BAN BIÊN TẬP WEBSITE XIN
CUNG KÍNH ĐĂNG TIỂU SỬ ĐỨC ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TÂM TỊCH PHÁP CHỦ
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM (1915 – 2005).
I – THÂN THẾ
Đức Đại lão
Hòa thượng Thích Tâm Tịch – Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật
giáo Việt Nam, thế danh là Nguyễn Đình Khuê, pháp hiệu Như Sơn, sinh
ngày 17 tháng 11 năm Ất Mão (1915) tại phố Hội Bình, tỉnh Yên Bái (nay
là phường Hồng Hà – thành phố Yên Bái – tỉnh Yên Bái). Nguyên quán tại
làng Định Công, huyện Thanh Trì – Hà Nội; sinh trưởng trong một gia đình
trí thức Nho giáo làm nghề thủ công mỹ nghệ, Thân phụ là cụ ông Nguyễn
Đình Văn, Thân mẫu là cụ bà Lê Thị Cúc. Ngài là con út trong gia đình có
6 anh chị em. Năm 4 tuổi Thân phụ qua đời và sau đó 10 năm Thân mẫu
cũng tạ thế.
Với tuổi đời
14, sau khi đã học xong cấp tiểu học đương thời, Ngài tiếp tục vừa học
chữ vừa học nghề dưới sự dạy dỗ, đùm bọc, thương yêu của người anh thứ
là nhà giáo Nguyễn Văn Kính.
Song do sẵn
có thiện duyên từ bao đời với Phật pháp, nên trong thời kỳ đi học Ngài
có xu hướng thiên về học Đạo nhiều hơn. Với tấm lòng đầy ngưỡng mộ đạo
Phật và ý chí quyết tâm của tuổi 16, Ngài đã âm thầm, lặng lẽ từ biệt
gia đình tìm đường xuất gia cầu đạo.
II – NHÂN DUYÊN DIỆN KIẾN CHƯ TỔ CẦU XUẤT GIA
Từ những năm
đầu thập niên 1920 – 1930, phong trào chấn hưng Phật giáo làm sống dậy
tinh thần học Phật, tin Phật và tu Phật của hàng triệu Phật tử Việt Nam
vốn tiềm ẩn như bừng lên khắp ba miền Bắc – Trung – Nam. Danh đức của Tổ
Vĩnh Nghiêm – Thiền gia Pháp chủ (Đức Đại lão Hòa thượng Thích Thanh
Hanh) và giáo lý Phật giáo được tuần báo Đuốc Tuệ xiển dương đã tác động
mạnh, thôi thúc người thanh niên lứa tuổi đôi mươi Nguyễn Đình Khuê đến
chiêm bái Tổ đình Quán Sứ, đỉnh lễ Tam bảo, bái kiến Đức Tổ Vĩnh
Nghiêm.
Duyên phúc căn xưa vốn thẩm sâu
Một lời pháp ngữ tự quay đầu
Bồ Đề tính Phật nay tươi nhuận
Nối gót thiền gia – Đạo nhiệm màu
Ngay lần gặp
gỡ đầu tiên, được Đức Tổ giáo huấn đôi điều diệu lý, tâm thức tỏ rạng,
Ngài quyết một lòng thỉnh cầu Đức Tổ chứng minh cho được xuất gia làm
Tăng. Tổ nhận lời, giao cho Hòa thượng Thích Thái Hòa đưa về tỉnh Hà
Nam, đỉnh lễ đệ tứ tổ Tế Xuyên Bảo Khám (Đại lão Hòa thượng Thích Doãn
Hài) và được Hòa thượng Thiện Bản – Thông Đoan trụ trì chùa Cao Đà xã
Nhân Mỹ huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam làm thầy nghiệp sư thế phát, quy y.
