Nguyên tắc vì dân của Trần Nhân Tông thật giản
dị: Bộ máy cai trị càng ít, quan lại ít phải điều hành là điều vì dân
hiệu quả nhất, thiết thực nhất.
LTS: Một đất nước, một
dân tộc có thịnh vượng hay không, nằm ở những sức mạnh tự thân của dân
tộc đó, chủ yếu và sự đoàn kết dân tộc và đường lối phát triển sáng
suốt. Tâm huyết, trí tuệ, tầm nhìn, nhân cách... của những lãnh tụ là
quyết định thành bại của dân tộc. Tuần Việt Nam xin giới thiệu chân dung
một số danh nhân đất Việt mà tâm huyết, tư duy và hành động của họ vẫn
là những bài học còn nguyên giá trị.
Bài viết sau thể hiện góc nhìn của nhà
nghiên cứu lịch sử Hà Văn Thịnh - Đại học Khoa học Huế.
Ước gì hiểu được trái tim người...
Trong nghiệp sử sinh nghề bạc tóc của
tôi, nếu phải chọn một trong 10 nhân vật đã và đang làm cho tôi phải
trăn trở nhiều nhất, suy tư nhọc nhằn nhất thì chắc chắn phải có tên Vua
Trần Nhân Tông (1258-1308).
Cuộc đời kỳ lạ của ông, những đóng góp
to lớn (đạt đến tầm vĩ đại) của ông cho dù đã được 700 năm có lẻ của
lịch sử phân định, vẫn chưa có hồi kết; thậm chí vẫn có không ít những
khe khắt, dè dặt mà ta không thể hiểu rõ do đâu(!)
Một trong những dẫn chứng có thể thấy rõ
nhất là những đường phố mang tên ông trên tất cả mọi thành phố đều là
những đường phố nhỏ - nhỏ hơn, ngắn hơn rất nhiều so với đường phố mang
tên một vị tướng thuộc quyền như Trần Hưng Đạo...
|
Tượng Phật hòang Trần Nhân Tông, Ảnh: Website Côn Sơn - Kiếp Bạc |
Nói đến Trần Nhân Tông trước hết là nói
đến chữ Nhân. Chữ Nhân như tên ông đã cùng ông đi suốt cả cuộc
đời. Ông không màng đến danh lợi, thậm chí đã trốn vào chùa khi hay tin
vua cha muốn ông kế nghiệp ngôi vua.
Thế rồi, cũng vì cái lẽ nhân mà Trần
Nhân Tông đã ra làm vua trong 15 năm. Một thập kỷ rưỡi đó ông làm được
thật nhiều điều. Một trong những chiến công vĩ đại mà không một vị vua
đương thời nào có thể làm được là ông đã chỉ huy cả dân tộc hai lần đánh
thắng giặc Nguyên Mông (1285 - 1288).
Ở cái thời mà người ta đua nhau ngợi ca
vua chúa, quý tộc thì Trần Nhân Tông làm thơ ca ngợi cả một người lính
già: Người lính già đầu bạc/ Kể mãi chuyện Nguyên Phong. Đánh
giặc xong rồi, vào thành Thăng Long thấy thư đầu hàng giặc chất đầy mấy
rương lớn, Trần Nhân Tông sai đốt hết để khỏi phải truy xét, khỏi phải
giết thêm hàng trăm người lầm đường theo giặc. Tất nhiên, đây là điều
cần bàn bởi nếu tha hết cho những điều giả trá, lọc lừa thì cái nhân đó
cũng gây nên những hậu quả khó lường.
Tuy nhiên, nếu xét tổng thể cả cuộc đời
của Trần Nhân Tông thì chúng ta có thể hiểu cách làm ấy của Phật Hoàng
là một lẽ tự nhiên. Nếu không có lòng nhân tỏa khắp và sâu sắc thì không
thể viết nên hai câu thơ mà 700 năm rồi vẫn làm cho lòng người thổn
thức: Số đời một màn kéo Tình người đôi mắt ngân.
