KHỞI NGUYÊN PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Trần Tri Khách
Khởi nguyên Phật giáo Việt Nam không
chỉ là vấn đề riêng của Phật giáo. Nó liên quan tới giai đoạn cổ sử của đất
nước, một giai đoạn xây dựng nền tảng văn hóa cho dân tộc có nhiều huyền thoại
hơn sự thật, nhiều giả thuyết hơn là chứng liệu lịch sử. Cho nên những sử liệu
Phật giáo trong giai đoạn này tuy ít ỏi cũng góp phần quan trọng giúp soi rọi
lại một thời quá khứ xa xưa mà chúng ta có thể hãnh diện, một di sản tiền nhân
để lại trong đó Phật giáo góp phần quan trọng.
Sử gia Lê Mạnh Thát trong bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt
Nam gọi thời khởi nguyên là thời kỳ Phật Giáo Quyền Năng kéo dài từ thời Hùng
Vương thứ 17 (với người Phật tử đầu tiên là Chử Đồng Tử) tới năm 544 khi Lý Bôn
xưng đế sau khi khởi nghĩa thành công và dựng chùa Khai Quốc trên nền chùa
cũ Liên Trì ở Long Biên. Như đã trình bày trong bài “Giòng Chảy Phật Giáo Việt
Nam”, chúng tôi đề nghị thời kỳ khởi nguyên bắt đầu từ buổi đầu Phật giáo du
nhập vào nước ta (cuối thời đại Hùng Vương) cho tới khi chấm dứt chính quyền
Trưng Vương năm 43.
Biến cố năm 43 có ý nghĩa quan trọng đối với dân tộc. Cuộc
khởi nghĩa của Trưng Vương là nỗ lực cuối cùng của giới lãnh đạo Lạc hầu, Lạc
tướng dành lại độc lập cho đất nước Văn Lang. Cho nên thời đại Hùng Vương chỉ
thực sự chấm dứt sau khi Trưng Vương thất trận và trầm mình xuống sông Hát.
Cuộc khởi nghĩa Trưng Vương đồng khởi trên một vùng rộng lớn
từ Thanh Hoá tới 5 tỉnh phía Nam Trung Quốc (rộng gấp đôi lãnh thổ nước ta hiện
nay) và thành công trong một thời gian ngắn, cho thấy yếu tố dân tộc phải là
động lực chính. Theo Lê Mạnh Thát (Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam tập 1 tr. 159):
sau biến cố này, Phật giáo nước ta bắt đầu dứt khoát bản địa hoá giáo
lý, bản địa hoá tư tưởng để thích nghi với truyền thống văn hoá thời Hùng
Vương, bằng cách gởi gấm một số yếu tố dân tộc vào kinh điển Phật giáo nhằm
chống lại nỗ lực đồng hoá của nhà Hán từ phương Bắc (chẳng hạn qua bản dịch Lục
Độ Tập Kinh và Cựu Tạp Thí Dụ Kinh). Chính nhờ những nỗ lực này được tiếp tục
nuôi dưỡng mà Phật giáo nước ta đã tạo được những thành tựu lớn trong suốt thời
Bắc thuộc lần thứ nhất (sẽ được giới thiệu ở cuối bài).
Khi Phật giáo du nhập vào thủ phủ Luy Lâu dân tộc ta đang
xây dựng nền tảng văn hoá. Vì vậy, trước khi tìm hiểu những đặc điểm của thời
kỳ khởi nguyên Phật giáo Việt Nam, chúng ta cũng nên tìm hiểu thời khởi nguyên
của dân tộc. Do đó, những chủ đề sau đây sẽ được tìm hiểu:
* Thời đại Hùng Vương, khởi nguyên của xã hội Việt tộc.
* Ảnh hưởng Ấn Độ trong thời kỳ khởi nguyên của Phật giáo
nước ta.
* Chử Đồng Tử không phải là người Phật tử đầu tiên.
* Phật giáo nước ta thời Hai Bà Trưng.
1- THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG, KHỞI NGUYÊN CỦA XÃ HỘI VIỆT TỘC
Theo truyền thuyết, thời đại Hùng Vương có niên đại từ năm
2879 TTL tới năm 258 TTL. 18 đời vua kéo dài hơn 26 thế kỷ là sự kiện khiến
giới sử học nước nhà đặt dấu hỏi nghi ngờ. Có lẽ chỉ có Lê Mạnh Thát là sử gia
bênh vực cho sự hợp lý của niên đại này. Ông lập luận (sđd tr. 24): mỗi đời
Hùng Vương thực ra gồm nhiều vị vua nối tiếp nhau mang cùng tên hiệu, nên trung
bình một đời vua Hùng kéo dài tới 130 năm là điều có thể chấp nhận được.
Ông cũng cho rằng thời đại Hùng Vương kéo dài đến triều đại Trưng Vương.
Tuy nhiên, giới sử học nước ta ngay từ cuối đời nhà Trần
(tác phẩm Đại Việt Sử Lược, khuyết danh, khoảng 1377-1388) đã ghi: đời Trang
Vương nhà Chu bên Tầu (696-682 TTL) có người lạ dùng ảo thuật quy phục các bộ
lạc, xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, truyền được 18 đời. Trong nửa
thế kỷ qua, các sử gia không chỉ bàn cãi về sự không hợp lý của niên đại Hồng
Bàng theo truyền thuyết mà còn đưa ra những giả thuyết về một niên đại mới.
Phạm Văn Sơn viết năm 1960 (Việt Sử Toàn Thư, tr.46): họ
Hồng Bàng bắt đầu từ thế kỷ 9 TTL khi một nhà quý tộc họ Mị thống nhất một số
thị tộc Việt lên làm vua, bắt chước các vua Sở lấy chữ Hùng làm hiệu. Theo
ông, mười tám đời Hùng Vương bắt đầu từ Kinh Dương Vương.
Theo Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Thời Hùng Vương Qua Truyền
Thuyết và Huyền Thoại), năm 1992 Hội Đồng Khoa Học Lịch Sử Việt Nam ở Hà Nội đã
gởi kiến nghị lên Quốc Hội đề nghị sửa lại cụm từ “trải qua 4000 năm lịch sử”.
Một chủ nhiệm khoa Sử đã viết rõ hơn về đề nghị này: giới hạn đầu cho thời đại
dựng nước của Việt Nam là khoảng 2500-2700 năm trước, phù hợp với ghi chép của
sách Việt Sử Lược (dẫn theo Tạ Chí Đại Trường, Một Thoáng Nhìn Về Sử Học Quốc
Nội, tạp chí Văn Học, số 219, California 7.2004).
Bùi Thiết (Đối Thoại Sử Học, nxb Thanh Niên, Hà Nội 2000)
phụ hoạ quan niệm trên, cho rằng một đời vua Hùng trung bình khoảng 30 năm,
nên thời Hùng Vương kéo dài khoảng 5 thế kỷ, nghĩa là bắt đầu từ thế kỷ 7 TTL.
Trong bài Nhìn Lại Sử Việt đăng trên mục Quê Mẹ trang web www.hoasentrang.de, tác giả Yên Sơn cho rằng huyền thoại Rồng Tiên khởi
thủy của họ Hồng Bàng do Việt Vương Câu Tiễn (496-465 TTL) ra lệnh cho hai cận thần
là Phạm Lãi và Văn Chủng viết sau khi vua Ngô Phù Sai tự sát và việc phục quốc
của nước Việt thành công.
