1. Khái lược kinh thành Ca 
Tỳ La Vệ  		(Kapilavatthu) xưa và nay
Vượt qua biên giới  		Nepal  		khoảng 70 km, chúng tôi đến vùng 
Tilaurakot  		nơi còn sót lại phế tích của kinh thành cổ xưa, Ca Tỳ La 
Vệ. Nhóm năm  		người chúng tôi tiến vào bên trong phía Tây cổng thành, 
tìm một bóng râm  		nơi khu vườn hoang sơ, có vài lối mòn nho nhỏ, dùng 
bữa cơm đạm bạc giữa  		đám quạ bay lượn qua lại kêu inh ỏi và những con
chó hoang lạc loài ốm  		đói tìm kiếm thức ăn. Sau bữa ăn trưa, nhu cầu
cần thiết nhất trong  		ngày, nhóm chúng tôi bắt đầu đi vòng quanh để 
tham quan và ghi lại một  		vài hình ảnh làm kỷ niệm.
Một nơi quen thuộc trong  		trí tưởng tượng của người con Phật mà khi
nghĩ đến chúng ta cảm thấy bồi  		hồi xúc động, nôn nao khó tả, đó 
chính là kinh thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu),  		một kinh thành trù phú,
xa hoa tráng lệ, nơi mà đông cung thái tử Sĩ Đạt  		Ta (Siddhāttha)  		
sinh ra và lớn lên trong nhung gấm lụa là, trong tình yêu thương tuyệt  
đối của hoàng thân quốc thích, tràn ngập niềm hạnh phúc với vợ đẹp con
xinh, sự kính trọng nể vì của toàn bộ tộc Thích Ca (Sakyā),  		sự hy
vọng và ngưỡng mộ của toàn dân kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Để rồi, từ  		
những thái cực của cuộc đời, nghèo giàu, khổ đau và hạnh phúc, sự sống  
mong manh, cái chết vô thường.... đã dẫn đến cuộc ra đi vĩ đại, cuộc 
ra  		đi vô tiền khoáng hậu, cuộc ra đi làm nên trang sử vàng, chính là 
sự có  		mặt của một đạo Phật cứu khổ ban vui, vì lợi ích cho vạn loại 
hữu tình  		trên hành tinh này. Một kinh thành chứa đầy kỷ niệm, một 
kinh thành  		không thể tách rời Phật giáo, một kinh thành không chỉ là 
quê hương đức  		Phật mà còn là quê hương của người con Phật, quê hương 
của tất cả chúng  		ta. Càng hình dung trong trí tưởng tượng cho sự huy 
hoàng tráng lệ của  		một kinh thành cổ xưa thì chúng ta càng xót xa, 
buồn thảm và thất vọng,  		khi một lần dừng chân nơi ấy! Giờ đây, trước 
mắt chúng ta chỉ là một phế  		tích, nơi mà trải qua hàng bao thế kỷ đi 
vào quên lãng: những bức tường  		dài ngang dọc đổ nát rêu phong, những 
bụi cây hoang dại mọc um tùm, bao  		hầm hố gò nổng trên một lối đi mà 
không một bàn tay chăm sóc.... Ôi!  		thật ảm đạm buồn tênh trên quê 
hương Phật giáo, một nơi lịch sử huy  		hoàng, có sức ảnh hưởng khắp 
đông tây tưởng chừng như một huyền thoại,  		đã sản sinh ra một học 
thuyết vững vàng và có giá trị thực tiễn trong  		mỗi thời đại, lại suy 
tàn gần như là mất gốc. Phía Tây chỉ còn sót lại  		nền gạch cũ cùng với
tấm bản xác định vị trí của các nhà khảo cổ. Đối  		mặt sau của cổng 
thành phía Tây khoảng hơn một cây số là cửa thành Đông,  		nơi mà nửa 
đêm rạng ngày mùng 8 tháng 2 âl, thái tử Sĩ Đạt Ta đã âm thầm  		rời bỏ 
kinh thành đi tìm đạo giải thoát. Bên ngoài cổng thành Đông là  		cánh 
đồng phì nhiêu, mọi người cùng với trâu bò làm việc trong nắng ấm  		
thanh bình của mùa xuân. Xa xa cách cổng thành Đông khoảng 200 m, có một
cái tháp nhỏ, được tương truyền rằng, nơi đó chính là chỗ mà con 
tuấn mã  		Kiền Trắc đã đứng và chết tại đó sau khi từ giã thái tử trở 
về lại kinh  		thành.
 