Mới đây, nhà văn Nguyễn Quang Thiều than
rằng chúng
ta đang bỏ quên mất ngôi chùa thiêng liêng nhất của dân tộc là lòng
người. Đó là một luận suy chính xác, một tiếng thở dài não nuột.
Tại sao cái lòng nhân - "tình người" tha thiết để cho "đôi mắt ngân" mà
con cháu của vua Trần Nhân Tông, 700 năm rồi vẫn không chịu biết, chẳng
chịu hiểu cho?
"Đất nước bé bằng bàn tay, quan nhiều
như thế, dân làm sao sống nổi?"
Cái nhân cao cả nhất của vua Trần Nhân
Tông là ông luôn đặt lợi ích của dân, của đất nước, dân tộc lên trên hết
thảy. Nhường ngôi cho con (Trần Anh Tông) khi 35 tuổi là điều mà chưa
một vị vua nào trên trái đất này làm được - kể từ khi có nhà nước(!)
Ít lâu sau quay lại thăm nom con cái,
thấy Trần Anh Tông thăng quan tước cho hàng trăm người, Phật Hoàng Trần
Nhân Tông tức giận đến mức vất cái danh sách dài dằng dặc ấy ra giữa sân
rồng và nói như thét lên bằng tiếng thét xé lòng: Đất nước bé bằng
bàn tay, quan nhiều như thế, dân làm sao sống nổi?
Tiếng thét đó đã bay qua 7 thế kỷ rồi mà
ta vẫn thấy như mới hôm trước, hôm nay. Thì ra, nguyên tắc vì dân của
Trần Nhân Tông giản dị lắm: Bộ máy cai trị càng ít, quan lại ít phải
điều hành là điều vì dân hiệu quả nhất, thiết thực nhất.
Chợt nghĩ, dưới triều Nguyễn, cả nước
chỉ có chưa đến 3.000 quan chức; thế mà, ngày nay, chỉ riêng thành phố
Hải Phòng đã có đến 4.000 công chức ăn lương nhà nước thì quả là điều
đáng ngại, đáng lo. Hai trăm năm trước có một vị quan cũng than lên như
thế khi thấy gánh nặng nuôi quan đè nặng lên đầu dân, là Ngô Thì Nhậm.
|
Trần
Nhân Tông là người đầu tiên và hầu như là duy nhất coi tiếng dân, lòng
dân, sức mạnh của dân là điều thiêng liêng nhất. Chính vì thế mới có Hội
nghị Diên Hồng (12.1284), Ảnh: ST |
Nói đến Trần Nhân Tông là nói đến tầm
nhìn xa, trông rộng. Giặc Nguyên Mông và mối lo canh cánh về hiểm họa từ
các triều đại phong kiến phương Bắc đã đưa đến một quyết định phi
thường: Ông bằng lòng gả người con gái duy nhất là công chúa Huyền Trân
cho Chế Mân để nước Đại Việt có được dải đất từ sông Gianh đến sông Thu
Bồn. "Việt điểu sào nam chi" (con chim khôn của Nước Việt phải
biết chọn cành phương Nam mà làm tổ) là điều người xưa căn dặn. Trần
Nhân Tông hiểu rõ lẽ đó và càng biết rõ hơn rằng khi đứng trên đỉnh Hải
Vân, có thể "nhìn" thất mũi Cà Mau!
Rất nhiều bậc danh sĩ, vua chúa trong
thời cổ đại (trên toàn thế giới) nói đến chuyện "quốc dĩ dân vi bản"
(lấy dân làm gốc). Nhưng Trần Nhân Tông là người đầu tiên và hầu như là
duy nhất coi tiếng dân, lòng dân, sức mạnh của dân là điều thiêng liêng
nhất. Chính vì thế mới có Hội nghị Diên Hồng (12.1284). Ở đây, từ câu
chuyện của Diên Hồng, chúng ta thấy vua Trần Nhân Tông nể trọng dân, tin
dân đến mức nào!