Theo Trần Gia Phụng, trong bài Vài Ý Nghĩa Về Truyền Thuyết
Hùng Vương (trang web www.thuvientieulun.org tháng 5.2003), triều đại Hồng Bàng được sử gia Ngô Sĩ
Liên đưa vào Đại Việt Sử Ký Toàn Thư là do lệnh của vua Lê Thánh Tông
(1460-1497). Các bộ sử viết trước ĐVSKTT không có kỷ Hồng Bàng.
Một số tài liệu sau đây giúp chúng ta thêm ý niệm về sự hiện
diện của triều đại Hùng Vương:
A- Theo Lê Mạnh Thát (sđd tr. 23), hiện nay có 3 bản ngọc
phả về thời đại Hùng Vương. Bản thứ hai chép tay vào thời Khải Định (1916-1925)
hiện tàng trữ tại đền Hùng huyện Vĩnh Phú tỉnh Phú Thọ, có ghi là được chép lại
từ một bản thuộc đời vua Lê Đại Hành (niên hiệu Thiên Phúc 980-988).
B- Theo thống kê của UBND tỉnh Phú Thọ (trang web www.laodong.com.vn ngày 9.5.2004) cả nước có 1065 di tích liên quan tới các
vua Hùng, nhiều nhất tại Hà Tây (365), Phú Thọ (312), Hà Nội (135), Hưng Yên
(61), Vĩnh Phú (52) và Hải Dương (40).
C- Họ Ma thuộc bộ tộc người Tày ở Việt Trì còn lưu giữ được
gia phả và thần phả dòng họ từ thời Hùng Vương. Ông tổ Ma Khê được vua Hùng
phong làm Lương Tướng. Đình làng Văn Khúc thờ Ma Khê, có sắc phong Phụ
Quốc Đại Thần Đại Tướng Quân Ma Khê. Đời hiện nay của dòng họ này là cụ Ma
Văn Thực, bố của ca sĩ Ma thị Bích Việt (a).
D- Tại quần thể Thiên Tổ Miếu ( thôn Hương Lan xã Trưng
Vương, Việt Trì) có Thiên Cổ Miếu thờ vị thầy giáo Vũ Thê Lang đời Hùng
Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương). Bố ông thuộc gia đình có học, vì cảnh nhà sa sút
đã tìm tới kinh đô Phong Châu mở lớp dạy học. Ông Vũ Thê Lang kế tục công việc
của bố ông (b).
E- Văn bia thần tích đền Lý Nam Đế (làng Giang Xá, huyện
Hoài Đức, Hà Nam) soạn vào đời Lê, ghi Lý Nam Đế chọn ngày giỗ Tổ Hùng Vương 10
tháng 3 năm Nhâm Tuất (10.4.542) làm ngày khởi nghĩa (c).
Có thể nói rằng triều đại Hùng Vương là chính quyền đầu tiên
của xã hội Việt tộc. Một số phát hiện khảo cổ gần đây giúp chúng ta tìm hiểu
thêm về xã hội thời khai nguyên đó.
Phát hiện mới nhất (nhật báo Nhân Dân, Hà Nội 23.9.2004) là
hai bộ hài cốt có niên đại cách nay khoảng 3700 năm thuộc nền văn hoá Phùng
Nguyên, khai quật vào tháng 12.2002 tại xóm Rền (xã Gia Thạnh huyện Phù Ninh,
Phú Thọ), hiện được trưng bày tại Nhà Bảo Tàng tỉnh Phú Thọ. Kết quả khảo
nghiệm sơ khởi: người Việt cổ ăn trầu và cà răng.
Qua nhiều đợt khảo cổ khác tính tới tháng 11.2003 với những
mảnh gốm thô, rìu và bàn đá mài cùng các mảnh vòng bằng đá Nephrite xanh tím
đặc biệt của thời kỳ Phùng Nguyên trên lớp đất canh tác dày khoảng 20 cm, các
nhà khảo cổ cho rằng trong thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên (cách nay 3500 – 4000
năm) đã có cư dân ở khu vực Cổ Loa (huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội).
Theo báo cáo của PTS Trịnh Sinh (nhật báo Lao Động, Hà Nội
5.11.2002), các cuộc khai quật tại làng cổ Đông Lâm (xã Đông Lâm huyện Hiệp
Hoà, Bắc Giang) vào tháng 10.2002 đã tìm thấy một nền nhà 3.5 x 4 m đắp đất nện
chặt, giữa có bếp lửa với những mảnh gốm vỡ, đất nung và tro than. Các cổ vật
tìm thấy còn có: 7 mũi tên bằng đồng các loại, mũi lao bằng xương, những viên
đạn nhỏ như viên bi bằng gốm (thổi đi bằng ống đồng), những nồi nấu bằng gốm có
hoa văn hình song nước, 3 mảnh nồi rót đồng để đổ vào khuôn bằng gốm, 1 mảnh
khuôn đúc đồng bằng sa thạnh và nhiều mảnh đồng vụn, 2 chiếc dọi để se chỉ bằng
gốm, một số kim khâu bằng đồng và 2 chiếc khuy áo bằng đá ngọc hình tròn có lỗ
xuyên qua, 8 chiếc khuyên tai và vòng đeo tay chế tạo tinh xảo theo cách khoan-mài-đánh
bóng, 1 chiếc qua (chiếc rìu lưỡi sắc có mũi giáo nhọn ở đầu gắn vào cán dài.
Di chỉ này có niên đại cách nay khoảng 3400 năm. Trước đây quanh làng cổ Đông
Lâm người ta đã tìm được trống đồng (tháng 1.1975 cách 1km tại xã Bắc Lý, tháng
2.1998 cách 5 km tại xã Mai Trung).
Các phát hiện trên cho thấy từ thế kỷ 15 TTL hoặc trước đó,
xã hội Việt cổ không còn ở nhà sàn, đã biết dệt vải và trình độ đồ đồng đã tinh
xảo để có thể chế tạo được những chiếc kim và vũ khí sắc nhọn. Chắc chắn đó
phải là một xã hội nông nghiệp đã có tổ chức, có chính quyền và có luật lệ để
ổn định trật tự trong việc phân công sinh hoạt. Theo Trần Gia Phụng, nền văn
minh Phùng Nguyên (huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ) khoảng 3000 năm TTL giữa thời
kỳ đồ đá và đồ đồng là căn bản của nước Văn Lang và thời đại Hùng Vương (Đại
Cương Văn Minh Việt nam, tiết 2: Đại Cương Về Lịch Sử Việt Nam, trang web Viện
Việt Học www.viethoc.org).
Với những chứng liệu trên, phải chăng quan niệm Hùng Vương,
chính quyền đầu tiên của Việt tộc, chỉ bắt đầu từ thế kỷ 7 TTL có thể coi như
một giả thuyết vội vàng vì với tốc độ đô thị hoá và khai thác du lịch khá nhanh
ở miền Bắc nước ta, nhiều vùng đất đai sẽ được đào xới, tạo cơ hội cho ngành
khảo cổ học có thêm những cuộc khai quật mới hứa hẹn nhiều khám phá mới.
