Dầu ai quyết chí tu hành,
Có lên Yên Tử mới đành lòng tu.
DẪN NHẬP
Theo dòng lịch sử,
chúng ta nhìn lại Phật giáo Việt Nam hẳn thấy nổi bật một nét đột phá vô
cùng thú vị - một Thiền phái mang tên Việt Nam, với ông Tổ người Việt
Nam, lại là một vị vua anh hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên
lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng.
Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một lẽ thật bình đẳng
không phân chia ranh giới Việt Nam, Ấn Độ, Trung Hoa hay Nhật Bản.... "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh". Song
Phật giáo truyền vào mỗi nước, thì mỗi nước có tính dân tộc riêng, có
ngôn ngữ, có nếp sinh hoạt, nếp suy nghĩ theo cá tính dân tộc, do đó
Phật giáo cũng phải hoà nhập vào mỗi dân tộc để có được sự tiếp thu dễ
dàng thích ứng. Chính vì vậy nên mới có Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Tích Lan, vv... Vậy đã gọi là Phật
giáo Việt Nam thì nó phải có những nét gì đặc sắc của Việt Nam khiến
người nhìn vào đánh giá được đó là Phật giáo Việt Nam? Điều này, điểm
qua lịch sử, chúng ta thấy Thiền phái Trúc Lâm - Yên Tử quả thực đã làm
nổi bật lên những nét chấm phá của Phật giáo Việt Nam, nếu khai thác
đúng mức, chắc rằng nó sẽ đóng góp rất nhiều lợi ích trên đường phát
triển của dân tộc và sẽ ảnh hưởng sâu rộng ra ngoài nữa.
Nguyễn Lang, trong Việt Nam Phật giáo Sử luận đã viết: "Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập, uy tín
tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống
của một nền văn hoá Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp
nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhưng
vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình." (Tập
I, tr. 482)
Tức là nền Phật giáo Trúc Lâm tự có một nét độc lập của nó, và đó chính
là điểm chúng ta cần khai thác và phát huy. Mà nói Phật giáo Trúc Lâm,
cũng tức nói đến Thiền phái Trúc Lâm, vì lúc đó không có giáo hội nào
khác nữa. Chúng ta là người Việt Nam học Phật, quyết không thể bỏ qua,
không hiểu về Phật giáo Việt Nam, trong đó Thiền phái Trúc Lâm -
Yên Tử, một của báu của dân tộc càng phải được hiểu rõ.
MẠCH NGUỒN THIỀN PHÁI TRÚC LÂM.
1. XÉT XA VỀ TRƯỚC: Như chúng ta đã
biết, Thiền phái Trúc Lâm vốn dung hợp ba dòng thiền đã có từ trước:
* TỲ NI ĐA LƯU CHI - Thế kỷ 6:
Cuối thế kỷ thứ sáu, thiền
sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi người Nam Thiên Trúc sang Trung Hoa, đắc pháp với
tam tổ Tăng Xán và được Tổ chỉ dạy về phương Nam truyền đạo. Vâng lời
dạy của Tam Tổ, Sư đến Việt Nam ở chùa Pháp Vân tháng ba năm Canh Tý
(580), sau đó truyền pháp cho thiền sư Pháp Hiền, người Việt Nam mở đầu
cho dòng thiền tông "Giáo ngoại biệt truyền" tại đất Việt, truyền thừa
được 19 thế hệ.
* VÔ NGÔN THÔNG - Thế kỷ 9:
Do thiền sư Vô Ngôn Thông, người Trung Hoa, đệ tử đắc pháp của tổ Bá
Trượng truyền sang. Sách Truyền Đăng Lục gọi là Bất Ngữ Thông.
Năm 820, Sư từ Quảng Châu qua Việt Nam ở chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng,
huyện Tiên Đức, Bắc Ninh, gặp nhà sư Lập Đức tiếp nhận được tông chỉ, Sư
truyền pháp và đổi tên là Cảm Thành. Từ đó, Việt Nam có thêm dòng thiền
Vô Ngôn Thông, cũng gọi là dòng Kiến Sơ, truyền thừa được 17 thế hệ.
