đi từ sáu mươi năm qua,
nhưng sự nghiệp của ông để lại cho
đời quả thật là một sự nghiệp
đồ sộ. Ông đã trực tiếp đào tạo
một lực lượng lớn nghệ nhân nghệ
sĩ đàn ca tài tử, cải lương và nhạc
lễ cổ truyền, góp phần xây dựng phong trào
đàn ca tài tử từ những năm đầu thế
kỷ, chỉnh tu và hệ thống bảy bản bắc
lớn để làm nền tảng cho nhạc lễ
cổ truyền để từ đó làm cơ sở
chấn hưng nhạc lễ Phật giáo ở Nam bộ,
đặt tên cho bản Dạ cổ hoài lang của ông Cao
Văn Lầu đồng thời phổ biến thật
rộng bản này trong quần chúng. Các học trò của
Sư Nguyệt Chiếu đa số là những nghệ
sĩ có đủ bản lĩnh, có khả năng làm cho
bản Vọng cổ như một dòng mạch cứ tuôn
chảy cùng khắp non sông đất Việt và cứ lan
dần đến nhiều địa phương khác và
nước ngoài. Việc làm tốt đẹp này là công
lớn của nghệ sĩ Năm Nghĩa, nhưng
nếu truy nguyên về đầu mối của nó cũng
từ Sư Nguyệt Chiếu mà ra. Đa số những
nghệ nhân trong giới nhạc lễ ở Bạc Liêu
đều công nhận Sư Nguyệt Chiếu là một
nhạc sĩ tiền bối có công lớn nhất trong việc
kế thừa bộ môn nghệ thuật này.
Sư
NguyệtChiếu là một người đã có những
đóng góp quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy
văn hóa truyền thống ở tỉnh Bạc Liêu.