Nói tóm lại, với triều đại Hồng Bàng là chính quyền đầu tiên
ổn định một thời gian dài trong nhiều thế kỷ, xã hội Việt tộc gồm nhiều bộ tộc
kết hợp lại với nhau đã có một nền văn hoá rõ rệt. Nhìn vào lịch sử truyền bá
đạo Phật ở ngoài Ấn Độ, chúng ta nhận thấy Phật giáo trước nhất làm quen với
tầng lớp trí thức bản địa. Nghĩa là đạo Phật chỉ có đủ thuận duyên nếu du nhập
vào một xã hội có nền tảng văn hoá đang được xây dựng và phát triển. Nghĩa là
một xã hội tạo nên môi trường tinh thần trong đó người dân bắt đầu có những
thắc mắc về sinh tử, về giải pháp tâm linh cho những hệ lụy trong đời sống mà
tín ngưỡng thần linh không cung cấp được những giải đáp thỏa đáng. Chính môi
trường tinh thần đó đã tạo nên bước đầu thuận lợi khuyến khích những tu sĩ Phật
giáo Ấn Độ khi tới thủ phủ Luy Lâu của nước Văn Lang truyền bá Phật pháp.
Sự kiện này cần được lưu ý đặc biệt khi đề cập đến công lao
của các thái thú Tích Quang (năm 2) và Nhâm Diên (năm 29). Không thể nói họ đã
có công khai hoá dạy dân ta lễ nghĩa, và canh tác. Có chăng hai thái thú này đã
củng cố chính quyền thực dân một cách khôn khéo bằng cách chỉ dạy dân ta những
cách sinh hoạt phù hợp với lối sống của người Hán lưu dân qua lánh nạn Vương
Mãng (năm 8-23) để có thể trở thành hữu ích hơn trong việc phục dịch lao
động.
2- ẢNH HƯỞNG ẤN ĐỘ TRONG THỜI KỲ KHỞI NGUYÊN CỦA PHẬT GIÁO
NƯỚC TA
Nền văn hoá Trung Quốc chỉ bắt đầu tạo được ảnh hưởng
trên đất Giao Chỉ khi tổ tiên chúng ta rơi vào ách đô hộ của nhà Hán. Trước đó,
ảnh hưởng của Ấn Độ đã định hình rõ rệt trên đất nước ta. Các sử gia Phật giáo
như Lê Mạnh Thát (Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, tập 1) và Nguyễn Lang, một bút
hiệu của Nhất Hạnh (Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 1), đều cho rằng vào thời
Hùng Vương tổ tiên ta dùng lịch pháp Ấn Độ. Lê Mạnh Thát căn cứ vào 10
truyện trong Lục Độ Tập Kinh cho rằng theo lịch pháp này một năm có 360 ngày
chia thành 4 mùa gồm 12 tháng, tháng có 30 ngày (sđd tr. 63-4). Ông còn trích
dẫn một báo cáo của Lưu An (chết năm 122 TTL) ghi lại trong Tiền Hán Thư, theo
đó từ thời Tam Đại (gồm nhà Hạ 2140 TTL – 1711 TTL, nhà Thương hay nhà Ân 1711
TTL – 1066 TTL và nhà Chu 1066 TTL – 256 TTL) tổ tiên ta đã không chịu dùng
lịch pháp Trung Quốc (sđd tr. 66) (d).
Theo Lâm Như Tạng (e), ngay từ trước Tây lịch
(TTL) người Ấn có thể đến Giao Chỉ bằng đường bộ lẫn đường biển. Nếu dùng đường
bộ, họ có thể từ Nam Ấn vượt biển qua bán đảo Mã Lai rồi tới Thái Lan,
Kampuchia và vào nước ta. Hoặc phát xuất từ Trung Ấn theo sông Kanburi xuống
châu thổ sông Menam tới sông Cửu Long vào đất Lào, xâm nhập Thanh Hóa, Nghệ An
để tới thủ phủ Luy Lâu của nước ta. Trên cả hai tuyến đường này, các nhà khảo
cổ đã tìm được các cổ vật Ấn Độ và di tích Phật giáo. Chẳng hạn tượng Phật tìm
thấy ở Đồng Dương (Quảng Nam) là một trong những tác phẩm điêu khắc đẹp nhất
thuộc trường phái Amaravati Ấn Độ, có thể từ trước Tây lịch.
Dẫn theo R. Sewel (Roman Coins found in India, 1904),
Lâm Như Tạng cho rằng thương gia Ấn Độ tìm đến các nước Đông Á và Giao Chỉ để
mua vàng bạc, ngọc thạch, tiêu, quế và gỗ trầm hương. Nhất là vàng, vì Ấn Độ
tiêu thụ nhiều vàng. Trước đây họ mua vàng từ Siberia. Các đợt di dân quy mô ở
Trung Á vào thế kỷ 2 TTL gây trở ngại cho lộ trình mua vàng này. Sau đó người
Ấn mua vàng từ La Mã, nhưng chẳng được bao lâu La Mã không bán vàng nữa. Vào
giai đoạn này, người Ấn tin tưởng Phật Nhiên Đăng Quang hộ trì nếu họ chí thành
niệm danh hiệu ngài. Vì vậy thương gia Ấn khi hải hành thường đem theo
các tượng Phật và Bồ tát. Có khi họ mời vài vị tăng sĩ Phật giáo cùng đi với
họ. Nếu họ tới Luy Lâu, hoặc họ phải chờ tới mùa gió năm sau mới cho thuyền trở
về được, hoặc họ ở lại định cư làm ăn như trường hợp bố mẹ thiền sư Khương Tăng
Hội. Có thể từ những tăng sĩ Phật giáo và những thương gia Phật tử tích cực
người Ấn nói trên, Phật giáo đã du nhập vào Luy Lâu. Nhà sử học người Nhật
Kamata (Trung Quốc Phật Giáo Thông Sử, Tokyo 1981, dẫn theo Lâm Như Tạng, bài
dẫn trên) cho rằng Phật giáo truyền từ Luy Lâu sang Trung Quốc, từ Trung Quốc
truyền qua Triều Tiên rồi từ đây qua Nhật Bản). Thích Mật Thể (Việt Nam Phật
Giáo Sử Lược, tr. 69) dẫn theo hai nhà Đông Phương học Sylvain Levi và Pellot
cho rằng Trung Quốc và Ấn Độ giao thương với nhau từ năm 145 TTL qua cửa ngõ
đất Văn Lang (tên nước ta thời Hùng Vương) làm trung gian. HT Thích Đức Nhuận
(Đạo Phật và Dòng Sử Việt) cũng cho rằng vào thế kỷ 3 TTL có phong trào di dân
rộng lớn tại Ấn từ xứ Kalinga ở phía Tây sang phía Đông và xuống phía Nam, có
thể đưa một số tăng sĩ Phật giáo Ấn tới nước ta truyền đạo.
3- CHỬ ĐỒNG TỬ KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI PHẬT TỬ ĐẦU TIÊN
Những dẫn chứng trên đưa tới giả thuyết: các tăng sĩ
Ấn Độ có thể đã tới cảng Luy Lâu nước ta truyền bá Phật pháp từ trước Tây Lịch.
Từ đó một giả thuyết đã được đặt ra: phải chăng Chử Đồng Tử là người Phật tử Việt
đầu tiên?
Giả thuyết trên dựa vào tác phẩm Lĩnh Nam Trích Quái
(truyện Nhất Dạ Trạch) của Trần Thế Pháp, một danh sĩ đời Trần, được Kiều Phú
và Vũ Quỳnh hiệu đính khoảng 1490-1493. Theo đó, Chử Đồng Tử dẫn thuyền buôn
vào núi Quỳnh Viên, Mẫu Sơn (hay núi Mẹ ở Đồ Sơn) lấy nước ngọt, gặp nhà sư
Phật Quang người Thiên Trúc tuổi hơn 40 (còn gọi là sư Bần) tại một hang núi.