III – NHỮNG BƯỚC TRƯỞNG THÀNH, TIẾN TU ĐẠO NGHIỆP
Tại Tổ đình
Tế Xuyên , hạt giống Bồ Đề từ nhiều đời nơi Hòa thượng như được ươm mầm
nảy lộc đâm chồi. Đời sống thiền môn, thanh bần lạc đạo, viễn ly trần
thế, tịch nhàn phạm hạnh đã trở thành nếp quen thường nhật. Hàng ngày
lúc còn là giới tử tân học, Ngài một lòng cần mẫn chấp tác phụng sự Sư
trưởng, đồng thời rất mực siêng năng công quả trang nghiêm Tam bảo. Đến
năm 1936, tuổi đời vừa tròn 21, Ngài được Hòa thượng nghiệp sư và Chư
tôn đức đương thời chứng minh truyền thụ Thập giới Sa di do Hòa thượng
Thích Doãn Hài làm đàn đầu Hòa thượng tại Tổ đình Tế Xuyên Bảo Khám. Sau
thời gian tấn tu đạo hạnh Ngài được Hòa thượng nghiệp sư cho đi nhập
chúng cầu học Kinh Luật Luận với Tổ Tuệ Tạng – Đức Thượng thủ Tăng già
toàn quốc tại chùa Quán Sứ, khởi đầu cho một thời kỳ dài tu tập, hóa đạo
trên đất Thăng Long Hà Nội.
Năm 1939,
chùa Quán Sứ khai mở Đại giới đàn do Hòa thượng Thích Thanh Ất (Tổ Trung
Hậu) làm đàn đầu. Đây là giới đàn quy mô nhất của Phật giáo Bắc Kỳ bấy
giờ. Giới tử phải nhập chúng lễ sám hối 21 ngày, sau đó trải qua thời kỳ
khảo hạch để xếp thứ tự. Ngài được cử đứng đầu giới tử cầu thụ Cụ túc
giới; với 24 tuổi đời, Ngài được Chư tôn đức truyền thụ Tỷ khiêu và Bồ
Tát giới, bước vào hàng xuất gia bình đẳng trong Chính pháp. Từ đó, Ngài
được thiện duyên theo hầu Tổ Tuệ Tạng và tham học Phật pháp tại các
trường Phật học: Quán Sứ, Bồ Đề, Cao Phong… Trong Học chúng và các
trường Hạ bấy giờ, Ngài luôn được cử giữ chức Chánh Duy Na – nêu gương
và hộ trì kỷ cương giới đức phạm hạnh cho đại chúng tăng già noi gương
lập chí tu hành.
IV – GIỚI ĐỨC KIÊM ƯU – HOẰNG HÓA ĐỘ SANH
1. Truyền trì
mạng mạch phật pháp Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương Bồ tát bổn sư,
đức Phật dạy: “Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dàng Như
Lai”. Sau 14 năm cần mẫn tu hành, hành trì phạm hạnh, tích lũy tâm đức
của một tỷ khiêu, Ngài được chư tôn đức đương thời thỉnh làm Giới sư rồi
làm Hòa thượng đàn đầu… truyền trao Giới pháp cho các thế hệ hậu học
tại các Đại giới đàn như sau:
+ Đại giới đàn chùa Quán Sứ, Hà Nội năm 1953
+ Đại giới đàn chùa Tế Xuyên, tỉnh Hà Nam năm 1955 (nơi có dấu ấn kỷ niệm Ngài đã thọ giới Sa di 19 năm về trước)
+ Đại giới đàn chùa Thần Quang, Hà Nội năm 1959
+ Đại giới đàn chùa Bà Đá, Hà Nội năm 1976 + Đại giới đàn chùa Quán Sứ, Hà Nội năm 1978
+ Từ
năm 1981, sau khi GHPGVN và Thành hội Phật giáo Hà Nội được thành lập
đến năm 2001, mỗi năm sau ngày Kiết hạ an cư, Thành hội PGHN đều tổ chức
Đại giới đàn truyền giới cho Tăng Ni. Tất cả những Đại giới đàn này
Thành hội PGHN đều cung thỉnh Hòa thượng làm Đàn Đầu Hòa thượng truyền
trao giới pháp cho các giới tử. Ngoài cương vị là thầy Hòa thượng các
giới đàn, Ngài đã truyền thụ Tam quy, Ngũ giới, Bồ Tát giới cho hàng
ngàn Phật tử thủ đô và các tỉnh, thành Phật giáo.