 Cổng thành  		phía Đông. Ảnh: Tâm Bửu
Ngài Pháp Hiển đến chiêm bái thành Ca Tỳ La Vệ vào  		năm 403 sau Tây
lịch,  đã nhìn thấy toàn vùng này là một rừng hoang cỏ  		dại, dân cư 
thưa thớt, và những di tích phế tàn. Một vài tu sĩ khổ hạnh  		tu tập 
tại đây và độ 30 gia đình dân chúng đang sinh sống. Ngài đến hỏi  		thăm
các vị tu sĩ về thánh tích này, các vị ấy cho biết toàn vùng này  		
chính là thành Ca Tỳ La Vệ thời xưa, và họ cố ở lại đây để giữ gìn Thánh
tích này, nhưng không đủ phương tiện phục hưng, đành phải chịu thua,
ngắm nhìn nó dưới sự  		tàn phá của thời gian.
Vào năm 636, Ngài Huyền Trang cũng đến thăm viếng  		ngôi thành cổ 
này và diễn tả một cách chi tiết. Ngài viết: "Thành Ca Tỳ  		La Vệ kiến 
trúc theo lối cổ kính, xây dựng toàn bằng gạch đá quí, bức  		tường 
thành vẫn còn, và kiến tạo rất kiên cố. Hiện tại chỉ còn 634 phố,  		nhà
lơ thơ và một ít dân chúng đang sống ở đó. Chung quanh có độ 100  		
tịnh xá bị hư hỏng. Gần chỗ này có một ngôi tịnh xá vĩ đại, 30 tu sĩ  		
tiểu thừa và hai ngôi đền của Ba La Môn giáo".
Hiện nay, chúng ta không thấy những gì giống như sự  		mô tả của quí 
Ngài, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, chính kinh  		thành này 
là quê hương của Phật, là nơi mà Phật giáo ngự trị một cách  		tuyệt 
đối, thì sự có mặt của những tu viện cũng như tu sĩ thường lui tới  		tu
hành là lẽ đương nhiên.
Căn cứ vào tài liệu khảo cổ, Ca Tỳ La Vệ có hai thành  		cũ và mới. 
Hiện nay thành cũ thuộc thị trấn Tilaurakot ở Nepal, cách Lâm  		Tỳ Ni 
(Lumbinī) khoảng 30 km đường vòng tráng nhựa, khoảng 15 – 20 km  		đường
chim bay. Thành mới thuộc Ấn Độ cách Lâm Tỳ Ni khoảng 30 km, nơi  		
được xây dựng sau khi vua Tỳ Lưu Ly  (ViDūDabha) tàn phá Ca Tỳ La Vệ ở  
Nepal và giết hại dân chúng bộ tộc Thích Ca.
Giờ đây, chúng ta cùng tham quan thêm một số phế tích  		còn sót lại 
trong khuôn viên Ca Tỳ La Vệ được xem là tối quan trọng đối  		với Phật 
giáo như: ngôi mộ của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da; vườn  		Nigrodha
thuộc làng Kudan; Sagarhava, nơi mà dòng tộc Thích Ca bị vua Tỳ  		Lưu 
Ly sát hại....
 2. Ngôi mộ của vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng  		hậu Ma
Da (Māyā)
 
 Hai ngôi mộ của vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và 
hoàng hậu Ma Da (Māyā)   
 
                                                                                            
   Ảnh: Tâm Bửu
Từ cửa thành Đông, lần theo  		lối mòn hướng về phương Bắc khoảng 2 
cây số chúng ta thấy có hai nền  		gạch một lớn một nhỏ nằm trong khu 
đất trũng dưới mặt đường khoảng 3m.  		Chúng ta không thể ngờ rằng, hai 
ngôi mộ được cho là của vua Tịnh Phạn (Suddhodana)  		và hoàng hậu Ma Da
(Māyā)  		vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày nay, mặc dù điều này vẫn đang
được  		nghiên cứu chứng minh về sự thật. Người dân 
cho biết rằng, ngôi  		mộ lớn là của Vua Tịnh Phạn và ngôi mộ nhỏ là của
hoàng hậu Ma Da.
 