Họ Chử được sư truyền pháp, lại trao cho gậy và nón.
Giả thuyết này được sư Phúc Điền (sống khoảng thế kỷ 19) ghi
lại trong sách Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục. Lê Mạnh Thát là người nhiệt
thành nhất trong việc khai triển và bảo vệ giả thuyết này (f). Có một số
điểm cần được nêu lên và giải đáp trước khi chấp nhận vai trò của Chử Đồng Tử
như là người Phật tử đầu tiên. Chúng ta thử xem xét các chứng liệu có được về
nhân vật lịch sử này:
A- Lĩnh Nam Trích Quái ghi chuyện Chử Đồng Tử xảy ra khi vua
Hùng truyền đến cháu đời thứ 3. Dù cho rằng thời đại Hùng Vương bắt đầu vào
năm 2879 TTL theo truyền thuyết, hay chỉ có mặt từ thế kỷ 7 TTL (với một đời
vua trung bình khoảng 30 năm như giả thuyết của Bùi Thiết trong Đối Thoại Sử
Học) thì thời điểm chấm dứt của vua Hùng cuối cùng vẫn được các sử gia chấp
nhận là năm 258 TTL. Như vậy sự việc Chư Đồng Tử được truyền pháp nêu trong
Lĩnh Nam Trích Quái nói trên xảy ra khá lâu trước khi vua Asoka cử các phái
đoàn truyền bá Phật pháp ngoài Ấn Độ. Diễn giải của Lê Mạnh Thát (sđd, tr.25)
cho rằng Chử Đồng Tử xuất hiện vào đời Hùng Vương 17, Hùng Nghị Vương. Lĩnh Nam
Trích Quái là tài liệu duy nhất cho biết thời đại của Chử Đồng Tử nhưng niên
đại lại quá mơ hồ.
B- Chử Đồng Tử là một trong 4 vị thánh của tín ngưỡng dân gian
nước ta (Tứ Bất Tử: Thánh Tản Viên, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử và bà
chúa Liễu Hạnh ). Ở phủ Khoái Châu, Hưng Yên có hai đền thờ Chử Đồng Tử với hai
bà vợ. Đền làng Đồng Tảo thờ Chử Đồng Tử, công chúa Tiên Dung và bà vợ thứ hai
là Ngài Hoa. Ở đền làng Đa Hoà, bà vợ hai được thờ là một tiên nữ đội lốt người
phàm giáng trần tại làng Ông Đình phủ Khoái Châu. Không có đền thờ Chử Đồng Tử
nào ở miền Bắc thờ ông như một Phật tử. Không có thần phả nào về ông cho thấy
có sự liên hệ sâu đậm giữa ông và Phật giáo. Trái lại, ông được xưng tụng là
Chử Đạo Tổ, là người ở cõi trời giáng trần khai sáng đạo thờ tiên. Ông
cũng được coi là người đầu tiên mở mang khai phá đồng trũng thành cánh đồng
trồng dâu, nuôi tằm dệt vải và là thương gia đầu tiên của nước Văn Lang có tàu
buôn giao dịch thương mại với nước ngoài.
C- Vua Asoka ( A Dục) chủ trương tôn trọng tất cả các tôn giáo.
Trong pháp dụ khắc trên trụ đá số 7 năm 242 TTL, nhà vua tuyên bố: Trẫm đã
tôn kính mọi tôn giáo bằng cách cúng dường. Nhưng tốt hơn hết là trực tiếp thăm
viếng họ. Ông cũng nhắn nhủ thần dân: Bất kỳ ai tôn trọng tôn giáo của
mình nhưng lại chỉ trích tôn giáo khác, nghĩ rằng “ tôi sẽ làm rạng rỡ tôn giáo
của tôi”; nhưng thật là trái ngược, khi làm như vậy người đó đã làm thương tổn
tôn giáo của mình một cách nghiêm trọng. Như vậy vào thời vua Asoka, ở Ấn
Độ không chỉ có Phật giáo mà cả Kỳ Na giáo (Jaina hay Jains), Ấn Độ giáo (Bà La
Môn) và giáo phái Ajivika chuyên tu khổ hạnh cũng có thể được truyền ra nước
ngoài. Trong Lĩnh Nam Trích Quái, khi trao gậy và nón cho Chử Đồng Tử, sư Phật
Quang nói: Linh dị và thần thông ở đây cả. Không thể nói rằng Phật Quang
được Lĩnh Nam Trích Quái gọi là sư, tất phải là tu sĩ Phật giáo. Một thí
dụ: Hạng Lang (được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm thái tử nên bị anh là Nam
Việt Vương Đinh Liễn ganh tị giết chết), được ghi tên trong các cột đá khắc
kinh do Đinh Liễn dựng năm 973 tại kinh đô Hoa Lư là Đại đức
Đỉnh-noa-tăng-noa không có nghĩa Hạng Lang là một tu sĩ Phật giáo đã thọ
giới tỳ kheo (g). Trước khi được Phật giáo sử dụng, đại đức
là danh hiệu dùng trong Lão giáo.
Với những lý do nêu trên, giả thuyết Chử Đồng Tử là người Phật tử đầu tiên của
đất nước ta chưa đủ sức thuyết phục. Bởi vì nếu là tu sĩ Phật giáo gốc Ấn đi ra
nước ngoài truyền đạo, không lý gì sư Phật Quang lại vào hang núi ở Đồ Sơn mà
lánh đời ẩn tu.
Nguyễn Duy Hinh (h) cho rằng Kỳ Na giáo đã xuất hiện
trước Phật giáo đại thừa tại nước Lâm Ấp (ở phía nam nước ta) và tồn tại tới thế
kỷ III- IV trước khi bị loại dần bởi ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ IV-V.
Một nước ở gần Ấn Độ hơn (hiện nay coi Phật giáo là quốc giáo) là Miến Điện chỉ
thực sự du nhập đạo Phật từ thế kỷ 1, nghĩa là trước đó có thể các tôn giáo Ấn
Độ khác truyền đạo thành công hơn tăng đoàn do các sư Sona và Uttara hướng dẫn
(i). Cho nên cũng cần đặt giả thuyết sư Phật Quang có thể là người Ấn mà
cũng có thể là người da đậm màu thuộc các sắc dân Nam đảo, có thể là nhà sư Bà
La Môn, Kỳ Na giáo hay khổ hạnh giáo Ajivika (j) và cũng có thể là một
đạo sĩ đạo tiên, nhưng khó có thể chấp nhận ông là nhà sư Phật giáo.
Huống chi truyền thuyết về Chử Đồng Tử cho biết Phật Quang
là một cụ già tên tự là Minh Chương, tên hiệu là Đằng Hải tiên sinh, chủ động
Quỳnh Viên là một trong 36 cung tiên. Cuốn Hội Chân Biên của Thanh Hoà
Tử in năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) liệt kê 27 vị thần sanh ra hoặc sống trên đất
nước ta, trong đó có Chử Đồng Tử.
Một câu hỏi được đặt ra: nếu Chử Đồng Tử (con rể không
được thừa nhận của một trong những vua Hùng vì chỉ là một tên nghèo tới mức
không có cái khố để che thân được công chúa Tiên Dung nhận làm chồng trước khi
vua Hùng cho phép) không phải là người Phật tử đầu tiên thì Phật giáo du nhập
vào đời sống tâm linh của dân Việt từ lúc nào? Chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần sau.