Điều vĩ đại vô giá của "câu chuyện" này
là Trần Nhân Tông thấy rõ những mất mát, đau thương mà người dân phải
gánh chịu nếu chiến tranh xảy ra. Ông không muốn tự mình quyết định khi
dân không muốn, dân không chịu nổi. Một khi dân đã đồng lòng thì vận
nước mới thịnh hưng, thành công mới đến, chiến thắng mới rủ gọi nhau về.
Nhiều vua Trần đã đi tu và các nhà sử
học cho rằng đó là thời thịnh Phật. Nếu chỉ dừng lại như thế thôi thì
không có nhiều lẽ để bàn. Cái "uẩn khúc" của lịch sử là ở chỗ này: Thời
Trần có cuộc chiến tranh 30 năm với 3 lần đánh thắng Nguyên Mông
(1258. 1285, 1288); do vậy, nhiều giá trị đạo đức bị đảo lộn, nhiều thói
đời xấu xa lộng hành, nhiều sự ngang ngược (đồng hành của chiến tranh)
thao túng nên rất cần phải chỉnh đốn đạo đức, thói tục; rất cần lập lại
kỷ cương...
Trần Nhân Tông nói riêng và triều đại
Trần nói chung đã khắc phục tất cả những sự đứt đoạn, tắc trách đó của
lịch sử, của văn hóa dân tộc bằng cách nương nhờ bóng Phật. Phật ở đây
là từ bi hỉ xả; là lòng nhân, là trách nhiệm với đời, bổn phận với
người.
Trúc Lâm Yên Tử đã ra đời trong bối cảnh
đó. Đó là giáo phái Phật giáo của riêng Việt Nam (duy nhất) do người
Việt Nam sáng lập. Nó vừa đáp ứng được sự chấn hưng văn hóa, duy trì dạo
đức, cưỡng chế và răn đe dục vọng; vừa là cái bản sắc riêng của Việt
Nam, khác nhiều với các giáo phái Phập pháp Bắc Tông (Mahayana) từ
phương Bắc dội đến.
Bây giờ ta nói đó là việc làm có nhiều ý
nghĩa nhưng thử suy rộng ra sẽ thấy cách nghĩ, tầm nhìn xa của Trần
Nhân Tông nó sâu sắc và độc đáo đến mức nào!
Tôi đã "yêu" Trần Nhân Tông đến mức đã
từng làm 'thơ" về ông (để trong ngoặc kép vì nó chưa được đăng bao giờ).
Đầu đề là "Ước gì hiểu được trái tim người". Trong bài đó có những câu
như: Bảy thế kỷ chai mòn dĩ vãng/Tìm lại Người đau nhức những khen
chê... Ông than nỗi nhiều quan dân khó/Sao ông chẳng ở lại thêm để giúp
ích cho đời/ Ông tha hết cho những điều giả trá/Con biết lấy gì để tin
nữa ông ơi? Mây Yên Tử dàu dàu dáng núi/Thiền Trúc lâm đau đáu hình
Người/ Nhân Tông ơi chuyện đời khó nói/Người lính già thuở ấy, có ham
vui?...
Trần Nhân Tông yêu tha thiết mùa Xuân.
Trong 35 bài thơ ông để lại (tổng cộng 173 câu thơ), Trần Nhân Tông nhắc
đến chữ Xuân 18 lần. Mùa Xuân và tình ý trong thơ ông là cái
Nhân nồng nàn, cảm động. Chợt giật mình vì mấy hôm nay dư luận đang ồn
ào chuyện chúng ta ăn Tết tốn kém quá, lãng phí quá và đây đó còn thiếu
văn hóa...
700 năm trước, Trần Nhân Tông đã nhắc
nhở điều này: Đừng để tầm thường xuân luống qua... Phải chăng
người là một nhà tiên tri?
* Kỳ 2: Trần Nhân Tông và chính sách ngoại giao
mềm dẻo
Hà Văn Thịnh (Tuần Viện
Nam)