2. Công đức
kế thế trụ trì – tiếp độ chúng sinh: Với đạo nghiệp sâu dày “Trụ pháp
vương gia, trì Như Lai tạng”, Đại lão Hòa thượng Pháp chủ đã từng được
sơn môn Pháp phái thỉnh cử và Giáo hội Trung ương chỉ định trụ trì các
chốn tổ già lam như:
+ Năm 1958 Đức thượng thủ Tuệ Tạng chỉ định Ngài làm giám tự tùng lâm Quán Sứ.
+ Năm
1962, Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Bản (Tổ Cao Đà) viên tịch, Ngài
được chư tôn đức sơn môn giao phó trọng trách Trụ trì chùa Cao Đà – xã
Nhân Mỹ - huyện Lý Nhan – tỉnh Hà Nam, khởi đầu sự nghiệp trụ trì, hoằng
hóa độ sanh.
+ Năm
1979, Hòa thượng Thích Trí Hải viên tịch, Ngài được sơn môn thỉnh giữ
chức vụ trụ trì Tổ đình Bồ Đề (Thiên Sơn Cổ tích Tự) – xã Bồ Đề - huyện
Gia Lâm (nay là phường Bồ Đề - quận Long Biên – Hà Nội)
+ Năm
1981, sau khi thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ngài được Cố Đại
lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận – Đệ nhất Pháp chủ GHPGVN chỉ định giữ
chức Chánh trụ trì Tùng lâm Quán Sứ - Trụ sở GHPGVN – đây là một khẳng
định về phẩm hạnh đạo đức và nhân duyên đặc biệt về công đức “Nội hàm
chúng diệu, ngoại ứng huyền cơ” của các bậc chân tăng thạc đức nơi Ngài.
+ Năm
1997 Đại lão Hòa thượng Thích Thông Ban, trưởng sơn môn viên tịch, Hòa
thượng được chư tôn đức sơn môn thỉnh cầu nhận lãnh Viện chủ Tổ đình Tế
Xuyên Bảo Khám, xã Lý Đức, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
3. Những
trọng trách đối với đạo pháp và dân tộc Với sứ mạng thiêng liêng của
tăng già “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự” Đại lão hòa thượng Pháp chủ
đã thể hiện gánh vác Phật sự liên tục từ khi tuổi đời còn trung niên cho
đến cao niên trưởng lão; chẳng những kham nhận các trọng trách trong
Đạo mà còn cho Dân tộc và xã hội.
+ Năm
1958, Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam thành lập, Ngài được suy cử làm
Ủy viên Trung ương Hội, đồng thời làm Ủy viên Ủy Ban Mặt Trận Tổ quốc
Việt Nam Thành phố Hà Nội (từ năm 1958 – 1980)
+ Năm 1972, Hòa thượng được suy cử làm Ủy viên Thường trực Trung ương Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam.
+ Từ năm 1976 đến 1981 Ngài được suy cử làm Ủy viên Thường trực Trung ương Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam.
+ Tháng
11 năm 1983, Hòa thượng được Đức đệ nhất Pháp chủ Thích Đức Nhuận giáo
sắc làm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh GHPGVN. Cũng năm này, với uy
tín, đạo hạnh, Ban Trị sự THPGHN đã cung thỉnh Ngài giữ chức vụ Trưởng
Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự đến tháng 9 năm 2002.
+ Tháng
11 năm 1992, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ 3 (1992 –
1997), Hòa thượng được Đại hội suy tôn làm Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư
ký Hội đồng Chứng minh GHPGVN.
+ Tháng
11 năm 1997, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ 4 (1997 –
2002) và lần thứ 5 (2002 – 2007) toàn thể Đại hội đã suy tôn Hòa thượng
lên ngôi vị Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN, giữ vững “thạch trụ
tòng lâm”, làm bóng mát xây dựng và phát triển ngôi nhà GHPGVN.