4- PHẬT GIÁO THỜI TRƯNG VƯƠNG
Năm 34 Tô Định được nhà Hán cử làm Thái thú Giao Chỉ
thay thế Nhâm Diên (năm 29-33). Khác với các thái thú Tích Quang và Nhâm Diên
chủ trương đồng hoá về văn hoá để tạo nên một tầng lớp tay sai bản xứ, làm chỗ
dựa vững chắc cho việc thống trị, Tô Định thi hành chính sách kiểm soát chặt
chẽ và tàn bạo nhằm hỗ trợ cho bọn quan lại bóc lột và kiều dân Hán chạy loạn
Vương Mãng bên Tầu (năm 8-23) qua chiếm đất đai của nông dân Giao Chỉ. Do đó
cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng mang ý nghĩa cuộc khởi nghĩa của nông dân
trước nguy cơ bị mất ruộng nên đã được sự hưởng ứng nhanh chóng của quần chúng
khắp 7 quận 56 huyện thuộc Giao Chỉ Bộ (k). Cuộc khởi nghĩa này có ba
đặc điểm cần được lưu ý:
·
Lãnh thổ khởi nghĩa rất rộng. Theo
cuộc khảo sát thực địa của Trần Đại Sĩ, tại 5 tỉnh phía Nam Trung Quốc tiếp
giáp nước ta (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên) có hơn 100
đền miếu thờ các danh tướng của Trưng Vương. Tại Bắc bộ và Trung bộ nước ta, có
hơn 300 làng quê có đền thờ và lưu truyền các truyện kể về lịch sử và huyền
thoại thời Trưng Vương (l). Cuộc khởi nghĩa Trưng Vương xảy ra vào thời
Hán Quang Vũ là thời thịnh trị nhất của nhà Hậu Hán, Mã Viện lại là một tướng
giỏi có nhiều kinh nghiệm chiến trường, từng ở trong bộ tham mưu của Lưu Tú
(vua Hán Quang Vũ) từ năm 32. Tháng 1 năm 42, ngay sau khi đàn áp xong cuộc
khởi nghĩa của Lý Quảng (ở An Huy) chưa được nghỉ ngơi, Mã Viện lại được vua
Hán Quang Vũ sai đi dẹp Hai Bà Trưng.
·
Nữ tướng thời Trưng Vương chiếm tới
phân nửa tổng số tướng lãnh, nhiều người đảm trách các chức vụ trọng yếu như
nàng Quốc phụ trách thủy quân, nàng Thục phụ trách tình báo. Cũng theo Trần Đại
Sĩ trong bài đã dẫn, trong 162 anh hùng liệt nữ phò tá Trưng Vương, hơn 100
người là nữ tướng. Có lẽ đây là lần duy nhất trong lịch sử thế giới một phụ nữ
lãnh đạo đất nước được nhiều phụ nữ tích cực phò tá như vậy. Cleopatra của cổ
Ai Cập, Lữ hậu thời nhà Hán, Võ Tắc Thiên thời nhà Đường của Trung Quốc không
có được sự ủng hộ tận tình của nữ giới trong nước.
·
Một hiện tượng đặc biệt khác là có
nhiều gia đình cùng tham gia vào cuộc khởi nghĩa. Chẳng hạn vợ chồng Đinh
Lượng-Phùng Thị Chính ở Sơn Tây, vợ chồng Tạ Thị Cẩn - Đỗ Năng Tế ở Mê Linh, ba
chị em Đạm Nương-Hồng Nương-Thanh Nương ởVĩnh Phú, bốn chị em Trương Phương
Dung-Trương Mích Xích -Trương Thuần Mỹ - Trương Công Phú ở làng Nan (Thái
Bình), chị em Nguyệt Thai -Nguyệt Độ ở Thiên Thai (Bắc Ninh),chị em Đinh
Bạch-Đinh Tĩnh ở bến Chèm, chị em Ả Lan-Anh Tuấn ở Đường lâm (Thanh Hoá), anh
em Đào Đạo -Đào Đạt ở Chí Linh, bà Lý thị Ngọc Ba và 5 người con ở đất Cốc (Hà
Tây), mẹ con bà Nguyễn Nguyên Chân ở Đồng Đường gần hồ Lãng Bạc …. Những thành
phần trên đều là các tướng lãnh quan trọng của Trưng Vương. Trước đó họ đã vận
động chống lại sự đô hộ khắc nghiệt của nhà Hán nhưng không thành công.
Không dễ gì kiếm được một triều đại nào trên thế giới thời thượng và
trung cổ có nhiều gia đình cùng dấn thân chung lo việc nước trong cùng một thời
gian, cùng một địa điểm như thế.
Chúng ta cũng phải nhận ra rằng một vợ một chồng đã là yếu
tố chủ đạo trong nền tảng gia đình Việt tộc từ trước thời Trưng Vương.
Chính yếu tố này đã tạo nên tình trạng thuận vợ thuận chồng chấp nhận
vượt qua gian lao hiểm nguy cùng chung lo việc nước. Như vậy phải chăng chế
độ đa thê là sản phẩm của Trung Quốc thời cổ du nhập vào nước ta qua các chế độ
đô hộ? Và quan niệm cho rằng thời Trưng Vương xã hội ta theo chế độ thị tộc
mẫu hệ thiếu hẳn sức thuyết phục.
·
Một điều lý thú là Phật giáo đã có
những liên hệ gắn bó với cuộc khởi nghĩa của Trưng Vương. Điều này cho thấy Phật
giáo nước ta đã ở trong dân tộc, đã gắn bó với dòng sinh mệnh của đất nước ngay
từ 2000 năm về trước.
Qua các thần phả được phổ
biến, một kiểm điểm sơ khởi cho thấy các tướng lãnh sau đây của Hai
Bà Trưng có liên hệ với Thiền môn:
A- Hoàng Thiều Hoa (3-40): bà tu tại chùa Phúc Khánh (nay là
chùa làng Hiền Quan ở tỉnh Phú Thọ) năm 16 tuổi sau khi mồ côi cha và mẹ. Theo
thần phả, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng, bà rời chùa mộ được 500 nghĩa
binh tham gia cuộc khởi nghĩa và trở thành tướng tiên phong của Trưng
Vương. Sau khi Trưng Vương dẹp yên 65 thành, bà xin trở lại chùa tu và tịch năm
40. Bà được xưng tụng là Diệt Bạo Tướng Phật. Chữ Phật có người
cho là một sáng tạo của pháp sư Huyền Tráng (gồm bộ Nhân bên trái và chữ
Phất bên phải) khi ông dịch kinh tại Tràng An (645-664). Các nhà dịch kinh
Trung Quốc thời cổ đã tạo thêm khoảng 35 ngàn từ mới cho Hán tự (Nguyễn Hiến
Lê, sđd tr. 331-333).
B- Phương Dung: trú trì chùa Yên Phú (huyện Thanh Trì, ngoại
thành Hà Nội) cùng hai con nuôi là Trung Vũ và Đài Liệu hưởng ứng lời kêu gọi
của Trưng Vương, rời chùa chỉ trong vài ngày đã mộ được hơn ngàn dân quân. Sau
khi Trưng Vương thắng trận bà được sắc phong là Công chúa, hai con được
phong là Tả, Hữu Tướng quân. Đời vua Lê Đại Hành, bà được sắc phong
Trinh Thục Trí Đức Đoan Trang Cần Tiết Hoàng Thái Hậu (m).