* THẢO ĐƯỜNG - Thế kỷ 11:
Do thiền sư Thảo Đường, một vị tăng được phát hiện trong nhóm tù nhân
bắt được của Chiêm Thành mà vua Lý Thánh Tông đã đem quân chinh phạt năm
1069. Sư cũng là người Trung Hoa, thuộc truyền thống của thiền sư Tuyết
Đậu - Minh Giác, tông Vân Môn, truyền thừa được 6 thế hệ.
Trên đây là ba
dòng thiền đã hội nhập vào một Thiền phái Trúc Lâm. Tuy nhiên nếu xét
xa về trước nữa thì mạch nguồn thiền tông này phát xuất từ Phật Thích Ca
truyền cho Tổ Ca Diếp và chảy dài xuống.
2. MẠCH NGUỒN TRỰC TIẾP:
Thiền phái Trúc Lâm tuy do Đại Đầu Đà Trúc Lâm làm Sơ tổ, nhưng mạch
nguồn Yên Tử vốn bắt nguồn từ thiền sư Hiện Quang (thế hệ 15 dòng Vô
Ngôn Thông). Chính Sư là người khai sơn chùa Vân Yên, sau đổi là
Hoa Yên, trên núi Yên tử. Sư là đệ tử nối pháp của thiền sư Thường Chiếu (thế hệ 13 dòng Vô Ngôn Thông), trước ở núi Từ Sơn sau mới đến Yên
Tử và chính là Tổ ban đầu của dòng truyền Yên Tử.
Kế tiếp thiền sư Hiện Quang là quốc sư Trúc Lâm mà vua Trần Thái Tông
gọi là Đại Sa Môn Trúc Lâm trong chuyến vượt thành lên núi của Vua, đã
thuật lại trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam. Đa số người đồng cho là
thiền sư Đạo Viên hay Viên Chứng (thế hệ 16 dòng Vô Ngôn Thông).
Tiếp theo quốc sư Trúc Lâm là quốc sư Đại Đăng, người đã từng về kinh
thành Thăng Long hành đạo và tiếp nhận thêm dòng thiền Lâm Tế từ thiền
sư Thiên Phong người Trung Hoa.
Tiếp theo quốc sư Đại Đăng là thiền sư Tiêu Diêu (thế hệ 17 dòng Vô Ngôn Thông), thầy của Thượng sĩ Tuệ Trung, cũng
gọi là đại sư Phúc Đường ở tịnh xá Phúc Đường. Tiêu Diêu cũng là người
đắc pháp với ngài
Ứng Thuận dòng Vô Ngôn
Thông (thế hệ 13).
Kế tiếp thiền sư Tiêu Diêu là thiền sư Huệ Tuệ, mà theo Nguyễn
Lang, tác giả Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, đã cho là Sư vốn làm hoà
thượng đàn đầu truyền giới pháp cho vua Trần Nhân Tông khi vua xuất gia.
Sau thiền sư Huệ Tuệ, mới
chính là Đại đầu đà Trúc Lâm Trần Nhân Tông.
Kế đó là:
- Tổ sư Pháp Loa
- Tổ sư Huyền Quang
- Quốc sư An Tâm
- Quốc sư Phù Vân (hiệu
Tĩnh Lự)
- Quốc sư Vô Trước
- Quốc sư Quốc Nhất
- Tổ sư Viên Minh
- Tổ sư Đạo Huệ
- Tổ sư Viên Ngộ
- Quốc sư Tổng Trì
- Quốc sư Khuê Thám
- Quốc sư Sơn Đằng
- Đại Sư Hương Sơn
- Quốc sư Trí Dung
- Tổ sư Tuệ Quang
- Tổ sư Chân Trú
- Đại sư Vô Phiền
(Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục, Phúc Điền)
Vậy xét theo dòng truyền Yên Tử thì Đại đầu đà Trúc Lâm thuộc thế
hệ thứ sáu, nhưng đến Ngài, Ngài đã thống nhất các thiền phái đã có
thành một thiền phái Trúc Lâm, lấy Ngài làm Sơ Tổ. Từ đây, Việt Nam thực
sự đã có một dòng thiền Phật giáo của người Việt, do chính người Việt
làm Tổ...