 3. Làng Kudan
Cách  		 		Tilaurakot  		khoảng 1 km về hướng Tây Nam là vườn cây  		
Nigrodha thuộc làng Kudan, nơi  		vua Tịnh Phạn hội ngộ với Đức Phật sau
13 năm trời xa cách với biết bao  		thương nhớ và hy vọng mà phụ hoàng 
đã dành cho thái tử. Vì vậy, đức vua  		đã yêu cầu Phật, sau này bất cứ 
ai muốn trở thành sa môn thì phải được  		sự chấp thuận của cha mẹ, nếu 
họ còn sống. Đức Phật chấp nhận lời đề  		nghị của vua cha. Tại nơi đây,
vua Tịnh Phạn đã sắc lệnh cho xây dựng  		ngôi tịnh xá tên là 
Nigrodhamma, làm nơi tu hành của đức Phật và cháu  		đích tôn Ra Hầu La 
(Rāhula) khi trở về  		thăm bổn quốc . Tại ngôi tịnh xá này, Đức Phật đã
trải qua mùa an cư thứ  		15 và thuyết một số bài kinh tiêu biểu như: Tiểu
Kinh Khổ Uẩn (số  		14), kinh Mật Hoàn (số 18) … thuộc Trung
Bộ kinh.
 
 4. Sagarhavā, nơi dòng họ Thích Ca bị thảm sát
Cuộc thảm sát  		đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā)  		bởi lòng
hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly (Vidūdabha),  		được ghi lại một 
cách chi tiết trong kinh Tăng Nhất A Hàm. Từ Ca  		Tỳ La Vệ 
(Kapilavatthu) đi về hướng Tây  		Bắc 10 km chúng ta sẽ đến một khu làng
dân cư thưa thớt, nằm giữa khu  		làng là một cái bể hình chữ nhật dài 
500m tên Lambu Sagar. Nơi này đã  		được ghi nhận là nơi xảy ra cuộc 
thảm sát do vua Tỳ Lưu Ly, người kế  		thừa vương vị của vua Ba Tư Nặc 
(Pasenadi), nước Kiều Tát La (Kosala),  		đã tàn sát dòng họ Thích Ca. 
Nơi đây người ta tìm thấy 17 ngọn tháp cổ  		và một vài di tích cổ còn 
sót lại. Những tảng đá mang hình hoa sen nở và  		các vũ khí thời xưa. 
Trong một ngôi tháp người ta phát hiện một cái  		rương bằng đất nung 
đựng xương xá lợi, vàng bạc, đá quý và nhiều đồ  		trang sức.
Nguyên nhân của  		cuộc thảm sát này, bắt nguồn từ dòng họ Thích Ca 
những người đã miệt thị  		thái tử Tỳ Lưu Ly, con của vua Ba Tư Nặc.  		
Khi vua Ba Tư  		Nặc gởi một sứ thần sang Ca Tỳ La Vệ để tìm bang giao 
với dòng họ Thích  		qua một cuộc hôn nhân, dòng họ Thích cho rằng nhà 
vua không phải thuộc  		người trong tộc nên đã gả cho nhà vua một đứa 
con gái tên là 		Vasabha  		Khattiya con của người thị nữ lai huyết 
thống của hai giai cấp  		giữa Sát Đế Lợi và Chiên Đà La đồng thời kèm 
theo của hồi môn rộng rãi.  		Vua Ba Tư Nặc đã phong bà làm hoàng hậu và
phong con bà Tỳ Lưu Ly làm  		thái tử. Năm lên bảy tuổi, có một lần Tỳ 
Lưu Ly bị mặc cảm vì không được  		nhận quà từ bà ngoại trong khi các 
công tử khác đều có. Năm 16 tuổi  		hoàng tử thiếu niên Tỳ Lưu Ly về lại
Ca Tỳ La Vệ thăm cậu để học hỏi với  		các hoàng tử họ Thích. Khi đến 
phía Nam của hoàng thành, chàng thấy một  		giảng đường rất mới, nên cho
xe dừng lại để ngắm nhìn. Những người dòng  		họ Thích biết thế nên đã 
đuổi chàng bằng những lời đầy khinh thị: “Vô lễ  		kẻ hạ tiện kia! dám 
choáng chỗ của người dòng họ Thích, nơi để đón rước  		Đức Phật”. Vì bị 
sỉ nhục và biết rằng cha mình bị dòng họ Thích Ca lường  		gạt nên Tỳ 
Lưu Ly nuôi mối hận này và quyết lòng san bằng kinh thành Ca  		Tỳ La Vệ
để rửa hận. Vì vậy, khi nhiếp chính thay vua Ba Tư Nặc, Tỳ Lưu  		Ly 
mang đoàn quân thiện chiến sát phạt toàn bộ dòng tộc Thích Ca.
 Hồ này là di  		chứng của một dòng sông đẫm máu của bộ tộc Thích Ca 
thời xa xưa, nó đã  		chứa đựng biết bao vong hồn oan nghiệt, những 
tiếng kêu thảm thiết của  		những người vô tội. Và trong kinh chép lại 
rằng, cũng ngay trong đêm ấy,  		đoàn quân thiện chiến của vua Tỳ Lưu Ly
cũng bị nước lũ cuốn trôi. Thật  		đúng câu “ác giả ác báo”. Nói đến 
đây tôi bỗng dưng nhớ đến câu nói của  		Hoà thượng Huyền Diệu, có biệt 
danh Người Làm Vườn, được khắc tại Việt  		Nam Phật Quốc Tự ở Lâm Tỳ Ni:
“Nếu anh thật sự là một con người, không  		làm được điều gì lợi ích 
cho chúng sanh, thì anh cũng đừng làm đau khổ  		chúng sanh”.
 
5. Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) ở Ấn Độ
 
  Thành Ca  		Tỳ La Vệ mới - Ấn  		Độ.  Ảnh: Tâm 
Bửu
Cách Lâm Tỳ Ni (Lumbinī) 25 km về phía Ấn Độ, địa  		phận  Piprahwa, 
có một  		kinh thành của dòng họ Thích Ca. Người ta cho rằng, Ca Tỳ La 
Vệ (Kapilavatthu)  		này được xây dựng là do nhóm người Thích Ca sống 
sót di dời đến nơi này  		và lập nên một kinh thành Ca Tỳ La Vệ mới.  		
Thành Ca Tỳ La Vệ tại Ấn Độ thuộc bang Uttar Pradesh cũng hoang tàn đổ  
nát không khác chi thành Ca Tỳ La Vệ ở Nepal.
Vào 8 giờ sáng chúng tôi đã đến nơi được xác định là thành Ca Tỳ La 
Vệ  		mới, nằm cách mặt lộ chính khoảng 100 m và cách biên giới khoảng 
hơn 30  		km. Vì  		trời còn sớm  nên sương mù vẫn còn lãng đãng  		bay 
và đọng đầy trên các ngọn cỏ. Cư dân quanh vùng thưa thớt, vài xóm  		
nhà nghèo lác đác hai bên đường. Đây cũng chính là nét đặc trưng phản  	
ảnh cuộc sống thôn quê hầu hết trên đất Ấn.
Đối diện với cổng chính khoảng 100 m, là nền tháp chính, chu vi 
khoảng  		80 mét vuông, cũng chỉ là những nền gạch cũ rêu phong, vẫn còn
ướt đẫm  		sương buổi sớm. Trong tháp chính này, người ta đã khai quật 
được xương  		xá lợi của Phật và chư tăng dòng họ Thích Ca. Dọc theo lối
vào, phía bên  		tay phải, có một bờ tường chạy dài từ cổng chính đến 
nền tháp cao khoảng  		2,5 m là khu tự viện được xây dựng bao bọc quanh 
tháp chính. Phía sau  		tháp chính khoảng 150 m hướng về phía Tây, gần 
khu vườn xoài của người  		dân, cũng có một nền gạch tu viện cũ, hình 
vuông, tường thành rất dày và  		có những nấc thang đi vào bên trong. 
Cảnh trí nơi Ca Tỳ La Vệ mới này  		cũng được chăm sóc khá chu đáo. Cỏ 
thảm được trồng gần như khắp khuôn  		viên, một vài khóm hoa đang nở vào
dịp xuân, khí trời còn se 		 		 		sắt lạnh. Trong khuôn viên có 		ao 
nước  		khá to được người ta trồng hoa súng, trông  		ngây thơ và hiền 
lành giữa một bầu thiên nhiên êm ả mà thỉnh thoảng mới  		có bước chân 
người lui tới.
Sau một giờ tham quan và quay phim ghi hình lưu niệm,  		đoàn chúng 
tôi lên xe tiếp tục cuộc hành trình vượt biên giới Ấn Độ đến  		thánh 
địa Lâm Tỳ Ni thuộc địa phận Nepal.