C- Nàng Thục: trú trì chùa ấp Tiên La (Thái Bình), nương mình
nơi cửa Phật để trốn tránh sự truy nã của quân binh Tô Định sau khi chúng giết
cha nàng. Bà chiêu tập và huấn luyện nghĩa binh ngay tại chùa vào ban đêm. Khi
Trưng Vương truyền hịch kết tội Tô Định phất cờ khởi nghĩa, bà dẫn đạo dân quân
gia nhập, được giao cho phụ trách công tác tình báo ( Tế tác). Sau khi giải
phóng đất nước, Trưng Vương phong bà làm Trinh Thục Công chúa. Năm 43, khi
Trưng Vương không địch lại đại quân Mã Viện, phải nhẩy xuống sông Hát tự vận,
bà dẫn quân về ấp Tiên La tiếp tục kháng chiến. Tuy nhiên chỉ khoảng nửa năm
sau, quân Mã Viện đã tấn công bất ngờ và bà đã tử trận.
D- Nàng Quốc: theo truyền thuyết ở xã Kiêu Kỵ (huyện Gia Lâm,
ngoại thành Hà Nội) bà mẹ Đào Tuyết Tĩnh gởi con gái nhỏ tên là cái Nước vào
chùa làng. Sư thầy đặt tên cho cô bé là Quốc. Lớn lên nàng Quốc rất giỏi về bơi
lội, được xưng tụng là Giao Long Nữ. Tại trang Hạ Tốn, nàng Quốc lập và huấn
luyện một đội thủy binh. Khi Trưng Vương khởi nghĩa, nàng Quốc dẫn nghĩa binh
gia nhập được phong là Trung Dũng Đại Tướng Quân. Năm 43 bà theo Trưng Vương
đánh với đại quân Mã Viện ở Lãng Bạc rồi Cẩm Khê và hy sinh tại đây. Bà được
thờ tại đình Hoàng Xá, xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm Hà Nội.
E- Bà Lý Thị Ngọc Ba cùng năm con trai Đặng Xuân, Đặng Nghiễm,
Đặng Liễu, Đặng Diên và Đặng Tiên tổ chức lực lượng dân binh ở làng Cốc (bên bờ
sông Đáy, nay thuộc huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây) để chống lại sự cướp bóc của
quân xâm lược Đông Hán từ trước thời Trưng Vương. Bị quân Đông Hán bao vây và
tân công lien tục, lực lượng nghĩa quân ngày một hao tổn. Sau mở đường máu chạy
trốn tới chùa Hương Lang, sáu mẹ con bà Ngọc Ba nương mình nơi cửa Phật dưới sự
che chở của vị trụ trì là thiền sư Đạo Uẩn. Ban ngày họ tụng kinh niệm Phật,
đêm đến lo luyện tập võ nghệ, thăm dò tình hình và tổ chức lại lực lượng. Sau
một thời gian tàn phá làng Cốc, giặc Đông Hán rút, bà Ngọc Ba kéo lực lượng trở
về xây dựng lại làng cũ, tái lập hệ thống phòng thủ. Khi nghe tin Hai Bà Trưng
ở huyện Mê Linh dựng cờ khởi nghĩa, bà Ngọc Ba cùng các con kéo lực lượng về
dưới cờ Trưng Trắc Trưng Nhị. Cuộc khởi nghĩa thành công, bà được phong là Công
chúa Chiêu Dung, các con đều được phong tướng và được Trưng Vương cho phép kéo
lực lương về xây dựng lại đất Cốc. Khi Mã Viện tấn công , năm người con của bà
Ngọc Ba đã duy trì phòng tuyến chiến đấu dọc sông Đáy một thời gian.
F- Công chúa Vĩnh Hoa, con gái của chúa trưởng Hùng Bàn ở Châu
Đại An khi trốn tránh sự truy nã của Tô Định đã cắt tóc giả làm người tu hành
một thời gian, trước khi tìm tới làng Đồng Sổ xây dựng lực lượng.
Qua chứng liệu trên, chúng ta ghi nhận được ba điểm quan
trọng:
Thứ nhất: chùa
làng đã xuất hiện nhiều nơi trên đất nước ta từ trước thời Hai Bà Trưng. Khi
chùa làng xuất hiện ở nhiều nơi vào thời Trưng Vương, điều đó có nghĩa là Phật
giáo đã thâm nhập vào trong quần chúng, không còn ở giai đoạn làm quen với giới
trí thức.
Thứ hai: cũng từ
trước thời Trưng Vương, ni giới đã hình thành ở nước ta.
Thứ ba: chùa
làng thời Trưng Vương đã là nơi ẩn thân của các “anh hùng mạt vận”, nơi nuôi
chí chờ thời để phục vụ đại nghĩa.
Chùa làng là định chế tôn giáo do dân chúng thiết lập.
Phật giáo phải truyền tới địa phương khá lâu mới thuyết phục được dân làng góp
công và của xây dựng chùa làng. Tại Trung Quốc mãi tới năm 67 mới có ngôi chùa
đầu tiên là Bạch Mã Tự do Hán Minh Đế ra lệnh xây dựng tại kinh đô Lạc Dương.
Học giả Henri Maspero cho rằng câu chuyện Hán Minh Đế nằm mộng thấy người vàng
rồi cử phái đoàn 18 người qua nước Đại Nhục Chi thỉnh kinh và thỉnh tăng là do
đời sau bịa ra; sự thật Phật giáo xuất hiện tại Lạc Dương muộn hơn năm 67.
Nguyễn Lang (một bút hiệu của Nhất Hạnh) cho rằng kinh Tứ Thập Nhị Chương được
truyền tụng do Ma Đằng Ca Diếp và Trúc Pháp Lan dịch tại Bạch Mã Tự năm 67 thật
ra xuất hiện trước tiên tại Giao Chỉ vào thế kỷ 2 (n).
Trong lịch sử Phật giáo các nước, ni giới luôn luôn
xuất hiện sau tăng đoàn. Tại Trung Quốc mãi tới năm 429, một ni đoàn mấy chục
người từ Tích Lan tới Kiến Nghiệp (phía nam Trung Quốc) học chữ Hán để hướng
dẫn các nữ tu người Hán. Nếu năm 19 bà Hoàng Thiều Hoa đã được nhận cho xuất
gia tại chùa làng Hiền Quan, chúng ta có thể giả thiết tăng đoàn nước ta phải
thành hình từ trước kỷ nguyên Tây Lịch.
Chúng ta chưa có một niên đại rõ rệt từ lúc nào thì tăng
đoàn người Việt thành hình. Tuy nhiên có một ít tư liệu có thể cho chúng ta một
khái niệm. Theo Thích Đức Nghiệp (sđd tr. 350) dẫn lời ni sư Đàm Xương, trú trì
chùa Sùng Phúc (cũng gọi là chùa Hoàng Cung, ở ngoại thành Hà Nội) cho rằng
chùa này có từ thời Hùng Vương thứ 17. Trong chùa còn đôi câu đối:
Hùng Triều Thập Thất Diệp Thạch Thượng Giáng Thần Lịch Đại
Cổn Ba Khâm Bảo Tượng – Hoàng Ấp Sổ Bách Niên Thủy ChungHiển Thánh Vạn Gia Đỉnh
Cúng Bái Linh Tiêm.
(HT Thích Đức Nghiệp dịch: Triều đại Hùng Vương thứ 17 giáng
trần trên núi đá, đã bao đời vua chúa vẫn tôn thờ pho tượng quý này – Dân ấp
Hoàng Cung đã có mấy trăm năm mà ngài hiển thánh nơi dòng sông này, cho nên
hàng vạn người vẫn đến cúng bái và xin thẻ linh thiêng ). Cũng tương truyền
xuất hiện từ thời Hùng Vương là chùa Liên Trì ở Long Biên Hà Nội. Năm 544 vua
Lý Nam Đế dựng chùa Khai Quốc trên nền cũ của chùa này.