Song đó là nói
theo truyền thống lịch sử, nếu nói thẳng trong lẽ thật sâu xa, chính
bắt nguồn thiền phái Trúc Lâm - Yên Tử là từ sự tỏ ngộ của vua Trần Nhân
Tông.
Chính khi vua hỏi Thượng sĩ Tuệ Trung:
- Thế nào là tông chỉ của việc bổn phận?
Thượng sĩ đáp:
- Soi sáng lại chính mình, đó là việc bổn phận, chẳng từ nơi nào khác để
được.
Ngay đó vua nhận được tông chỉ Thiền, mở sáng con mắt Đạo. Từ sức sống
đó, vua đã sống vượt qua mọi biến chuyển của thế gian, để rồi chuyển
mình thành thiền sư, truyền mạch sống cho một dòng thiền Việt Nam chảy
mãi đến ngày nay. Nếu không có sứ sống chân thật kia thử hỏi dòng thhiền
Trúc Lâm có được mạch sống thiền đúng như nghĩa của nó, hay chỉ là trên
hình thức chữ nghĩa? Do đó, khai thác mạch nguồn thiền phái Trúc Lâm
Yên Tử, chúng ta không thể chỉ khai thác trên bề mặt lịch sử dễ thấy,
hoặc trên hình thức phân ích theo chiều suy nghĩ của tình thường, mà còn
phải khai thác phần sâu xa vượt ngoài chữ nghĩa ấy!
Chúng ta hãy lặng lòng lắng nghe lờ mở đầu cho buổi đại tham của sơ tổ
Trúc Lâm tại chùa Sùng Nghiêm, tức mở đầu truyền mạch sống thiền cho đại
chúng:
" Mở đầu pháp hội, Ngài niêm hương báo ân
xong, bước lên toà. Vị thượng thủ bạch chùy, v.v..., rồi Ngài nói:
- Phật Thích Ca Văn vì một "việc lớn" mà xuất hiện giữa cõi đời này,
suốt 49 năm chuyển động đôi môi (nói pháp) mà chưa từng nói một lời. Nay
ta vì các ông lên ngồi toà này, biết nói chuyện gì đây?"
Chúng ta thấy một điểm đặc biệt khác thường. Trước khi nói pháp,
Ngài chặn đầu trước, dẫn Phật Thích Ca 49 năm nói pháp nhưng vốn chưa
từng nói một lời nào, vậy thì hiện tại sẽ nói cái gì đây? Những điều
Ngài sắp nói là có nói hay không?
Chính đây là một cách khéo léo nhằm nhắc nhở người nghe phải thấu qua
chữ nghĩa, nghe đến tộ trước khi mở miệng kìa! Đó mớithực là sức sống
thiền mà Ngài muốn truyền đạt. Còn chữ nghĩa nói ra là việc bất đắc dĩ,
là ngọn ngành về sau, bởi vì người chưa thấu tột cội nguồn kia nên
phương tiện phải nói. Song nói mà ý vốn không ở nơi lời. Tông chỉ thiền hay Yếu chỉ giáo ngoại biệt truyền
chính đã thổ lộ trong đó. Người lanh mắt hẳn bắt gặp ngay.
Mạch nguồn chân thật của thiền phái Trúc Lâm chính là đó.
Do đó, người muốn thâm nhập mạch nguồn thiền phái Trúc Lâm Yên tử, đòi
hỏi phải là một HÀNH GIẢ, không
thể là một HỌC GIẢ.
(Trích
THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ - TT. THICH THÔNG PHƯƠNG)