Trong suốt
cuộc đời tu hành và hóa đạo, dù ở cương vị nào, Đại lão Hòa thượng Pháp
chủ luôn thể hiện tâm đức của người con Phật “xuất trần Thượng sĩ” hành
trì Giới – Định – Tuệ, chú tâm tỉnh giác, thu nhiếp tam nghiệp Thân –
Khẩu – Ý… phụng sự trang nghiêm Tam bảo. Thường nhật, Ngài rất ít nói,
nếu phải nói thì Ngài cũng chỉ nói ít lời về những công việc cần làm.
Ngài luôn kiên định, thầm lặng suy tư tìm những phương pháp thích nghi,
góp ý chỉ đạo, khuyến tấn tứ chúng thực hiện những định hướng của Giáo
hội đã vạch ra để phụng sự “Đạo pháp và Dân tộc” trước cuộc sống hiện
hữu. Ngài thường nói với tín đồ Phật tử rằng “mọi việc chúng ta làm là
đều nhằm góp phần làm cho Phật pháp ngày thêm ngời sáng, tỏ rạng viên
minh; đồng thời điểm tô tấm gương đại từ đại bi của Đức Phật ngày càng
tươi đẹp hơn trong tâm trí và cuộc sống nhân sinh”.
Trân trọng
những công đức cao quý Ngài đã đóng góp cho Đạo, cho Đời, Nhà nước đã
trao tặng Ngài Huân chương Độc lập hạng Nhất; Ủy ban Trung ương Mặt trận
TQVN trao tặng Huy chương Vì sự nghiệp Đại đoàn kết toàn dân và UBND
Thành phố Hà Nội trao tặng Huy hiệu Vì sự nghiệp Xây dựng Thủ đô cùng
nhiều Bằng khen, Giấy khen của các Ban ngành Trung ương và thành phố.
V – NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI CÙNG
Sinh trụ dị
diệt, thành trụ hoại không hay sinh già bệnh chết vốn là quy luật muôn
đời của các pháp hữu vi, vạn vật và con người. Thông thường, sự chuyển
dịch vô thường của bốn núi “Sinh già bệnh chết” dễ chi phối, hoành hành
tâm trạng phàm phu của con người. Trái lại, tinh thần nhiếp phục tự
thân, biết an trú chính mình, liễu ngộ được thân ngũ uẩn này “sinh ký tử
quy”… chính là năng lực tinh thần, tinh tiến của các bậc đạo sư, các
bậc Cao tăng thạc đức.
Những năm
tháng sau cùng của Đức pháp chủ đã chứng minh phạm hạnh và công đức tu
trì của Ngài mỗi lúc một tăng trưởng kiên định thẩm sâu. Mặc dù từ cuối
năm 2001 đến nay, thân tứ đại của Đức Ngài luôn có bệnh duyên chi phối;
nhưng khi bệnh duyên càng tăng thì Đức Ngài cũng tăng sức an trú nhiếp
phục, càng an trú nhiếp phục hành trạng Ngài càng trở nên bình dị an
nhiên vắng lặng. Mỗi ngày, Ngài vẫn thường tịnh tam nghiệp, tay lần
chuỗi bồ đề niệm Phật, giữ chánh niệm chú tâm tĩnh giác trước sự mòn mỏi
của huyễn thân tứ đại.
Thời khắc
thiêng liêng tương hội, công đức hóa thân viên mãn, Đức Đại lão Hòa
thượng Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã thu thần thị tịch vào hồi
14 giờ 30 phút ngày 06 tháng 3 năm 2005 (nhằm ngày 26 tháng Giêng năm
Ất Dậu) trụ thế 91 năm; Hạ lạp 66 năm, để lại trong lòng môn đồ tứ
chúng, Tăng Ni Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước niềm kính thương vô
hạn. Tấm gương trong sáng, hiền đức uy nghi nơi Ngài mãi mãi hằng hữu
trang nghiêm cõi đạo thế trần.
NAM
MÔ VIỆT NAM PHẬT GIÁO GIÁO HỘI, PHÁP CHỦ HỘI ĐỒNG CHỨNG MINH thượng TÂM
hạ TỊCH PHÁP HIỆU NHƯ SƠN ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG GIÁC LINH
Thùy từ chứng giám.