Sử sách nước ta ghi Hùng Vương truyền 18 đời, chấm dứt vào
năm 258 TTL sau khi bị Thục Phán đánh bại. Như vậy nếu cho rằng các ngôi chùa
làng có từ thời Hùng Vương thứ 17, chúng ta phải chấp nhận sự kiện các nhà sư
Ấn Độ (Thiên Trúc) đầu tiên hoằng pháp trên đất nước ta trước khi các phái
đoàn đầu tiên truyền bá Phật giáo ra ngoài Ấn Độ được vua Asoka phái đi
(247-232 TTL). Cho nên chúng ta phải đặt nghi vấn về các niên đại
Phật giáo tại nước ta trong thời Hùng Vương (p). Có lẽ giả thuyết Phật
giáo du nhập vào nước ta sau niên đại của vua Asoka (nghĩa là sau năm 232 TTL)
xem ra hợp lý hơn.
Như đã dẫn ở trên, theo một bài báo của Sylvian Levi và
Pellot trong Viễn Đông Bác Cổ Tập San, đất Giao Chỉ - Giao Châu là chỗ dừng
chân của các tăng sĩ và thương gia Ấn trước khi đi sâu vào lục địa Trung Quốc
từ năm 145 TTL tới cuối thế kỷ 7 (q). Như vậy chúng ta cần đặc biệt lưu
ý tới tác phẩm Thiên Nam Ngữ Lục của thiền sư Chân Nguyên (1646-1726) vì nó đề
cập tới chùa Trúc Viên ở núi Sài Sơn (Sơn Tây) mà theo diễn giải của Lê Mạnh
Thát có từ thời nhà Triệu, lúc tể tướng Lữ Gia nắm quyền (năm 110 TTL). Theo
Thiên Nam Ngữ Lục, vào thời Lữ Gia (năm 110 TTL) chùa Trúc Viên chỉ còn lại “một
dấu vườn đìu hiu” (r). Nghĩa là nó phải được xây dựng trước niên đại
này, trước bao lâu thì không rõ.
5- PHẬT GIÁO NƯỚC TA SAU SỰ THẤT BẠI CỦA TRƯNG VƯƠNG NĂM 43
Sự thất bại của Trưng Vương trước đạo quân xâm lược
hùng hậu do tướng nhà Hán là Mã Viện lãnh đạo không chỉ đưa đất nước ta trở lại
ách đô hộ của Trung Quốc. Nó thực sự chấm dứt vĩnh viễn thời đại Hùng Vương và
bắt đầu sự xâm nhập văn hoá Trung Quốc vào đất nước ta.
Tài ba, giảo quyệt và thông hiểu tình hình đất nước
ta, Mã Viện biết rằng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là nỗ lực sau cùng phục
hồi lại di sản thời Hùng Vương. Cho nên sau khi thắng trận ở Cẩm Khê, Mã Viện
kéo đại quân vào Cửu Chân (Thanh Hoá) với hai ngàn chiến thuyền và hai vạn
quân. Sử gia Phạm Văn Sơn (Việt Sử Toàn Thư tr. 111) ghi: Trong trận chiến kéo
dài từ huyện Võ Công tới huyện Cư Phong, quân Mã Viện chém hơn hai ngàn thủ
cấp. Như vậy ở trận chiến cuối cùng này, quân khởi nghĩa do tướng Đô Dương lãnh
đạo đã chiến đấu và hy sinh dũng cảm, biểu thị một tinh thần bất khuất can
cường.
Sau khi truy lùng và tàn sát các tàn quân của lực lượng
Trưng Vương, năm 43 Mã Viện còn tiến hành chính sách tiêu diệt tận gốc các nền
tảng của thời đại Hùng Vương và thực hiện chính sách đồng hoá toàn diện nước
Văn Lang về pháp luật, văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hội.
Mã Viện không chỉ tịch thu các trống đồng (biểu tượng quyền
uy của các Lạc hầu, Lạc tướng) đúc thành ngựa đồng, y còn bắt đi đầy khoảng 300
thủ lãnh các cấp của Việt tộc (mà y gọi là cừ soái) ở Linh Lăng, đày
toàn bộ dân Đông Việt vào đất Giang Hoài, xây dựng hệ thống đường xá từ Nam
Trung Quốc tới Luy Lâu, xây dựng nhiều thành trì phòng thủ. Theo Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên: vòng thành trong cùng (Kiển thành) của ba vòng thành
Cổ Loa được Mã Viện xây vào lúc này. Mã Viện cũng sửa đổi lại 10 điều khác biệt
trong luật Việt để áp đặt luật Hán trên mọi sinh hoạt của dân ta.
Tuy nhiên cuộc khởi nghĩa Trưng Vương đã củng cố tinh
thần dân tộc của Việt tộc (s). Cho nên sự đàn áp thô bạo và đồng hoá
quyết liệt của Mã Viện không làm suy yếu hay lạc hướng Phật giáo nước ta. Phải
chăng đó là một trong những lý do chính khiến chí sĩ Phan Bội Châu kêu gọi nên
nhận Trưng Nữ Vương là quốc tổ? (t). Đề nghị của cụ Phan Bội Châu nên
được trân trọng cứu xét vì nhân dân ta đã lập các đền thờ Trưng Vương và tướng
lãnh của hai bà ngay trong thời kỳ bị Mã Viện kiểm soát và khủng bố gắt gao (u).
Nhiều biến cố quan trọng xuất hiện trong giai đoạn dân
tộc bị đô hộ này được coi như những thành tựu lớn của Phật giáo nước ta. Có thể
kể:
·
Sự xuất hiện của Phật Tứ Pháp (Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) vào cuối thế kỷ 2 như một biểu hiện bản địa
hoá Phật giáo.
·
Mâu Tử viết Lý Hoặc Luận tại Giao
Chỉ năm 198, là tác phẩm lý luận Phật học đầu tiên bằng Hán văn.
·
Sự xuất hiện của Khương Tăng Hội vào
thế kỷ 3, người được sư ông Nhất Hạnh tôn vinh là tổ Thiền tông Việt Nam.
·
Vai trò của các nhà sư trong cuộc
khởi nghĩa của bà Triệu ( mậu thìn 248).
·
Pháp môn Tịnh Độ phát triển tại chùa
Tiêu Sơn (Bắc Ninh) từ đầu thế kỷ 5.
·
Sáu lá thư trao đổi giữa Lý Miễu và
hai nhà sư Đạo Cao, Pháp Minh (433-459) nêu lên những chủ đề Phật giáo quan
trọng.
·
Tín ngưỡng Quán Thế Âm được Vương
Diệm mang từ Giao Châu về Trung Quốc (khoảng 445-450).
·
Huệ Thắng (440-510) từ Giao Châu đem
pháp tu quán hạnh về Thiền truyền qua Trung Quốc. Nên biết năm 520 Bồ Đề Đạt
Ma, người được coi là tổ Thiền tông Trung Quốc, mới tới đất Tầu sau khi đi
đường biển từ Nam Ấn tới Luy Lâu.
Những thành tựu này xác định sau thời Trưng Vương là bắt đầu
một thời kỳ mới của Phật giáo nước ta. Phật giáo không còn đi những bước dò dẫm
trên vùng đất mới mà đã bén rễ trong lòng dân tộc và đã có những đóng góp
truyền bá Phật pháp quan trọng tới các nước khác. Những chủ đề trên sẽ được
trình bày trong một bài khác.
CHÚ
THÍCH:
(a)
Nguyễn Hữu Nhàn, Yếu Tố Việt Mường
Và Tày Thái Trong Tầng nền Văn Hoá Đất Tổ, trang web www.thuvientieulun.org tháng 2.2003.
(b)
Trường Giang, Thầy Giáo Thời Hùng
Vương, nhật báo Nhân Dân online, Hà Nội 9.12.2000. Ngọc phả do Đông các đại học
sĩ Nguyễn Bính Phụng soạn năm Hồng Phúc thứ hai (1573) lưu trữ tại Thiên Cổ
miếu (thôn Hương Lan xã Trưng Vương, Việt Trì). Miếu này thờ thầy giáo Vũ Thê
Lang, phu nhân là Nguyễn Thị Thục, hai học trò là các công chúa Tiên Dung, Ngọc
Hoa (con vua Hùng thứ 18, Hùng Duệ Vương) và hai thị nữ theo hầu. Theo ngọc phả
nói trên, bố ông là Vũ Công ở đất Mộ Trạch thuộc gia đình có học. Cha mẹ mất
sớm, cảnh nhà sa sút, vợ chồng tìm đến kinh đô Phong Châu, mở lớp dạy học tại
thôn Hương Lan. Vũ Thê Lang kế tục sự nghiệp dạy học của bố ông.
(c)
Minh Tu, Quê Gốc Lý Bí, nhật báo
Nhân Dân online, Hà Nôi 29.10.2003
(d)
theo Nguyễn Hiến Lê ( Sử Trung
Quốc tập 1 tr. 50, nxb Văn Hoá, Hà Nội 1997): dẫn theo Từ Hải và các bộ
sử cũ thì thời đại nhà Thương là 1766 BC- 1122 BC, dẫn theo Eberhard (Histoire
de la Chine, Payot 1952) nhà Hạ bắt đầu khoảng 1800 BC, kết thúc khoảng 1500
BC, nhà Thương 1450 BC- 1050 BC, nhà Chu 1049 BC- 221 BC. Ngoài ra còn có những
giả thuyết về các niên đại khác.
(e)
dẫn theo H.G.Quaritch Wales trong A
New Explored Route of Ancient Indian Cultural Expansion Indian Art and Letters
(Lâm Như Tạng, Phật Giáo Từ Ấn Độ Trực Tiếp Truyền Vào Việt Nam Như Thế Nào ?,
trang web www.thuvienhoasen.org, mục Sử Phật Giáo).
(f)
Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt
Nam, tập 1 tr. 13-25, nxb Thuận Hoá, Huế 1999.
(g)
Xem Tạ Chí Đại Trường, Những Bài Dã
Sử Việt tr. 168, nxb Thanh Văn, California 1996.
(h)
Nguyễn Duy Hinh, Tư Tưởng Phật Giáo
Việt Nam tr. 148-153, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1999.
(i)
Theo Andrew Skilton, A Concise
History of Buddhism, bản dịch của tỳ kheo Thiện Minh (Lịch Sử Phật giáo Quốc
Tế, phần II Phật giáo ngoài Ấn Độ) trang web www.quangduc.com.
(j)
Theo Lê Mạnh Thát, sđd tr. 151, Kỳ
Na giáo sống loã thể.
(k)
Theo Phạm Cao Dương (Thực
Trạng Của Giới Nông Dân Việt Nam Thời Pháp Thuộc tr. 232, nxb Khai Trí, Sài Gòn
1967) và Phạm Văn Sơn (Việt Sử Toàn Thư trang 106).
(l)
Bản báo cáo của Trần Đại Sĩ được phổ
biến trên trang web www.thuvienvietnam.org, mục Tạp Chí Thư Viện Việt Nam số 3.
(m) Thích Đức Nghiệp, Đạo Phật Việt Nam tr. 43, Thành Hội Phật
Giáo TPHCM, thành phố HCM 1995. Bùi Thiết, Nữ Tướng Thời Hai Bà Trưng tr. 5,
nxb Thanh Niên, Hà Nội 2001.
(n)
Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 1
tr.30, nxb Lá Bối in lần thứ 2, Paris 1977.
(o)
Triều đại vua Asoka theo Đoàn Trung
Còn là 273-236 TTL, theo Richard Gombrich, Etienne Lamotte và Lal Mani Joshi là
268-239 TTL (Truyền Thống Phật Giáo Ấn Độ, Trí Nguyệt phỏng dịch, trang nhà
Phật Học Phổ Thông của tăng ni sinh du học tại Đài Loan). Theo Lê Mạnh Thát
(sđd tr. 34) thời điểm vua A Dục ra lệnh cho các phái đoàn tăng lữ đi khắp nơi
để truyền bá Phật pháp là 247- 232 TTL.
(p)
Về những điều đáng nghi hoặc trong
các thần tích của các nhân vật lịch sử cho là về đời Hùng Vương nhưng thực ra
thuộc các đời sau, xin xem Tạ Chí Đại Trường, sđd tr.21-22.
(q)
dẫn theo Tâm Như Phạm Lễ, Nguồn Gốc
Thiền Phái Phật Giáo Việt Nam Nam Phương, trang web www.calitoday.com mục Tôn Giáo Triết Học, 5.2.2004.
(r)
Về sự kiện này, Chân Nguyên viết
trong Thiên Nam Ngữ Lục :
Gia bỏ cửa mốc nhà rêu,
Hang thần trật lối, hồn phiêu đường nào.
Nước nên thấy những đồng đao,
Cõi bờ tấc đất vào chầu Hán gia.
Non Sài tuyệt chẳng vào ra,
Thấy còn một dấu vườn là Trúc Viên,
Đìu hiu ngoài cảnh thiền thiên
Thuở trưa quyên khóc, thuở đêm hạc sầu. (Lê Mạnh Thát, sđd tr. 25).
(s) theo Nguyễn Đổng Chi, trong Cổ Văn Học Sử Việt
Nam, thời Trưng Vương có truyền tụng câu ca dao: Nhiễu
điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng. Nếu
vậy, thể thơ lục bát đã xuất hiện rất sớm trong văn học nước ta.
(t) trong bài Người Ta và Sử Nước Ta, báo Tiếng Dân số
656
(u) theo Tạ Chí Đại Trường, Những Bài Dã Sử Việt trang
77.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO:
1- Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập 1, Lá Bối in lần
thứ hai, Paris 1977.
2- Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam tập 1, nxb Thuận
Hoá, Huế 1999.
3- Nguyễn Tài Thư chủ biên, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, nxb
Khoa Học Xã Hộ, Hà Nội 1991.
4- Nguyễn Duy Hinh, Tư Tưởng Phật Giáo Việt Nam, nxb Khoa Học
Xã Hội, Hà Nội 1999.
5- Trần Tri Khách, Niên Biểu Phật Giáo Việt Nam, bản thảo 2002.
6- Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư, Đại Nam in lại tại Hoa Kỳ
theo bản in lần thứ nhất năm 1960 tại Sài Gòn.
7- Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Đại Nam in lại tại Hoa Kỳ
theo bản in lần thứ nhất năm 1971 tại Sài Gòn của Trung Tâm Học Liệu Bộ Giáo
Dục.
8- Bùi Thiết, Nữ Tướng Thời Hai bà Trưng, nxb Thanh Niên, Hà
Nội 2001.